Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2025

TRUYỆN TRUYỀN KỲ :ĐÀM PHỤNG NGỮ - KHA TIỆM LY

 




Truyện truyền kỳ

ĐÀM PHỤNG NGỮ
1. Vị Nghĩa Đường
Du Nguyên, người Hồ Nam, con nhà hào phú nhưng lại chuyên chú sách đèn. Lại khôi ngô tuấn tú, thông tuệ hơn người; bảy tuổi đã làu thông ngũ kinh tứ thư. Mười tám tuổi thi văn thơ nức tiếng một vùng.
Năm Canh Ngọ, lều chõng lên kinh ứng thí, tận mắt thấy cảnh sĩ tử đút lót cho bọn quan lại; cho là thô bĩ, khinh miệt bỏ về. Trên đường gặp phải bọn cướp, lột hết tiền lưng. Từ đó có ý định bỏ văn học võ.
Đến nhà thưa lại với cha. Du ông mắng:
- Làm trai mà không chịu tên đề bảng hổ, rạng rỡ tổ tông; lại muốn múa quyền luyện kiếm, ý muốn theo bọn mãi võ kiếm ăn, hay làm thảo khấu chốn sơn lâm?
- Con tận mắt chứng kiến lũ giòi bọ đi thi, và bọn quan trường sâu mọt; thì cái bảng hổ mà phụ thân nói, nó có giá trị gì? Đó chẳng qua là sự mua bán đê hèn. Với bọn nầy, áo mão triều đình chỉ là chỗ dựa để bòn rút xương máu lê dân. Lưỡi kiếm bén thường uống máu người nhưng cũng chẳng tanh hôi bằng loại bút mực làm đảo điên thiên hạ.
Du ông nghe cũng có lý, bèn cho chàng lên núi tầm sư. Được năm năm, mười tám ban võ nghệ đều thông.
Chẳng bao lâu thì Du ông về trời!
Vốn lòng hào hiệp, Du kết giao với hảo hán bốn phương; kể cả những thư sinh chuyên nghề nghiên bút. Bên Đông gia trang, Du lập một trại lớn, gọi là Vị Nghĩa Đường để dung nạp những người tài hoa lỡ vận. Thường ngày bố thí bá tánh; khi gặp thiên tai, tiền của bỏ ra không hề xót. Với người quẫn bách, Du lúc nào cũng sẵn sàng mở hòm giúp đỡ, chẳng cần biết kẻ ấy là ai. Vì thế cũng không ít người lợi dụng, kể cả những hạng thất phu tháng ngày lê la kiếm chác rượu trà!
Vị Nghĩa Đường lúc nào người cũng đầy, mà gia sản càng lúc một vơi, thế mà lòng Du chẳng hề hối tiếc.
Một chiều, Du đang uống rượu cùng hai người khách vận y phục võ lâm; thì có một thư sinh xin tiếp kiến. Du mời ngồi, tự rót rượu dâng, hỏi thăm quê quán, tánh danh. Thư sinh đáp:
- Kẻ hèn họ Đàm, tên Phụng Ngữ, nhà ở hướng tây. Suốt năm nay nhờ hạt cơm của Vị Nghĩa Đường mà không phải chết ở bụi bờ. Chẳng qua là phận bèo bọt, phần Vị Nghĩa Đường tân khách như vân, nên không được Du huynh hạ cố đó thôi!
Người họ Tạ có ý khinh thường:
- Thì ra lại có kẻ sống bám vào người!
Người kia họ Quách, càng cay cú:
- Ta thấy ngươi da trắng môi hồng, nên vận yếm đào, giả thành nhi nữ, vào “Mỵ Hoa Hương” sẽ được lắm người mê mệt!
Nói rồi cả hai đều phát lên cười hô hố. Du ngăn:
- Nhị vị chớ quá lời. Là người nhà cả mà.
Đàm cười, để lộ hai hàm răng trắng đều như bạch ngọc, vòng tay về phía Tạ, Quách thi lễ:
- Chẳng hay nhị vị là thần thánh phương nào đến viếng Du huynh, hay cũng chỉ là hạng ăn nhờ ở đậu như kẻ hèn nầy?
Bị vố đau, Tạ vỗ mạnh vào vai Đàm, định bóp cho xương vụn nát; nào ngờ vai Đàm cứng như đá, hắn nén đau, nén giận ngồi xuống. Đàm coi như không có hai người ở đó; nói với Du:
- Tiện sinh mạo muội tới đây dám nói một lời không phải: Bao năm nay nhờ ân đức của Du huynh mà bá tánh Nghi Xương đỡ phần đói rét; nhờ miếng cơm của Vị Nghĩa Đường mà bao anh tài đã đạt cao khoa. Nhưng tiếc rằng, Vị Nghĩa Đường cũng là nơi lẫn lộn vàng thau, chẳng khác gì trong đám lúa xanh lại chen nhiều cỏ dại, chúng lợi dụng mảnh đất mầu mỡ nầy mà nẩy nở sinh sôi. Có kẻ chỉ viết được vài câu văn mạt hạng, (liếc sang Quách, Tạ) hay biết dăm miếng võ mèo quào, cũng xưng là văn nhân, võ sĩ! Liêm sĩ chưa dính hết đầu tăm, nghĩa khí lận lưng chưa đủ, mà dám xưng là hảo hán anh hùng. Đó chẳng qua là những kẻ biếng lười, mượn Vị Nghĩa Đường miếng thịt miếng rượu để qua ngày đoạn tháng đó thôi! Nếu tình trạng nầy còn tiếp diễn, thì e rằng Du huynh dù có thiên điền vạn khoảnh, muôn dật huỳnh kim thì cũng phải tiêu tan! Mai kia Du gia ruộng vườn bán sạch, Vị Nghĩa Đường không gạo thổi cơm, chẳng biết bên cạnh Du huynh có còn ai cùng thưởng rượu nữa không?
Du hơi phật lòng nhưng chỉ nhíu mày không nói; cón Quách, Tạ thì mỉa mai:
- Rõ là lời nói của một cuồng sinh. Hồ đồ, bất phân cao hạ!
Không để ý đến lời của Quách, Tạ. Đàm tiếp:
- Du huynh hãy quên đi chuyện kết nghĩa Vườn Đào vì cổ kim có một; mà hãy để lòng đến chuyện Bàng Quyên. Bởi kẻ ti tiện đời nào cũng có. Trung ngôn nghịch nhỉ. Mong huynh chớ bỏ qua.
Nói đoạn bỏ đi.
Quả nhiên, chỉ một năm sau ruộng vườn hết sạch, Gia trang sờ gạo hết gạo, sờ muối hết muối. Tân khách bỏ đi hơn chín phần. Vị Nghĩa Đường vắng tợ chùa hoang; đến nỗi Du buồn tình thả bộ trọn vòng mà chẳng ai hay! Chợt Du thấy Đàm nằm co trong gian phòng cuối, bèn thấy vui trong lòng; hỏi:
- Đàm huynh vẫn còn ở lại à?
Đàm ngồi bật dậy:
- Chẳng qua là chờ đến ngày nầy đó thôi!
Biệt mình lỡ lời, Đàm vội đứng lên thi lễ:
- Du huynh chớ chấp! Tiểu đệ có thể mời Du huynh uống chén rượu suông để tạ lỗi chăng?
Qua vài chén rượu, Đàm mở lời:
- Bây giờ Du huynh có dự tính gì không?
Du lắc đầu:
- Điền sản bán sạch, một miếng bạc vụn không còn thì dự tính gì được chứ?
- Lúc trước Du huynh giúp người hàng vạn, nay hãy để tiểu đệ đến vay mượn lại, coi liệu thế nào?
Du dù vô vọng, nhưng cũng nghe theo. Thế nhưng trên cả sự bất ngờ, ngày nào Đàm cũng đem về nhiều bao ngân lượng. Du vui ra mặt; nói:
- Không ngờ trên đời nầy còn nhiều người biết trước biết sau như vậy. Trời không phụ lòng tốt của ta!
Đàm cùng vui theo, nhưng mỉm cười khó hiểu.
2. Đàm Phụng Ngữ.
Với ngân lượng đó, dù chỉ được vài phần như xưa nhưng cũng đủ làm cho Du gia trang hồi sinh.
Đàm tình nguyện bắt tay vào việc: Quán xuyến gia nhân, chiêu nạp tân khách. Mọi việc lớn nhỏ đều có tên, có chỗ hẳn hoi. Người nào việc nấy, nên gia trang lúc nào cũng kẻ ngược người xuôi. Tiếng thoi lại đưa lọc cọc, tiếng cửi lại chạy rập rình!... Đàm lại tự tay đong gạo thổi cơm nên mắm muối cũng không còn thừa mứa, hoang phí như xưa. Các tân khách cũng không ngoại lệ: Ai cày được thì cày; ai bừa được thì bừa. Lợi nhuận được chia theo công sức mỗi người. Kẻ giỏi võ, nhuần văn thì được người trong vùng rước về nhà để luyện võ ôn văn; kẻ có kỹ xảo thi ra chợ phô trương tài nghệ.
Người nghĩa dũng thất thời thì mừng ra mặt bởi không thẹn mình là kẻ ăn mượn, ở nhờ, lại thừa tiền bỏ túi, lận lưng; còn bọn vô lại biếng lười nay không còn cơ may bòn rút thì xấu hổ bỏ đi! Vị Nghĩa Đường đúng là hào môn vì nghĩa giúp người thất thế sa cơ; không còn là “viện tế bần” tạp nạp, trong đó có một phần bọn giá áo túi cơm.
Chẳng mấy chốc gia môn hưng vượng, bò trâu dần dần chuộc lại; vườn ruộng bờ lại liền bờ; hơn hẳn sản nghiệp của Du ông thuở trước. Du hài lòng lắm. Thấy Đàm quên ăn mất ngủ nên Du cũng tự mình bỏ bớt yến tiệc vui vầy. Một lần nói với Đàm:
- Thật không thể ngờ, bàn tay của hiền đệ cai quản việc nhà mà giới nữ lưu không sao sánh kịp.
Đàm lặng thinh, Du tiếp:
- Nếu ta có một người vợ giỏi giang như hiền đệ thi có phúc ba đời.
Đàm bụm miệng cười:
- Để được hưởng đôi tay chai như đá và đôi chân voi phải không?
- Cổ nhân có nói: “Xú phụ hữu đức”. Quý chi ở Hạ thị và vợ gã họ Tô?
Hôm ấy Du cùng Đàm uống rượu, khi đã ngà ngà. Đàm nhìn Du rồi nói:
- Huynh hãy nhìn đệ cho thỏa, bởi sáng mai không còn Đàm tiểu đệ nầy nữa đâu!
Du kinh hoàng:
- Hiền đệ nói gở gì vậy? Lại nỡ lòng bỏ huynh mà đi sao?
- Sáng mai tất biết!
Du lại hỏi; Đàm vẫn đáp ỡm ờ. Lại hỏi; lại đáp ỡm ờ! Mỗi lần như vậy Du tu một hơi vài chén, rồi gục xuống bàn hồi nào không biết.
Khi tỉnh dậy thì Đàm bỏ đi tự lúc nào! Lòng buồn, lửng thửng về phòng. Thì lạ thay! Đèn hoa sáng rực, hương thơm thoang thoảng. Nệm bông chăn chiếu mới tinh. Một tiểu thư vận lụa hồng ngồi nghiêng dáng mặt, tóc phủ tới lưng. Má phấn môi son, mi trường quá mục, cốt cách thanh kỳ. Bất chợt kiều nữ mỉm cười. Bấy nhiêu đó cũng đủ cho Du hồn xiêu phách lạc, tỉnh rượu mươi phần. Ấp úng hỏi:
- Tiểu thư là…
Kiều nữ quay lại, miệng tươi như hoa:
- Đã vội quên thế sao?
Rõ ràng là một tiểu thư diễm lệ phi thường. Du cứ nhìn trân. Bèn tiếp:
- Hãy xem con “xú phụ” nầy có đáng làm vợ chàng không?
Nghe hai tiếng “xú phụ”. Khấu bừng tỉnh; lắp bắp:
- Đàm… hiền đệ đó sao?
Rồi chạy đến ôm chầm. Da thịt mịn màng quyện hương thơm kỳ diệu làm Du ngây ngất:
- Ta có mắt như không. Ở cạnh tiên nương bao năm mà không biết!
Rồi một đêm Đàm nói:
- Cái kế lâu dài cho tử tôn không phải là để lại nhiều trân châu, dị ngọc; cũng không phải lưu lại nhiều bảo điển, kỳ thư; bởi chắc gì chúng có khả năng gìn giữ hay trình độ để nghiên cứu, tìm tòi? Chỉ có thi ân, rải đức, bố thí chúng sinh mới là sách lược cho tử tôn đời đời hưng vượng!
Du cười nhạo:
- Cây chưa ra hoa mà muốn bảo dưỡng trái rồi!
Đàm đặt tay chồng lên bụng mình, giẫy nẩy:
- Cái nầy không phải là “trái” hay sao?
Du cả mừng. Thế mà Đàm dòng châu lã chã. Du lòng ngập xót xa; dỗ dành một lát, Đàm mới gục đầu vào vai chồng, nức nở:
- Ơn cứu tử hoàn sanh thì dù cho tàn cái kiếp nầy cũng đáng mà thôi!
- Hiền thê nói chi lạ? “Cứu tử hoàn sanh” là sao ta không hiểu?
Đàm quẹt nước mắt vào áo chồng:
- Bây giờ thì không giấu chàng được nữa rồi. Thiếp đây vốn là chồn tiên. Bốn năm trước, chàng đã bỏ tiền để mua một con chồn già từ gã thợ săn. Đó là phụ thân của thiếp; nhờ vậy mà người không trễ cơ hội lên tiên. Nếu không thì thịt xương đã vào tay bụng bợm, chịu cảnh đọa đày; biết bao giờ mới được siêu thăng? Biết Du gia phải có ngày suy bại, thiếp phải tự mình đến để chỉnh hộ, hưng môn. Tưởng rằng ba năm vẹn ân tròn nghĩa, sẽ nối gót cha anh về chốn cõi trời; nào ngờ mãn vui thú gối chăn, giờ trong mình lại có mầm oan trái! Vì chàng mà bỏ ngàn năm tu luyện cũng đành, nhưng luật trời ai có tha cho?
Du bùi ngùi, thương vợ vô cùng mà không nói được lời nào.
Một ngày trong phòng sực nức hương thơm, lại nghe tiếng trẻ khóc chào đời. Du bèn chạy vào; Đàm mỉm cười chỉ đứa bé năm bên đẹp như tranh vẽ:
- Giọt máu nầy là của chính nhân quân tử, hào hiệp hơn người, lại được nuôi bằng tâm huyết của hồ tiên; sau nầy chắc chắn làm rạng rỡ tông môn. Du gia đã có người hương khói. Chàng hãy quyết tâm tu đạo. Hai mươi năm sau, nếu có duyên sẽ gặp nhau.
Du mãi miết nựng con mà không nghe lời Đàm nói. Đàm cũng rạng niềm vui:
- Chàng đặt tên con đi chứ?
- A ha! Ta có vợ hiền con đẹp nếu không gọi là Đại Phúc thì gọi là gì?
Đàm chỉ ngón tay vào trán chồng:
- Ân nghĩa đã đền đáp vẹn bề, không được đòi hỏi lôi thôi gì nữa nhé!
Du cười:
- Thói thường trả vốn phải trả lời. Ta cũng theo lệ ấy mà thôi.
Đàm bẹo nhẹ vào má con:
- Tên hào phú nầy gớm thật! Chứ cục cưng nầy không phải là lãi hay sao?
Từ đó mặt hoa đượm buồn, cờ đàn im tiếng. Đàm thường lui tới Vị Nghĩa Đường nói lời gởi gắm cùng tân khách anh hùng, lại dặn dò đám gia nhân hãy giữ lòng trung tín, chung lưng bồi đắp gia trang. Mọi người cho là điềm gở nhưng không tiện nói ra.
Đến một ngày, từ phòng bước ra, nàng vận y phục như mây, hương thơm ngào ngạt. đến hôn con, lạy chồng, và chấp tay xá dài các hào kiệt cùng gia nhân:
- Những lời ta đã nói, xin quý vị nể tình mà mà đáp ứng cho.
Đoạn quay sang chồng:
- Những lời thiếp dặn chàng chớ quên, thì sau nầy còn cơ hội gặp nhau. Đã đến giờ rồi…
Du rụng rời, nói không thành tiếng, vội nắm áo nàng, nhưng như nắm vào mây khói. Nàng vút mình lên, hình hài tan biến theo hư không!
Vị Nghĩa Đường bàn nhau lập miếu thờ. Kính là “Ân Đức Tiên Nương”
Lúc Đại Phú hai mươi tuổi, nhớ lời vợ, Du giao việc nhà cho con rồi ngao du về hướng tây. Từ đó không nghe tin gì nữa!
Một lần Càn Long du Giang Nam, có ghé Du gia trang, nghe kể chuyện lạ, bèn tự tay ban cho bốn chữ “Hiếu Nghĩa Nương Nương” thay cho “Ân Đức Tiên Nương”. Ban cho Du gia trang là “Giang Nam Kỳ Trang”, ban cho Du công tử (Đại Phúc) là “Tiểu Mạnh Thường”.
Những năm liệt cường xâu xé Trung Hoa, trong dòng người chạy loạn, có người nương nhờ tại “Giang Nam Kỳ Trang”, kể rằng; dù chung quanh bom đạn tơi bời, nhưng “Hiếu Nghĩa Nương Nương miếu” không vướng một mảnh đạn, ngày đêm vẫn nghi ngút khói hương./.


KHA TIỆM LY

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

* Các bạn có thể copy link hình và link video clip của youtube và dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ.