XUÂN ĐÌNH 春庭 là Sân trong nhà vào mùa xuân, hoa cỏ xinh tươi đẹp đẽ; Nên Xuân Đình chỉ nơi gia đình họp mặt vui vẻ như trong mùa xuân.
Tiễn đưa một chén quan hà,
XUÂN ĐÌNH thoắt đã dạo ra Cao Đình.
XUÂN ĐƯỜNG 椿堂 : ĐƯỜNG 堂 là cái phòng lớn trong nhà, nơi ngày xưa cha mẹ thường ngồi ở đó như phòng khách hiện nay. XUÂN 椿 là một loại cây to, có xuất xứ từ chương Tiêu Dao Du 逍遥游 trong sách Trang Tử 莊子: XUÂN là một loại cây cao bóng cả vút tận mây xanh, có chu kỳ sinh trưởng là ba vạn hai ngàn năm, tám ngàn năm là mùa xuân, tám ngàn năm là mùa thu; được dùng để ví với người cha trong nhà, ôm ấp đùm bọc và che chở cho gia đình; Vì thế nên mới hình thành từ XUÂN ĐƯỜNG để chỉ người CHA trong văn học cổ.
Trong Truyện Kiều khi vừa hẹn ước thề nguyền với Thúy Kiều xong, thì chàng Kim được tin cha gọi về để đi Liêu Dương hộ tang chú :
Liêu Dương cách trở sơn khê,
XUÂN ĐƯỜNG kíp gọi sinh về hộ tang.
Khi được Thúc Sinh chuộc ra khỏi lầu xanh, Thúy Kiều khi đầu gối tay ấp với chàng Thúc, cũng đã biết thân biết phận của mình, sợ chàng Thúc chỉ biết "Mặn tình cát lũy" mà "nhạt tình tao khang" nên trong đêm đã khuyên chàng Thúc về thăm vợ cả là Hoạn Thư. Thúc Sinh đã nghe theo, nên mới...
Rạng ra trình lại XUÂN ĐƯỜNG,
Thúc Ông cũng vội khuyên chàng quy gia.

Cây Xuân và Cỏ Huyên
XUÂN HUYÊN 椿萱 : HUYÊN là HUYÊN THẢO 萱草 (諼草) còn được gọi là Hoa Kim Châm 金針花 hay Vong Ưu Thảo 忘憂草 là Cỏ làm cho quên buồn phiền. Có xuất xứ từ Kinh Thi 詩經.衞風.伯兮 bài Bá Hề chương Vệ Phong như sau :
焉得諼草, Yên đắc HUYÊN THẢO,
言樹之背。 Ngôn thụ chi bối.
愿言思伯, Nguyện ngôn tư bá,
使我心痗。 Sử ngã tâm mội.
Có nghĩa :
Làm sao có được cỏ HUYÊN,
Trồng ở mặt BẮC bên hiên mái nhà.
Mong người chinh chiến nơi xa,
Ra vào tưởng nhớ lòng ta ngậm ngùi !
Sau được dùng để chỉ người mẹ, vì mẹ thường ở phòng mặt Bắc. Nên các du tử ngày xưa khi muốn đi xa nhà thường trồng loại cỏ HUYÊN nầy ở mặt bắc nhà, để cho bà mẹ trông thấy hoa Vô ưu nầy nở như trông thấy con vậy. Dần dà HUYÊN THẢO trở thành biểu tượng của bà mẹ và được trồng ở trong phòng khách nơi mẹ thường ngồi, nở hoa màu vàng, gọi là Hoa Kim Châm, có mùi hương nhẹ, ăn được. Thường dùng để nấu canh. Nên XUÂN ĐƯỜNG là Cha; còn HUYÊN ĐƯỜNG là Mẹ và gọi chung Cha Mẹ là XUÂN HUYÊN.
Trong Truyện Kiều sau khi "gởi gắm" Kim Trọng lại cho Thúy Vân, thì Thúy Kiều "Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng" khiến cho...
XUÂN HUYÊN chợt tỉnh giấc nộng
Một nhà tấp nập kẻ trong người ngoài.
Còn chàng Kim thì khi trở lại Vườn Thúy tìm Kiều không gặp. Trãi qua "Biết bao công mượn, của thuê" và "Cắt người tìm tõi, đưa tờ nhắn nhe" đều không có kết quả, khiến cho chàng Kim "Thẫn thờ lúc tỉnh lúc mê, Máu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao" nên cũng khiến cho...
XUÂN HUYÊN lo sợ xiết bao,
Quá ra, khi đến thế nào mà hay!

Xuân Lan Thu Cúc
XUÂN LAN THU CÚC 春蘭秋菊 là Hoa Lan của mùa xuân và Hoa Cúc của mùa thu, chỉ mỗi loại mỗi mùa đều có cái đẹp riêng, nửa cân tám lạng không ai hơn ai cả. Có xuất xứ từ 《Sở Từ. Cửu Ca. Lễ Hồn 楚辞·九歌·礼魂》: Xuân Lan Thu Cúc các nhất thời chi tú dã 春蘭秋菊各一時之秀也。Có nghĩa : Xuân Lan Thu Cúc đều có cái đẹp nhất thời của nó. Nên trong văn học cổ dùng để ví những vẻ đẹp khác nhau mà không thể nào so sánh được là ai hơn ai.
Trong tiết Thanh Minh khi đi Đạp thanh, gặp được chị em Thúy Kiều, cụ Nguyễn Du đã cho chàng Kim nhận xét đánh giá...
Bóng hồng nhác thấy nẽo xa,
XUÂN LAN THU CÚC mặn mà cả hai !
XUÂN SƠN 春山 là Núi vào mùa xuân. Có xuất xứ từ Hồi thứ 9 trong "Lão Tàn Du Ký"《老殘遊記》第九回 : Kiến nả nữ tử... du hiễn đắc my tự xuân sơn, nhãn như thu thủy「見那女子... 愈顯得眉似春山,眼如秋水。」Có nghĩa : "Trông thấy cô bé đó... càng tỏ rõ mày xanh như núi mùa xuân, mắt trong như nước mùa thu". Chỉ vẻ đẹp mặn mà của các cô gái đương xuân.
Cụ Nguyễn Du đã tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều Thúy Vân là :
Làn Thu Thủy, nét XUÂN SƠN,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh !

Làn Thu Thủy, nét XUÂN SƠN,
XUÂN VI 春圍 : VI là Vòng vây, là Khuôn viên; nên XUÂN VI là cái Khuôn viên, nơi để cho các sĩ tử làm bài thi. Trong chế độ khoa cử ngày xưa, Thi Hội để lấy Tiến Sĩ thường được tổ chức vào mùa xuân, nên gọi là XUÂN VI 春圍 : Trường Thi vào mùa xuân. Trong truyện thơ Nôm "Lâm Tuyền Kỳ Ngộ" có câu :
Thanh vân đường hãy thênh thênh rộng,
Một áng XUÂN VI chẳng mấy lâu.