CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 13 tháng 8, 2025

HƯƠNG NHỚ - HUỲNH TÂM HOÀI



 HƯƠNG NHỚ

Má thường gội đầu bằng nước tro. Má dùng tro nhà bếp, bỏ vào thao nước ngâm một hồi lâu, chắt nước trong vào cái tô to. Má xõa búi tóc, khom lưng cuối gập người về phía trước cho tóc rủ hết xuống, một tay cầm cái tô nước trong màu hơi xẫm đổ từ từ vào đỉnh đầu. Má dùng tay còn lại vò từ đỉnh đầu xuống dòng tóc. Sau khi đổ hết tô nước, má dùng cả hai tay vò chùm tóc rỏ nước. Cuối cùng má vói tay cầm cái cán chiếc gáo múc nước, múc từng gáo xối từ đỉnh đầu để rửa sạch nước tro gội. Sau nhiều lần xoa rửa và vuốt nước, má dùng cái khăn rằn tiếp tục vuốt cho dòng tóc tạm ráo. Sau cùng má đứng thẳng người lên, hất mớ tóc ra phía sau. Nước còn đọng trong tóc làm ướt vã lưng áo. Nắng buổi trưa hâm hấp nóng. Má bước vào mái hiên ngồi trên chiếc ghế đẩu. Má tiếp tục nghiêng đầu hong nắng cho khô tóc và dùng chiếc lược làm bằng sừng trâu chải cho tóc suông. Thường khi như vậy tóc bị tẻ hoặc bị đứt ra dính vào kẽ lược. Má dùng hai ngón tay kẹp vuốt ra mớ tóc rời và quấn lại từng chụm nhỏ. Trong căn nhà vách lá tôi thường thấy vài nơi có vài chụm tóc được má nhét vào kẽ vách. Đôi vì bận rộn má quấn vội mớ tóc, trùm chiếc khăn rằn quấn túm lại và tất bật với công việc nhà. Sau nầy có khi má dùng trái bồ kết nấu trong nồi nước cho sôi, để nguội, gạn nước trong để gội đầu. Suốt một thời tuổi nhỏ gần má, tôi quen mùi với mái tóc má như một cái gì thân thiết lắm. Sau nầy gia đình khá giả và sản phẩm xà bông gội được phổ biến. Má không còn gội đầu với nước tro hoặc trái bồ kết thường như trước đây nhưng đôi lúc má lại gội đầu theo lối cũ. Má nói: “Gội bằng nước tro, hoặc trái bồ kết sạch hơn và không bị ngứa”. Cho dù thế nào, tôi vẫn nhớ mùi hương từ mái tóc má.

HƯƠNG NHỚ

Thưở nhỏ hay nép mình bên má
Mỗi lần ba la mắng con hư
Vòng tay má đón con che chở
Những làn roi nhè nhẹ đánh nư

Hương tóc má thơm mùi bồ kết
Vừa mới gội còn thấm áo vai
Con khẽ liếc nhìn lên tóc má
Một vừng đen thẫm rẽ đường ngôi

Tóc má tháng ngày soi ánh nắng
Cơ cực nuôi con tóc úa màu
Những sợi hoe vàng đầu chót tóc
Từng mấy gian nan má gánh vào

Ba năm từng đứa con nối gót
Chín đứa bòn hơi sức má gầy
Hương tóc một mùi thơm bồ kết
Thấm hồn mỗi đứa một bầu thương

Con lớn vào đời làm lính trận
Xa má dài năm tháng gian nan
Mỗi bận có về thăm làng xóm
Con ghiền hương tóc má gần con

HTH

Thứ Ba, 12 tháng 8, 2025

THƯƠNG MẢNH TRĂNG XƯA - THƠ HUY VỤ

 



THƯƠNG MẢNH TRĂNG XƯA *

Không riêng gì phố bỏ nhìn trăng
Thôn xóm hầu như chẳng đãi đằng
Chiếu lệ cho qua rằm tháng tám
Hững hờ điểm tới hội hoa đăng
Ngoài đê mấy thứ đèn xanh đỏ
Dưới phố biết bao sự nhập nhằng
Bản sắc ngàn năm đang biến mất
Những điều nghịch lý lại dường tăng.

Lại dường tăng mãi những u mê
Danh lợi triệt tiêu cả lối về
Nhân nghĩa đôi câu đâu kẻ trọng
Bạc tiền mấy chữ hỏi ai chê
Bên kia khói lửa đầy tang tóc
Phía nọ binh đao lắm não nề
Bỗng xót vầng trăng thời dĩ vãng
Những ngày thân ái đẫm tình quê.



HUY VỤ
12/08/2025

*Bây giờ từ thành phố về nông thôn đa số đều có đèn đường, ánh đèn làm cho ánh trăng muôn đời huyền ảo dần bị lãng quên

Thứ Hai, 11 tháng 8, 2025

XIN TRẢ TÔI VỀ - TRẦN HỮU NGƯ

 


XIN TRẢ TÔI VỀ
-Tôi nghe tin nhạc sĩ MẶC THẾ NHÂN đã qua đời ngày 8.8.2025 tại Saigon.
-Thành kính phân ưu cùng gia đình và vô cùng thương tiếc anh.
-Thế là thêm một người nhạc sĩ “rừng khóc” đã ra đi!
Trong nhiều nhạc sĩ miền Nam, tôi khoái một ông nhạc sĩ, khoái vì không những nhạc anh, mà khoái thêm vì cái tên của anh:
-MẶC-THẾ-NHÂN.
Vâng, ai làm vương làm tướng gì kệ họ, ai giàu sang vợ đẹp, con ngoan, nhà lầu xe hơi, quyền cao chức trọng cũng… “mặc thế nhân”. Chẳng thèm “cà nanh”.
Tên khai sinh của MẶC THẾ NHÂN là PHAN-CÔNG-THIÊT, sinh 1939 tại Gò Vấp (Saigon).
Anh là một nhạc sĩ, nhưng sáng tác rất ít, nổi tiếng với nhạc phẩm “Cho vừa lòng em” và “Trả tôi về”.
Anh chọn Bút hiệu “Mặc-Thế-Nhân”, có phải vì anh bất cần đời? Và ai làm gì cũng MKN (mặc kệ nó). Tôi bây giờ già rồi, nên cũng “mặc thế nhân”, miễn sao không bịnh tật, không đói là…OK. Nếu tui còn trẻ, tui sẽ xin phép thành lập đảng MKN, tôi tự nguyện ứng cử làm Đảng trưởng!
Và bây giờ, thỉnh thoảng có em “chân dài tới tai” kêu đi uống cà phê là sướng! Bỗng dưng về già tôi muốn làm chú Đạt và chơi thân với cháu Diễm trong tiểu thuyết Yêu của nhà văn, nhà báo Chu-Tử là sướng tê, vì Diễm đã nói rất thành thật với chú Đạt:
-Lớn lên cháu sẽ lấy chú Đạt.
Xin bái phục sư phụ Chu-Tử!
Những ngày “buồn tới nách”, không có gì để vui, tôi đi tìm nhạc cũ, tôi bắt gặp ca khúc TRẢ TÔI VỀ của Mặc-Thế-Nhân qua giọng ca Thiên-Trang (Trong CD “Cơn mê tình ái”).
Thú thật, dù ca sĩ Thiên-Trang chọn “Cơn mê tình ái” của Tuấn-Hải làm chủ đề cho CD này, nhưng tôi chọn “Trả tôi về” để viết cho bài viết ngắn này.
Thiên-Trang sinh năm 1951 tại Saigon. Cô đã từng đóng phim “Loan Mắt Nhung”, “Điệu Ru Nước Mắt”, và cô cũng từng là một ca sĩ quen thuộc của những Phòng trà Saigon từ trước 1975.



Khi bài hát này ra đời, do Diên Hồng Tổng phát hành, vào tháng 8 năm 1968, thì ca sĩ Thiên-Trang cũng thu thanh vào dĩa Việt-Nam do nhạc sĩ Văn-Giảng hòa âm.
“Trả tôi về” Gamme Ré Thứ, Giai điệu Boléro chậm (Slow Boléro), đoạn A có ba lời. Nghe và xem lại lời ca, tôi không biết nhạc sĩ Mặc-Thế-Nhân, đứng ở đâu để viết bài hát này? Bị “bắt cóc”, bắt lính, bắt quân dịch… nên anh viết nhạc và nhờ ca sĩ Thiên-Trang lên Đài Phát thanh “lan tỏa” “xin trả anh về” chăng? Và tại sao cái tựa chỉ có “Trả tôi về” mà trong bài hát lại có chữ “Xin”?
“… Xin trả tôi về ngày xưa thơ mộng đó
Bên mái tranh chiều ngồi ngắm áng mây trôi
Mẹ quê đun bếp nghèo thơm mùi rơm qua khói mờ
Ôi tình quê trìu mến
Xin trả tôi về miền quê hương nhỏ bé
Có lũy tre vàng bờ lúa sát ven đê
Giòng sông trôi lững lờ
Rung vầng trăng soi bóng mờ
Chuỗi ngày đẹp và thơ…
Xin trả tôi về thời xa xưa lộng gió
Bên khóm hoa cà rượt đuổi bướm tung tăng
Diều căng dây mái đình
Thương đầu xanh chưa biết buồn, chưa sầu, chưa hờn oán
Xin trả tôi về ngày xưa trong mùa lúa
Bên ánh lửa hồng mẹ thức nấu ngô khoai
Ngoài sân vang tiếng cười
Tan vần trăng khua tiếng chày
Thắm đượm vẹn tình quê
Xin trả tôi về vùng thơ ngây thuở đó
Chưa biết ưu sầu vì kiếp sống bôn ba
Tìm xa bao thói đời: vinh, nhục, hư trong kiếp người
Mờ lợi danh quyền thế
Xin trả tôi về miền quê hương nghèo khó
Có đám dân lành lòng chất phác vô tư
Ngày chăm lo cấy trồng
Đêm quần vui bên chén trà
Kể chuyện một ngày qua…”
Miền quê ngày ấy - một bức tranh đẹp quá - ngày xưa dù còn nghèo, nhưng “Xin trả tôi về” nơi chôn nhau cắt rún. Nhưng ngày nay người ta bỏ quê ra thành phố để mong “đổi đời” để thoát nghèo. Và có một thời chạy cho được hộ khẩu thành phố, Saigon, hoặc Hanoi. Nghĩ lại thấy mà… kinh, mà… hãi!
Xin cảm ơn nhạc sĩ Mặc-Thế-Nhân đã viết một bài hát “gợi nhớ quê nghèo” và ca sĩ Thiên-Trang đã cho nghe lại giọng hát của một thuở thanh xuân.
Riêng Mặc-Thế-Nhân tôi khoái anh quá, vì cuộc đời này anh là số một, là “dân chơi không sợ mưa rơi”: Mặc Thế Nhân.
Xin lỗi nhạc sĩ Mặc-Thế-Nhân, nếu tôi còn trẻ, tôi sẽ lấy Bút hiệu :
MẶC THẾ ĐỜI!
Thế là một nhạc sĩ “nhạc vàng” của miền Nam đã ra đi!
Cầu chúc hương hồn anh sớm siêu thoát.
Bài viết này, thay lời tiễn đưa anh.



TRẦN HỮU NGƯ
(Saigon, 8.8.2025)

Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2025

LẠI VỀ MẢNH ĐẤT SINH TÔI - THƠ TRẦN NGỌC HƯỞNG

 


LẠI VỀ MẢNH ĐẤT SINH TÔI
(Tặng Tân Thới, nơi sanh ra và nuôi lớn tôi)

... Phút xuồng gác lái đuôi tôm
Ghé bờ lòng chợt bồn chồn em ơi
Lại về mảnh đất sinh tôi
Sông Tiền chao mãi vành nôi dập dềnh

Tiếng chim nào vẫn lung liêng
Lời ru dan díu bốn bên rừng dừa
Qua cây cầu khỉ đong đưa
Nối đôi bờ lạch gió lùa men say

Miệt vườn tíu tít ong bay
Chùm chùm hoa nở hương vây lá cành
Cù lao bóng rợp cây xanh
Lắng nghe tiếng đất trở mình thân quen

Gặp từng ánh mắt hồn nhiên
Như màu lá nhuốm xanh thêm lòng mình
Chia xa mãi quắt quay tìm
Chẳng đành nói… chẳng đành im ngập ngừng

Có gì cháy dưới bàn chân
Bao người thân cũ đã nằm xuống đây
Trải qua đạn xới bom cày
Vị phù sa mảnh đất này vẫn tươi

Cho tôi phút hả hê cười
Chân trần bước dưới khoảng trời quê xưa
Cành chen trái chín đầu mùa
Hỡi em đã mát lòng chưa buổi về


 
Tân Thới 1985
TRẦN NGỌC HƯỞNG

*Bài thơ được giải nhứt Hội Văn nghệ Tiền Giang 1987. Nhà thơ Chế Lan Viên chấm. Ông khen bài thơ trong sáng tươi mát đặc biệt là hai câu cuối...

Thứ Bảy, 9 tháng 8, 2025

HƯƠNG THU - THƠ NHẬT QUANG

 



Tranh sơn dầu của NHẬT QUANG


HƯƠNG THU

Sương Thu
giăng nhẹ mờ xa
Heo may thỏang lạnh
trăng ngà vàng mơ
Phím loan vọng nhịp
cung chờ
Giọt trầm, giọt lắng
rơi bờ mộng xưa
Thu vàng
chạm khẽ song thưa
Bâng khuâng lời gió
gọi mùa lãng du
Thiên di lạc cánh sương mù
Mây trời lãng đãng
hương Thu dịu dàng
Ai ngồi hong tóc mơ màng...?
Cho hồn Thu đắm giữa ngàn lá rơi



J0S NHẬT QUANG


Thứ Sáu, 8 tháng 8, 2025

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO CÂY SẦU LẺ BẠN - TỪ KẾ TƯỜNG

 




AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO CÂY SẦU LẺ BẠN?

Trong thiên nhiên có những loài cây, hoa, trái... tên rất lạ, ở một nơi chốn rất quen nhưng phải đến một tuổi nào đó ta mới biết và chợt nhận ra ý nghĩa thâm sâu bên trong. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều loài cây, hoa, trái mọc hoang trong vườn, hàng rào, quanh bờ tre ta biết từ lúc tuổi thơ cho đến hết nửa đời người, hoặc khi đã nhắm mắt rời cõi tạm, ta vẫn không sao hiểu được cái tên của loài cây, hoa, trái đó. Thậm chí cây ăn trái trồng thành vườn, thành bờ, suốt năm tháng ở quanh ta mà ta vẫn không sao hiểu được ý nghĩa cái tên của cây. Vì thế nên thiên nhiên mới chứa điều bí ẩn, kỳ diệu.
Tôi ví dụ như cây sầu riêng. Hoa sầu riêng màu vàng tuyệt đẹp, bung nở trong nắng long lanh một góc trời, trái sầu riêng có gai nhọn, hột to, cơm mỏng, mùi vị đặc trưng nên trở thành đặc sản vùng miền vì không phải đất nào cũng trồng được cây sầu riêng. Cả cây sầu riêng từ thân cây, lá cây, hoa, trái... không có vẻ gì gợi đến sự liên tưởng cái tên "sầu riêng". Hay do sầu riêng có đặc điểm trái chín chỉ rụng vào ban đêm nên người đời mới đặt tên loài cây này là sầu riêng? Nỗi sầu riêng tư, chín rụng vào ban đêm để chỉ một mình mình biết, một mình mình hay?
Một ví dụ khác nữa là cây sầu đâu. Cây sầu đâu thân to, cao, cành, nhánh, lá sum sê, hoa từng chùm màu tín, trái cũng từng chùm, cỡ đầu ngón tay, hình bầu dục, khi chín màu vàng rất đẹp. Cơm trái sầu đâu chín ăn được. Đó là một lớp cơm mỏng, màu trắng đục, vị ngọt đắng, trẻ con thích bóc lớp vỏ trái sầu đâu chín vàng min để nhấm nháp lớp cơm ngọt đắng bên trong. Lá sầu đâu non mọc nhiều trong mùa mưa, làm món gỏi các sặc rất ngon. Cây sầu đâu mọc ở ven rào, ranh đất hay sau nhà, rất thân thiết với con người. Hà cớ gì lại có tên là sầu đâu?
Mới đây tôi lại được biết có một loài cây bụi, thân lá, thấp bé, trồng làm cảnh dưới thềm nhà. Loài cây thân bụi này có lá màu đỏ tím, những cánh lá mỏng, mọc phân tầng, phát triển nhanh, sống mãnh liệt, không có loài cỏ dại nào xâm lấn được. Là loài cây cảnh, thấp bé, nét đẹp hoang sơ, dân dã chứ không đài các. Kỳ lạ thay, cây lại mang tên "sầu lẻ bạn". Tôi xin loài cây chế ngự được cỏ dại này về trồng dưới những gốc mai, ven lối đi bên hồ, Không chỉ thế, tôi trồng thử trong chậu nhỏ đặt trên bàn làm cảnh vẫn phát triển tốt,
Mỗi sáng tôi ngồi uống trà, uống cà phê một mình ngắm cây rồi suy nghĩ mãi vẫn không hiểu tại sao và ai đã đặt tên cho cây "Sầu lẻ bạn"? Hay người lẻ bạn nên cây cũng lẻ bạn? Thật ra nhìn bề ngoài, từ thân đến lá, thể hiện màu sắc và sự phát triển nhanh chóng, lại rất dễ trồng tôi thấy loài cây này không có vẻ gì để phải bị mang tên là “Sầu lẻ bạn”. Nhớ hôm xin và nhổ được mấy bụi cây này mang về nhà trồng cứ cắm xuống đất tưới cho chút nước là cây mạnh khỏe sống, khoảng tuần lễ sau cây đã phát triển chia nhánh mới và mọc rễ từng chùm, cứ thế rễ cây cắm vào đất thành thế hệ F1, F2, F3… của họ hàng nhà “Sầu lẻ bạn”.
Chỉ sau một thời gian ngắn, dưới hai bên thềm nhà tôi đã có …một vườn “Sầu lẻ bạn” mọc tua tủa bất chấp giới hạn của cái bồn đất xây để trồng hoa làm cảnh mà tôi đã trồng rất nhiều loại hoa rồi vẫn thấy không phủ hợp. Đến khi trồng “sầu lẻ bạn” thì lại thấy rất hài hoa với cảnh quan chung quanh và trong vuông sân trước nhà. Thế là tôi lại thêm suy nghĩ về loài cây hoa này, nó không chỉ gắn kết với nhau để cùng phát triển mà còn gắn kết cả với chung quanh. Một loài cây hoa đẹp, lá đối xứng thành nhiều tầng với hai mặt hai màu khác nhau nói lên vẻ đẹp riêng biệt nhưng lại bị mang cái tên rất buồn là cây “Sầu lẻ bạn”.



TỪ KẾ TƯỜNG

Thứ Năm, 7 tháng 8, 2025

[CD04] TOP DÂN CA MIỀN TÂY HAY NHẤT 2025 CÔ ÚT THEO CHỒNG













THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH :XÍCH ,XUÂN,XUYÊN,XƯỚNG - ĐỖ CHIÊU ĐỨC

 


Thành Ngữ Điển Tích 124 :            
              XÍCH, XUÂN, XUYÊN, XƯỚNG.

                                          
       XÍCH THẰNG 赤繩 : Xích 赤 là màu Đỏ; Thằng 繩 là sợi Dây. Nên XÍCh THẰNG là "Sợi dây màu đỏ"; còn được gọi là Tơ Hồng, Chỉ Hồng, Chỉ thắm... theo tích Nguyệt Hạ Lão Nhân 月下老人 là Ông già dưới trăng như sau đây :
       Theo "Tục U Quái Lục" : Vi Cố 韋固 người đất Đỗ Lăng đời Đường, nhân qua chơi Tống Thành, gặp một ông già ngồi dưới ánh trăng đang lật xem một quyển sách và bên cạnh có một cuồn chỉ đỏ. Vi Cố hiếu kỳ hỏi, thì ông già cho biết rằng :"Đây là quyển sổ ghi tất cả nhân duyên của nam nữ trên đời nầy, chỉ cần lấy chỉ đỏ nầy buộc chân đôi nam nữ lại, thì dù cho có ở cách xa vạn dặm hay có thù hằn xích mích gì với nhau thì rốt cuộc cũng sẽ thành chồng thành vợ với nhau mà thôi."...
       Vì tích trên mà hình thành thành ngữ XÍCH THẰNG HỆ TÚC 赤繩繫足 là Chỉ đỏ buộc chân để chỉ nhân duyên đã được định đoạt sẵn cả rồi. Trong "Cung oán Ngâm Khúc" của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều gọi là "Xích Thằng Vướng Chân" với các câu  thơ sau :

                    Ngẫm nhân sự cớ chi ra thế, 
                    Sợi XÍCH THẰNG chi để VƯỚNG CHÂN.
                    Vắt tay nằm nghĩ cơ trần,
                    Nước dương muốn rẩy nguội dần lửa duyên. 

       Còn trong Truyện Kiều thì trong đêm thề ước, khi muốn nghe Thúy Kiều gảy đàn mà chàng Kim Trọng đã phải rào đón :

                    Sinh rằng: “Gió mát trăng trong,
                    Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam;
                    Chày sương chưa nện cầu Lam,
                    Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?”

       Khiến cho Thúy Kiều hiểu lầm là chàng ta muốn thân cận (để... "nện Cầu Lam" chăng !?), nên mới tỏ thái độ dứt khoát :

                    Nàng rằng: “Hồng diệp XÍCH THẰNG,
                    Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri.
                    Đừng điều nguyệt nọ hoa kia,
                    Ngoài ra, ai lại tiếc gì với ai.”
                      
image.png

       Còn anh chàng Mã Giám Sinh cũng học theo thói văn chương tao nhã mà lớn tiếng thề thốt khi Vương Viên Ngoại gởi gắm Thúy Kiều trước lúc lên đường đi Lâm Truy :

                ... Cạn lời khách mới thưa rằng:
                   "Buộc chân, thôi cũng XÍCH THẰNG nhiệm trao.
                    Mai sau dầu đến thế nào,
                    Kìa gươm nhật nguyệt, nọ dao quỷ thần !".

      Còn trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Nữ Tú Tài" thì có câu :

                        Toại lòng hương lửa tưng bừng,
                Tạm quyền ông Nguyệt, XÍCH THẰNG xe dây.

      XÍCH TỬ 赤子 là Con Đỏ, chỉ con mới sanh còn đỏ hỏn, Cần được cha mẹ lưu tâm chăm sóc nhiều hơn. Xưa dùng để chỉ dân chúng hiền lành thuần khiết cần được vua quan chăm lo bảo vệ; Nên hễ làm vua làm quan thì phải bết thương dân như thương "con đỏ" vậy. Có xuất xứ từ chương Lâu Ly Hạ sách Mạnh Tư《孟子·离娄下》có câu :“Đại nhân giả, bất thất kỳ Xích Tử chi tâm giả dã 大人者,不失其赤子之心者也"。Có nghĩa : Người làm lớn (vua, quan) là người có tấm lòng xem dân như là con đỏ vậy".
      Trong bài "Văn Tế Ngạc-Nhi" (Francis Garnier một sĩ quan Hải quân người Pháp bị nghĩa quân chặt đầu ở Ô Cầu Giấy) của cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến có câu :

                   Ông ở bên Tây, ông sang bảo hộ.
                   Ông dẹp Cờ Đen, để yên CON ĐỎ.

      Còn trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Nhị Độ Mai" có câu :

                      Hà Nam vâng mệnh tuần hành,
                 Một phương XÍCH TỬ triều đình trong tay.
               
image.png

      XUÂN ĐÌNH 春庭 là Sân trong nhà vào mùa xuân, hoa cỏ xinh tươi đẹp đẽ; Nên Xuân Đình chỉ nơi gia đình họp mặt vui vẻ như trong mùa xuân.

                         Tiễn đưa một chén quan hà,
                    XUÂN ĐÌNH thoắt đã dạo ra Cao Đình.

      XUÂN ĐƯỜNG 椿堂 : ĐƯỜNG 堂 là cái phòng lớn trong nhà, nơi ngày xưa cha mẹ thường ngồi ở đó như phòng khách hiện nay. XUÂN 椿 là một loại cây to, có xuất xứ từ chương Tiêu Dao Du 逍遥游 trong sách Trang Tử 莊子: XUÂN là một loại cây cao bóng cả vút tận mây xanh, có chu kỳ sinh trưởng là ba vạn hai ngàn năm,  tám ngàn năm là mùa xuân, tám ngàn năm là mùa thu; được dùng để ví với người cha trong nhà, ôm ấp đùm bọc và che chở cho gia đình; Vì thế nên mới hình thành từ XUÂN ĐƯỜNG để chỉ người CHA trong văn học cổ.
      Trong Truyện Kiều khi vừa hẹn ước thề nguyền với Thúy Kiều xong, thì chàng Kim được tin cha gọi về để đi Liêu Dương hộ tang chú :

                       Liêu Dương cách trở sơn khê,
                  XUÂN ĐƯỜNG kíp gọi sinh về hộ tang.

      Khi được Thúc Sinh chuộc ra khỏi lầu xanh, Thúy Kiều khi đầu gối tay ấp với chàng Thúc, cũng đã biết thân biết phận của mình, sợ chàng Thúc chỉ biết "Mặn tình cát lũy"  "nhạt tình tao khang" nên trong đêm đã khuyên chàng Thúc về thăm vợ cả là Hoạn Thư. Thúc Sinh đã nghe theo, nên mới...

                      Rạng ra trình lại XUÂN ĐƯỜNG,
                  Thúc Ông cũng vội khuyên chàng quy gia.
                    
image.png
                  Cây Xuân và Cỏ Huyên

      XUÂN HUYÊN 椿萱 : HUYÊN là HUYÊN THẢO 萱草 (諼草) còn được gọi là Hoa Kim Châm 金針花 hay Vong Ưu Thảo 忘憂草 là Cỏ làm cho quên buồn phiền. Có xuất xứ từ Kinh Thi 詩經.衞風.伯兮 bài Bá Hề chương Vệ Phong như sau :

                  焉得諼草,   Yên đắc HUYÊN THẢO,
                  言樹之背。   Ngôn thụ chi bối.
                  愿言思伯,   Nguyện ngôn tư bá,
                  使我心痗。   Sử ngã tâm mội.
         Có nghĩa :
                       Làm sao có được cỏ HUYÊN,
                    Trồng ở mặt BẮC bên hiên mái nhà.
                      Mong người chinh chiến nơi xa,
                   Ra vào tưởng nhớ lòng ta ngậm ngùi !

       Sau được dùng để chỉ người mẹ, vì mẹ thường ở phòng mặt Bắc. Nên các du tử ngày xưa khi muốn đi xa nhà thường trồng loại cỏ HUYÊN nầy ở mặt bắc nhà, để cho bà mẹ trông thấy hoa Vô ưu nầy nở như trông thấy con vậy. Dần dà HUYÊN THẢO trở thành biểu tượng của bà mẹ và được trồng ở trong phòng khách nơi mẹ thường ngồi, nở hoa màu vàng, gọi là Hoa Kim Châm, có mùi hương nhẹ, ăn được. Thường dùng để nấu canh. Nên XUÂN ĐƯỜNG là Cha; còn HUYÊN ĐƯỜNG là Mẹ và gọi chung Cha Mẹ là XUÂN HUYÊN.       
       Trong Truyện Kiều sau khi "gởi gắm" Kim Trọng lại cho Thúy Vân, thì Thúy Kiều "Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng" khiến cho...

                      XUÂN HUYÊN chợt tỉnh giấc nộng
                   Một nhà tấp nập kẻ trong người ngoài.

       Còn chàng Kim thì khi trở lại Vườn Thúy tìm Kiều không gặp. Trãi qua "Biết bao công mượn, của thuê" và "Cắt người tìm tõi, đưa tờ nhắn nhe" đều không có kết quả, khiến cho chàng Kim "Thn thờ lúc tỉnh lúc mê, Máu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao" nên cũng khiến cho...

                                XUÂN HUYÊN lo sợ xiết bao,
                             Quá ra, khi đến thế nào mà hay!
                       
image.png
               Xuân Lan                  Thu Cúc

       XUÂN LAN THU CÚC 春蘭秋菊 là Hoa Lan của mùa xuân và Hoa Cúc của mùa thu, chỉ mỗi loại mỗi mùa đều có cái đẹp riêng, nửa cân tám lạng không ai hơn ai cả. Có xuất xứ từ 《Sở Từ. Cửu Ca. Lễ Hồn 楚辞·九歌·礼魂》: Xuân Lan Thu Cúc các nhất thời chi tú dã 春蘭秋菊各一時之秀也。Có nghĩa : Xuân Lan Thu Cúc đều có cái đẹp nhất thời của nó. Nên trong văn học cổ dùng để ví những vẻ đẹp khác nhau mà không thể nào so sánh được là ai hơn ai.
       Trong tiết Thanh Minh khi đi Đạp thanh, gặp được chị em Thúy Kiều, cụ Nguyễn Du đã cho chàng Kim nhận xét đánh giá...

                       Bóng hồng nhác thấy nẽo xa,
                   XUÂN LAN THU CÚC mặn mà cả hai !

       XUÂN SƠN 春山 là Núi vào mùa xuân. Có xuất xứ từ Hồi thứ 9 trong "Lão Tàn Du Ký"《老殘遊記》第九回 : Kiến nả nữ tử... du hiễn đắc my tự xuân sơn, nhãn như thu thủy「見那女子... 愈顯得眉似春山,眼如秋水。」Có nghĩa : "Trông thấy cô bé đó... càng tỏ rõ mày xanh như núi mùa xuân, mắt trong như nước mùa thu". Chỉ vẻ đẹp mặn mà của các cô gái đương xuân.
       Cụ Nguyễn Du đã tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều Thúy Vân là :

                        Làn Thu Thủy, nét XUÂN SƠN,
                  Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh !
                 
image.png
                   Làn Thu Thủy, nét XUÂN SƠN,

        XUÂN VI 春圍 : VI là Vòng vây, là Khuôn viên; nên XUÂN VI là cái Khuôn viên, nơi để cho các sĩ tử làm bài thi. Trong chế độ khoa cử ngày xưa, Thi Hội để lấy Tiến Sĩ thường được tổ chức vào mùa xuân, nên gọi là XUÂN VI 春圍 : Trường Thi vào mùa xuân. Trong truyện thơ Nôm "Lâm Tuyền Kỳ Ngộ" có câu :

                  Thanh vân đường hãy thênh thênh rộng,
                    Một áng XUÂN VI chẳng mấy lâu.

       XUYÊN DƯƠNG 穿楊 là từ nói gọn lại của thành ngữ BÁCH BỘ XUYÊN DƯƠNG 百步穿楊, có nghĩa là "Đứng xa ngoài trăm bước mà bắn xuyên qua được lá dương liễu"; ý nói nghề bắn cung thật giỏi thật siêu. Có xuất xứ từ Chiến Quốc Sách của Lưu Hướng đời Tây Hán 西漢·劉向《戰國策》với tích sau đây :
       Vào thời Chiến Quốc, danh tướng Bạch Khởi 白起 của nước Tần, nổi tiếng là bách chiến bách thắng, đã từng đánh bại hai nước Hàn và Triệu, nay lại định đem binh đánh thành Đại Lương của nước Ngụy. Mưu sĩ Tô Lệ 蘇厲 đến gặp thiên tử nhà Chu bàn rằng : Nếu Ngụy mất, Tần càng mạnh lên thì lại càng uy hiếp chư hầu và Chu thiên tử. Vua hỏi phải làm sao? Tô Lệ bèn tiến cử thuyết khách đến gặp Bạch Khởi kể lại câu chuyện như sau :
       Lúc trước nước Sở có tiễn thủ Dưỡng Do Cơ 養由基 bắn tên rất giỏi. Một hôm cùng thi bắn với một dũng sĩ cũng rất giỏi bắn tên là Phan Hổ 潘虎. Phan Hổ đứng cách xa bia 50 bước bắn liền 3 tên đều trúng vào giữa hồng tâm. Mọi người đều vỗ tay khen hay. Dưỡng Do Cơ bèn nói với Phan Hổ rằng, bắn trúng hồng tâm là chuyện thường tình mà thôi, nay tôi muốn bắn trúng cái lá liễu của cây dương liễu cách 100 bước đằng kia kìa, anh hãy đến đó chọn một lá liễu rồi sơn màu làm dấu, tôi sẽ bắn trúng cho anh xem. Mọi người có mặt và Phan Hổ đều nửa tin nửa ngờ, bèn chọn một lá làm dấu hẵn hoi. Dưỡng Do Cơ trương cung lắp tên "vù" một tiếng bắn trúng cái lá liễu kia ngay. Phan Hổ còn đương há hốc thì mọi người đã vỗ tay hò reo tán thưởng. Nhưng có người cũng còn tỏ ý nghi ngờ là chỉ  trong một phút may mắn mà thôi, bèn hỏi Dưỡng Do Cơ có dám bắn thêm hai tên nữa  không ? Dưỡng Do Cơ gật đầu đồng ý, rồi chọn thêm 3 lá ở 3 nơi nữa, làm dấu xong bèn lui ra sau 100 bước, giương cung ngắm kỹ và "vù, vù, vù" bà tiếng vang lên, ba chiếc lá dương liễu trúng tên rơi xuống. Mọi người vỗ tay như sấm khen hay không ngớt miệng. Dương Do Cơ đang hiêu hiêu tự đắc...
      Bỗng nghe có một tiếng nói vang lên bên cạnh :"Bắn giỏi đến có thể BÁCH BỘ XUYÊN DƯƠNG như thế nầy thì tôi mới dạy được!". Dưỡng Do Cơ nghe cái giọng điệu lớn lối kia bèn đưa mắt nhìn sang người đó và hỏi :"Ông định dạy tôi bắn tên như thế nào đây?". Người kia bình tĩnh ung dung đáp :"Tôi không dạy ông phải trương cung lắp tên và ngắm đích như thế nào, mà tôi chỉ cảnh giác ông nên biết làm thế nào để giữ được cái thanh danh BÁCH BỘ XUYÊN DƯƠNG nầy. Có bao giờ ông nghĩ đến một ngày nào đó, sức lực yếu đi, tay không còn mạnh như ngày nay, mắt không còn tinh như hiện giờ, chỉ cần bắn trật một phát thì tiếng tăm "Bách Bộ Xuyên Dương", "Bách Phát Bách Trúng" gì đều tiêu tan cả. Nên người bắn tên giỏi thì phải biết làm sao để giữ vững được cái tiếng tăm, cái thanh danh của mình mới là điều thượng sách !" Dưỡng Do Cơ nghe xong lời khuyên chí lý nầy, bèn vòng tay cung kính tạ ơn.
      Nay tướng quân là danh tướng, bách chiến bách thắng, vừa mới đánh bại hai nước Hàn, Triệu, tướng sĩ cũng đã mõi mệt, nay lại muốn đem binh đến đánh thành Đại Lương của Ngụy, trong khi Ngụy đã có phòng bị trước rồi, biết tướng quân có thắng được hay không ? Lỡ như bại trận thì thanh danh "Bách Chiến Bách Thắng" của tướng quân đành tan theo mây khói mà thôi !... Bạch Khởi nghe xong bèn cáo bệnh với vua Tần mà không khởi binh đánh Ngụy nữa.
                               
image.png

      Ngoài việc chỉ bắn giỏi ra, XUYÊN DƯƠNG còn được dùng rộng ra để chỉ người học giỏi như người bắn giỏi vậy. Trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Nữ Tú Tài" có câu :

                              Cầm tay giao lại Soạn Chi,
 
                     Rằng tay diệu thủ, tài kỳ XUYÊN DƯƠNG.

      XƯỚNG TÙY 唱隨 là nói gọn lại của thành ngữ PHU XƯỚNG PHỤ TÙY 夫唱婦隨. Có nghĩa : "Chồng hát thì vợ họa theo". Có xuất xứ từ chương Tam Cực của Quan Doãn Tử《關尹子。三極》: Thiên hạ chi lý, phu giả xướng, phụ giả tùy 天下之理,夫者倡,婦者隨。Có nghĩa : Cái lý trong thiên hạ là chồng đưa lên việc gì đó thì vợ phải nghe theo cái đó. Hàm ý : Chồng nói cái gì hay làm cái gì đó thì vợ cũng phải đồng tình mà làm theo cái đó. Dần dà, theo đời sống thực tế giữa hai vợ chồng với nhau, người đời sau mới đổi chữ XƯỚNG 倡 là Đề Xướng 提倡 là đưa ra việc gì đó thành chữ XƯỚNG 唱 là Ca Xướng 歌唱 là hát hò để cho hợp với thực tế cuộc sống hạnh phúc thi vị nên thơ của vợ chồng với nhau : Chồng hát hò vui vẻ thì vợ cũng họa theo cho vui vẻ cả hai. Có thể vì thế mà suốt mấy ngàn năm qua người phụ nữ luôn luôn tuân thủ phục tòng và làm theo ý chồng là vậy.
      Trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Nhị Độ Mai" có câu :

                         XƯỚNG TÙY đều giữ đạo hằng,
                     Một nhà hòa hợp dễ chăng mấy người.

      Còn trong "Hoa Tiên Truyện" của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện thì gọi là XƯỚNG TÒNG, nghĩa cũng như XƯỚNG TÙY mà thôi :

                       Tuy rằng tình chửa giao thông,
                     Song le đã quyết XƯỚNG TÒNG là đây.

                      
image.png

      Hẹn bài viết tới :
              Thành Ngữ Điển Tích 125 : Y, Ỷ, YẾN, YÊU.


                                                              杜紹德
                                                              ĐỖ CHIÊU ĐỨC


Thứ Tư, 6 tháng 8, 2025

ĐÊM TRÊN VÙNG ĐẤT LẠ - TRẦN HỮU NGƯ

 



ĐÊM TRÊN VÙNG ĐẤT LẠ
Ngày nay với nhiều phương tiện… chuyện bùng nổ thông tin là điều tất yếu.
Ngày xưa người ta nói “Không có gì được che đậy dưới ánh nắng mặt trời” và ngày nay cũng không có gì che đậy được những trang mạng.
Và âm nhạc - những ca khúc Boléro - được hát lại “dù có những bài chưa cho phép” vẫn được lan truyền hằng đêm vào những tụ điểm Karaoke, quán nhạc “miệt vườn”… với những “tình thương mến thương” qua giọng hát “già, trẻ, lớn, bé” không chuyên, quả là “Trăm hoa đua nở”.
Tôi rất thích những giọng ca không chuyên này, vì họ ca đơn giản, không màu mè, không giống như ca sĩ “ngoài nớ” hát quá kiểu cách, phùng mang, trợn mắt, quơ tay múa chân… giọng ca âm âm… u u… hát không rõ lời, lên cao như máy bay Mic, xuống thấp như máy cày, có đôi khi nổ như bắp rang…
Xin lỗi, có những giọng ca “miệt vườn” lai “thành thị”, dù chưa được là Ca sĩ ưu tú, nhơn dân, nhưng họ vẫn hát không thua gì một ca sĩ chuyên nghiệp. Nhìn những cô nàng, anh chàng trai trẻ, những anh chị xồn xồn, những bà già, ông già hát Boléro, tôi thực sự xúc động! Có đôi khi họ chơi luôn nhạc Twist, nhạc ngoại… Và tất cả những con người ấy “hát hay hơn múa”.
Hòa âm, phối khí với những nhạc công quen mặt mà không biết tên. Một Ghi-ta Bass, một Solo, một Accord, một trống đơn… đã làm nên một đêm đêm nhạc đình đám, vời những giọng ca “lạ”, người nghe dù khó tính đến đâu, vẫn chấp nhận được! Một ngày, bận bịu với cơm áo gạo tiền, tối họ tập hợp về đây đủ thành phần, đủ mọi lứa tuổi để hát chơi cho vui, để quên đi nhọc nhằn, “hay hát hơn hát hay”.
Điều đặc biệt họ không bao giờ hát nhạc Đỏ, nhạc Xanh, mà họ chỉ hát nhạc Vàng, nhạc Tím. Hát nhạc Vàng, nhạc Tím…, để những người già nhớ lại kỷ niệm vui buồn của những ngày Chiến tranh, còn người trẻ sinh sau 1975 để biết ông cha chú bác của chúng thời ấy sống với Chiến tranh như thế nào?
Tôi cũng thường xuyên lên mạng nghe những chương trình và những giọng ca này. Và nơi đây, tôi cũng tìm lại được những bài hát cũ đã mất tích trong tôi từ lâu. Nay bỗng dưng nghe lại, tôi thấy những kỷ niệm những ngày xa xưa ấy hiện về, nghe mà xúc động, thương nhớ dâng trào.
Nhạc trước 1975 nhiều quá, chỉ có Tề-Thiên-Đại-Thánh mới nhớ hết được!
Tôi đã từng viết:
-Bài hát nào cho chúng ta nhiều kỷ niệm khó quên, đó là bài hát hay?
Và trong những chương trình “Boléro – Tình thương mái lá…”, tôi đã bắt gặp “một bà già”, nhưng giọng ca còn khá trẻ, hát ca khúc ĐÊM TRÊN VÙNG ĐẤT LẠ của Trúc Phương. Trong chiếc áo dài nền nã, nhịp bước chân nhẹ nhàng, tay nâng Micro có vẽ chuyên nghiệp, và những luyến láy phát ra nghe… rất là Boléro!
Chiến tranh miền Nam trải dài “Bốn vùng Chiến thuật”. Một vùng đất mà súng đạn, bom chùm, xe tăng, máy bay, lính tráng… nhiều hơn nắng, gió, cát… chạy dài từ vĩ tuyến 17 xuôi về Nam. Có thể nói, không lấy gì là cường điệu: Nơi nào có đất, có nước, có con người sinh sống, kể cả trường học… là nơi đó có chiến sự. Tất cả những vùng đất khắp miền Nam đều quen thuộc, chỉ trừ Tomorong, Dakto, Krek, Snoul, Charlie … “Tên vẫn chưa quen người dân thị thành” (Người ở lại Charlie – Trần Thiện Thanh).
Tôi tự nhận mình là một tín đồ Boléro, và tôi đã mê Boléro của Trúc Phương, tôi có nhiều nhạc và CD Trúc Phương. Nhưng khi nghe ĐÊM TRÊN VÙNG ĐẤT LẠ, tôi thấy lạ và hình như đây là lần đầu tôi nghe ca khúc này!
Trước sự “kỳ lạ”, nên đêm qua khó ngủ, nên tôi thức dậy sớm hơn mọi khi… tôi lục tung chồng nhạc cũ và bắt gặp bản nhạc in rời ĐÊM TRÊN VÙNG ĐẤT LẠ. Tôi có bản nhạc này nhưng tôi không biết, nên đã gọi điện thoại để hỏi bạn bè khắp nơi! (Tôi về già hay quên, những cái quên rất dễ thương, như quên… tiền! Và thường xuyên quên uống thuốc)
Tôi đã từng viết trong những bài “cảm nhận” về nhạc Trúc Phương:
-Ở đâu có nhạc Trúc Phương là ở đó có ca sĩ Thanh Thúy.
Nhưng, tại sao Thanh Thúy không ca bài hát này? Vì dù sao ĐÊM TRÊN VÙNG ĐẤT LẠ cũng là một nhạc phẩm Boléro… khá hay!
Và tôi thắc mắc tiếp:
-Trúc Phương viết bài hát này, ở một vùng đất lạ là vùng đất nào?
ĐÊM TRÊN VÙNG ĐẤT LẠ được cấp giấy phép số 2285 BTT ngày 2.10.1968 do Việt Nam nhạc tuyển phát hành. Ca khúc này đã được thu thanh vào dĩa Việt Nam với giọng ca Duy Khánh và Ban nhạc Nghiêm Phú Phi hòa âm.



Mời các bạn lên mạng nghe Duy Khánh ngân nga ĐÊM TRÊN VÙNG ĐẤT LẠ.
Duy Khánh thành công ở hai phương diện “nhạc sĩ và ca sĩ”, anh cũng là ca sĩ rất kén chọn bài, khi hát một ca khúc, anh hát ĐÊM TRÊN VÙNG ĐẤT LẠ là một sự chọn lựa không lầm ca khúc này.
ĐÊM TRÊN VÙNG ĐẤT LẠ, Gamme La Thứ, Boléro:
“… Ngày tạm dừng chân bước quân hành
quán khuya phố nhỏ trông mưa sự tình
Vào cuối tháng đến đêm này vui túi nhỏ cạn tiền
vui buổi này nên rượu uống chưa say
Bạn bè mình có dăm người đứa đi đứa ở đứa xa bạt ngàn
Lòng ray rứt lúc nghe hồn loang vết đạn thù
Qua môi buồn nên từ đó căm hờn
Những đôi mươi già nua trước tuổi bởi gian truân đất nước còn dài
Đêm sa vũng lầy thay giấc ngủ ban ngày nên giấc ngủ chưa đầy
Giày trận mòn dốc sương mù mắt đom đóm lửa khi nghe đạn thù
Đường đất nước bước chân dài chưa biết mỏi
ngủ ngồi trên xứ lạ đêm này có đôi chân mình…”
(Nhạc sĩ Trúc Phương thường viết Gamme Thứ, và những nốt giáng Bémol, khi đàn Mandolin rất khó vì những nốt Bémol này)
Tôi tìm nhạc cũ trong những chương trình ca nhạc Boléro miệt vườn.
Và biết đâu một ngày nào đó, những bài nhạc cũ đã mất tích nửa thế kỷ qua, xuất hiện trở lại.
Nhạc vàng đã trải qua một thời kỳ đen tối. Nay được sáng đèn trở lại, do những ca sĩ không chuyên “ngứa cổ hát chơi!”
Xin chân thành cảm ơn những anh chị ca sĩ có tuổi nhưng chưa có tên.



TRẦN-HỮU-NGƯ
(Saigon-Giađinh, 31.7.2025)