CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 30 tháng 4, 2025

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 119: VĂN,VÂN,VẦNG,VẬT,VỊ. - ĐỖ CHIÊU ĐỨC



                             
                                   Tư Mã Tương Như  Trác Văn Quân                        

      VĂN QUÂN là Trác Văn Quân 卓文君 và chồng là Tư Mã Tương Như 司馬相如.
      Nói đến Tư Mã Tương Như và Trác Văn Quân là người ta sẽ nghĩ ngay đến khúc "Phượng Cầu Kỳ Hoàng 鳳求其凰", thường được gọi cho gọn là khúc "Phượng Cầu Hoàng" của Tư Mã Tương Như đàn để quyến rũ người đẹp Trác Văn Quân nửa đêm cuốn gói bỏ nhà đi theo Tư Mã Tương Như về Thành Đô sinh sống, mà rất ít người biết rằng những năm sau đó khi Tư Mã Tương Như được Hán Vũ Đế trọng dụng, và khi đã thanh vân đắc ý rồi thì lại định hắt hủi Trác Văn Quân để lập thiếp với người con gái đất Mậu Lăng. Trác Văn Quân hay tin đã làm bài thơ "Bạch Đầu Ngâm 白頭吟" sau đây để gởi cho Tư Mã Tương Như :

          皚如山上雪,    Ngai như sơn thượng tuyết,
          皎若雲間月。    Kiểu nhược vân gian nguyệt.
          聞君有兩意,    Văn quân hữu lưỡng ý,
          故來相決絕。    Cố lai tương quyết tuyệt.
          今日斗酒會,    Kim nhật đấu tửu hội,
          明旦溝水頭。    Minh đán câu thủy đầu.
          躞蹀御溝上,    Tiệp điệp ngự câu thượng,
          溝水東西流。    Câu thủy đông tây lưu.
          淒淒復淒淒,    Thê thê phục thê thê,
          嫁娶不須啼。    Giá thú bất tu đề.
          願得一心人,    Nguyện đắc nhất tâm nhân,
          白頭不相離。    Bạch đầu bất tương ly.
          竹竿何嫋嫋,    Trúc can hà niễu niễu,
          魚尾何簁簁。    Ngư vĩ hà si si.
          男兒重意氣,    Nam nhi trọng ý khí,
          何用錢刀為。    Hà dụng tiền đao vi ?!


 Có nghĩa :
              Đầu núi tuyết trắng như bông,
          Trong mây trăng sáng như lòng thiếp đây.
              Nghe chàng có ý đổi thay,
          Thì thôi đoạn tuyệt kẽo hoài ước mơ.
              Hôm nay đấu rượu thay thơ,
          Mai ngày nước chảy hững hờ lòng đau.
              Tần ngần suốt buổi ngự câu,
          Đông tây nước cuốn thêm sầu lòng đây.
              Thê lương, ôi, thê lương đầy...
          Ai đời giá thú lại rây lệ sầu.
              Chỉ mong ý hiệp tâm đầu,
          Bạc đầu giai lão còn cầu gì hơn !
              Mềm như thân trúc chẳng hờn,
          Mơn man đuôi cá chi sờn lòng đây.
              Nam nhi ý chí đong đầy,
          Sao vì phú quý nở đày đọa nhau ?!



      Tư Mã Tương Như đọc xong, cảm động quá chừng chừng, bèn bỏ ý định không lập thiếp nữa. Trong "Chinh Phụ Ngâm Khúc" của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn Nôm có câu :

                    Kìa VĂN QUÂN mỹ miều thuở trước,
                    E đến khi đầu bạc mà thương !

   ... và trong truyện thơ Nôm "Bích Câu Kỳ Ngộ", lúc tả chàng công tử Tú Uyên ướm thử lòng Giáng Kiều cũng có câu :

                        Cầu hoàng tay lựa nên vần,
                 Tương Như lòng ấy, VĂN QUÂN lòng nào ?!

       VÂN CẨU 雲狗 là Mây Chó, là mây có hình dạng tựa như con chó. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ hai câu thơ mở đầu trong bài "Khả Thán Thi 可嘆詩" của Thi Thánh Đỗ Phủ đời Đường như sau : 

            Thiên thượng phù vân như bạch y,   天上浮雲如白衣,
            Tư tu cải biến như thương cẩu.        斯須改變如蒼狗。
  Có nghĩa :
               Mây nổi trên trời như áo trắng,
               Phút giây chợt tựa chó xanh lơ.


       Từ hai câu thơ trên cho ta thấy, Phù Vân 浮雲 là mây nổi bay trên trời có thiên hình vạn trạng và biến đổi vô thường, mới thấy như tà áo trắng đó, mà trong phút chốc đã thành như một chú chó màu xanh. Trong văn học cổ mượn để chỉ  việc đời thay đổi vô chừng và nhanh chóng. Trong "Cung Oán Ngâm Khúc" của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều có câu :
                          Lò cừ nung nấu sự đời,
               Bức tranh VÂN CẨU vẽ người tang thương. 

       VÂN CÙ 雲衢 : CÙ là đường cái, nên Vân Cù là "Đường Mây"; Trong văn học cổ chỉ "Đường Công Danh" của kẻ sĩ ngày xưa, như trong bài hát nói "Kẻ Sĩ" của cụ Nguyễn Công Trứ :
     
                    Đường Mây rộng thênh thênh cử bộ,
                   Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo.

       Hay như trong truyện thơ "Lâm Tuyền Kỳ Ngộ" cũng có câu :

                    Đường Mây hội mặt làng văn vật,
                    Cửa tuyết dan tay bạn sử kinh.   

       Trong "Chinh Phụ Ngâm Khúc" của Đoàn Thị Điểm diễn Nôm cũng có câu :

                        Sứ trời sớm giục Đường Mây,
                    Phép công là trọng niềm tây xá nào !

       Còn trong "hoa Tiên Ký" của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện thì sử dụng thẳng từ Hán Việt VÂN CÙ :

                           Lại gì cho trọng hơn ru,
                    Mà coi trăm dặm VÂN CÙ làm chơi !

                  
       VÂN NGHÊ 雲霓 là Mây và Cầu Vòng : Chỉ Mây ngũ sắc, mây có màu sắc rực rỡ, còn được gọi là TƯỜNG VÂN 祥雲 là "Mây lành", thường xuất hiện dưới chân hoặc sau lưng của các Tiên, Phật, Bồ Tát... Trong văn học cổ mượn để nói lên lòng mong mõi khao khát thiết tha... Như trong "Thiên Nam Ngữ Lục " có câu :

                        Cùng nhau chăn gối sớm khuya,
                    Nguồn đào nước lũ, VÂN NGHÊ dấy đường.

       VÂN THỤ 雲樹 là Mây và Cây. Có xuất xứ từ hai câu thơ trong bài "Xuân Nhật Ức Lý Bạch 春日憶李白"(Ngày xuân nhớ Lý Bạch) của Đỗ Phủ, như sau :

                  渭北春天樹,   Vị Bắc xuân thiên thụ,
                  江東日暮雲。   Giang Đông nhật mộ vân.
      Có nghĩa :
                          Vị Bắc cây mới vào xuân,
                 Giang Đông mây nổi bâng khuâng trời chiều.

       Đỗ Phủ muốn nói mình đang vui vẻ mạnh khỏe như cây vào xuân, nhớ đến bạn còn đang trôi nổi như mây chiều ở tận xứ Giang Đông. Thường dùng để chỉ tình bạn bè xa xôi nhớ đến nhau. Như trong "Truyện Tây Sương" có câu :

                        Bước vào làm lễ tức thì,
                 Giải tình VÂN THỤ, tính kỳ tinh sương.

 

       VẦNG THỎ hay BÓNG THỎ đều chỉ Mặt Trăng. Có xuất xứ từ bài "Nghĩ Thiên Vấn 拟天問" của Phó Huyền 傅玄 đời Tấn, có câu : Nguyệt trung hà hữu ? Bạch thố đão dược 月中何有?白兔搗藥" Có nghĩa : Trong mặt trăng có gì ? Có con thỏ trắng đang giã thuốc tiên". Thỏ Trắng hay Thỏ Ngọc đều là hình tượng mượn để chỉ Mặt Trăng trong Văn học cổ. 
       Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều có câu :

                      Khi BÓNG THỎ chênh vênh trước nóc,
                      Nghe vang lừng tiếng giục bên tai.

       Trong truyên thơ Nôm khuyết danh Trinh Thử thì gọi là VẦNG THỎ :

                      Một niềm dạ sắt in VẦNG THỎ,
                      Mấy lúc lòng vàng chỉ Bóng Ô.
 
       Còn trong Truyện Kiều thì cụ Nguyễn Du chỉ dùng một chữ THỎ mà thôi :

                         Trãi bao THỎ lặn Ác tà,
                    Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm !
       
        VẬT ĐỔI SAO DỜI chữ Nho là VẬT HOÁN TINH DI 物換星移. Có xuất xứ từ 2 câu trong bài thơ cảm khái ở cuối bài Tự Đằng Vương Các của Vương Bột 王勃, người đứng đầu trong Sơ Đường Tứ Kiệt, là :

                 閒雲潭影日悠悠,     Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
                 物換星移幾度秋...    VẬT HOÁN TINH DI kỷ độ thu...
      Có nghĩa :
                      Mây trôi bóng nước mịt mù,
                      VẬT ĐỔI SAO DỜI đã mấy thu... 

        Ý chỉ cuộc đời luôn đổi thay dời đổi không ngừng như sao trên trời cũng đổi ngôi vậy. Như trong Truyện Kiều lúc Kim Kiều tái hợp, Kim Trọng đã nói với Thúy Kiều rằng :

                        Dẫu rằng VẬT ĐỔI SAO DỜI,
                    Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh.
                        Duyên kia có phụ chi tình, 
                   Mà toan chia gánh chung tình làm hai ?


                                    VẬT ĐỔI SAO DỜI

       VẬT NGOẠI 物外 là Ở ngoài mọi sự việc, là "Ở ngoài cuộc đời" đó. Trong văn học cổ mượn ý nói "Sự thoát ly khỏi việc đời phiền toái". Như trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã cho nàng cung phi lý luận :

                      Thoát trần một gót thiên nhiên,
                   Cái thân VẬT NGOẠI là tiên trong đời !

       VỊ THỦY 渭水 là Dòng sông Vị, bắt nguồn từ tỉnh Cam Túc chảy qua tỉnh Thiểm Tây rồi đổ vào sông Hoàng Hà. Nơi mà ông Lã Vọng Khương Tử Nha ngồi câu cá khi chưa gặp thời, như cụ Nguyễn Công Trứ đã viết trong bài "Kẻ Sĩ" là :

                  Lúc vị ngộ, hối tàng nơi bồng tất, 
                  Hiêu hiêu nhiên điếu VỊ, canh Sằn. 
      Có nghĩa :
              - Lúc chưa gặp thời thì ẩn mình trong gian nhà cỏ bồng,
              - Rất thanh thản mà ngồi câu trên sông VỊ và cày ruộng ở đất Sằn.

       Tương truyền, nước sông VỊ rất trong, khi chảy đến huyện Cao Lăng thì gặp dòng sông Kinh nước rất đục; nhưng sông VỊ vẫn giữ được làn nước trong của mình mà không bị hòa nhập vào dòng sông Kinh vẩn đục kia. Nên, VỊ THỦY còn chỉ nơi ở của những bậc thanh cao, hiền tài không hòa nhập với xã hội xấu xa bên ngoài. Như trong bài thơ 149 "Bạch Vân quốc ngữ thi tập" của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Có tài liệu lại cho rằng : Trong bài "Thuật Hứng 20" Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn Trãi :

                       Non Phú Xuân cao, nước VỊ THỦY thanh,
                       Mây quyến khách, nguyệt vô tình...
                       (Mây quen nguyệt, khách vô tình...)


           Nguyễn Trãi  ?                 Nguyễn Bỉnh Khiêm  ?

        Hẹn bài viết tới !

                                        杜紹德
                                    ĐỖ CHIÊU ĐỨC


Thứ Ba, 29 tháng 4, 2025

QUÊ HƯƠNG TRONG NỖI NHỚ - THƠ KHÊ KINH KHA

 

1000








QUÊ HƯƠNG TRONG NỖI NHỚ


tháng tư, cuối đầu, nhớ

những đoạn đường đã qua

những bờ sông, ngọn cỏ

những lũy tre, bờ đê


tháng tư, âm thầm, nhớ

những vầng trăng xa xưa

năm tháng giờ héo úa

như cánh đồng cháy khô

mẹ gìa như lá thu

em thơ như cỏ dại

bạn bè như bèo trôi

tháng ngày như độc dược

tưới vào giữa tim tôi

quê hương, quê hương ơi!


tháng tư, gục đầu, tủi

ôi cuối đời rồi sao

quê hương ai thay đổi

tình người ai vá khâu


tháng tư, ngậm ngùi, khóc

quê hương trong nỗi nhớ

đoạn trường trong nước mắt

như sóng trên đại dương

như mưa giữa Trường Sơn

như nước giòng Cửu Long

như rêu xanh Nội Thành

như điêu tàn Tháp Chàm

như Đà Lạt Than Thở

như niềm đau Vọng Phu

tình em dù mặn mà

lòng mẹ dù bao la

con thơ như nụ hoa

không xóa nỗi xót xa


tháng tư, ôm mặt, khóc

quê hương, quê hương ơi!

tháng ngày theo gío bay

trăm năm rồi cũng hết

về đâu hồn ta ơi?

về dâu hồn ta ơi?



KHÊ KINH KHA


NƯỚC NGUỒN - THƠ MẶC PHƯƠNG TỬ



                                   

 

NƯỚC NGUỒN
Mùa Phật Đản 2024.

Nước thơm trong
Chảy từ nguồn,
Thời gian lặng lẽ lách luồng dòng trôi
Nước thơm trong
Miền ngược xuôi,
Vẫn ngày tháng với dòng đời đục trong.
Xa nguồn từ độ mây hồng,
Ai hay hương vị đến mông mênh đời.
Từng vách đá,
Từng vịnh, voi
Đục trong những lúc đầy vơi tháng ngày.
Đôi bờ lau lách sông dài
Hành trình con nước ngày mai vẫn còn.!
Mây nghiêng bóng nước đầu non,
Nước chuyên chở cả tình son biển trời.
Từ thiên không
Giọt sương rơi,
Trên muôn lá cỏ tiếp lời nước mây.
Nước nguồn
Vạn thuở xưa nay,
Bến đời trong đục, không phai vị nguồn..


Houston (Tx), ngày 28/4/2024.
MẶC PHƯƠNG TỬ.


Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2025

ÂM VANG HỦ TIẾU GÕ - TỪ KẾ TƯỜNG

 


ÂM VANG HỦ TIẾU GÕ

Sài gòn đang trong mùa mưa kéo dài, có khi mưa sáng, mưa trưa, mưa chiểu và mưa vào đêm. Những đêm mưa rả rích đầu hôm hay giữa khuya thường nhắc nhớ những kỷ niệm, khơi gợi ký ức của một thởi âm vang hủ tiếu gõ đặc trưng của những con hẻm sâu và người thức khuya.
Thật vậy, Sài Gòn mưa đêm như một cuốn phim quay chậm. Với thời tiết đó, không gian đó, trong các hẻm phố, đường ngang, ngõ tắt chằng chịt khá đặc trưng của các khu dân cư lao động Sài Gòn, đêm đêm vẫn vang lên tiếng nhịp gõ lách cách đều đều báo hiệu có một xe hũ tiếu gõ đang đi vào xóm, đánh thức cơn đói lòng của người thức khuya, những sinh viên luyện chữ, ôn bài, những chị công nhân quét rác đêm… cần đến một món ăn cực kỳ bình dân để qua cơn đói. Đó là món hủ tiếu gõ.
Âm thanh quen thuộc đi vào xóm nhỏ
Đặc biệt, không cứ gì những ngày bình thường tất bật của cuộc mưu sinh, mà ngay trong những hôm ảnh hưởng bão từ biển Đông thổi vào đất liền rồi suy yếu dần, trở thành áp thấp nhiệt đới gây ra những cơn mưa dầm về đêm làm cho thành phố ẩm ướt, giá lạnh khiến mọi người ngại ra đường nếu không có chuyện cần thiết phải giải quyết. Trong thời tiết giá lạnh như thế, đối với người làm việc ban đêm, thức khuya thường đói bụng nhưng ngại đội mưa ra đường tìm cái gì đó “bỏ bụng” nên đành phải ngồi nhà bó gối chịu trận trong tâm trạng thắt thỏm, nghe bụng dạ “đánh lô tô” liên hồi. Tất nhiên trong tâm trạng ấy thì hiệu quả công việc giảm sút, mất cả hứng thú.
Bỗng đâu, có tiếng gõ lách cách, giòn tan mới đầu nghe rất xa vọng lại từ đầu hẻm, rồi âm thanh quen thuộc này rõ dần… nó phát ra từ hai đoạn tre dẹp, lên nước bóng ngời, được một đứa trẻ con chừng 12-13 tuổi liên tiếp đánh vào nhau tạo thành thứ âm điệu vui tai, rộn rã thay cho lời rao giới thiệu một món ăn đêm cực kỳ nhạy bén thị trường, mọi lúc mọi nơi, nóng hổi, có hiệu quả “cứu đói” ngay lập tức nếu không muốn nói được xếp vào hàng… siêu tốc, đó là “hủ tiếu gõ”. Một món ăn khuya lưu động, giá rẻ cũng cực kỳ, được mang đến tận nhà cho “thượng đế” mà tuyệt không tính thêm một khoản “dịch vụ phí” nào trong cơ chế thị trường. Và đó cũng chính là sự chọn lựa số một của những người làm việc ban đêm, thức khuya, đang trong cơn đói cồn cào mà ngại ra đường trong cơn mưa dầm thành phố.
Âm thanh này đi liền với hình ảnh của đứa trẻ mặc áo sơ mi ngắn tay, quần cụt nhàu nát, dép lê, thùm thụp trong cái áo che mưa bằng loại nylon mỏng, trong suốt nên có thể nhìn thấy gương mặt chú nhóc sạm đen, đôi mắt mở to, nụ cười ngây thơ khi dừng lại dưới ánh đèn đường. Đôi khi chẳng cần người khách lên tiếng hoặc mở cửa chính, chỉ cần ló mặt qua khung cửa sổ ra hiệu 1 ngón tay, chú nhóc hiểu ý gật đầu rồi quay bước, tiếng gõ lách cách tiếp tục ngược ra hẻm.
Một lúc sau cũng chú bé ấy bưng trở vào giao tận tay khách một tô hủ tiếu nóng hổi, trên mặt tô hủ tiếu chỉ hai, ba lát thịt mỏng dính, nước lỏng bỏng là cái muỗng trên để miếng chanh, vài lát ớt đỏ, gát lên miệng tô là đôi đủa tre cáu bẩn. Chú bé quay bước, tiếng gõ lách cách giòn dã lại theo bước chú bé mang tín hiệu hủ tiếu gõ đi lần vào con hẻm xa. Khi quay trở ra chú bé ghé lại nhà khách lấy tô và nhận 2.000 đồng vào giai đoạn tiền chưa mất giá theo điệu múa điên loạn của vàng. Bây giờ thì tô hũ tiếu gõ chỉ vài lát thịt, nước, giá, hẹ lỏng bỏng ấy đã lên 10.000 đồng hoặc 15.000 đồng giá bình quân, sang một tí thì tô đặc biệt thêm ít lát thịt mỏng giá 20.000 đồng. Chú bé ấy là “nhân viên bưng bê” kiêm “tiếp thị” của một xe hủ tiếu gõ khi thì dừng lại ở đầu con hẻm nhỏ hoặc đẩy chậm vào.
Đẩy xe là một người đàn ông từ phục trang cho đến vóc dáng đều phong trần, nói giọng “miền ngoài” như Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định… và “ông chủ” xe hủ tiếu gõ này lại là thành viên của một xóm cư dân từ những vùng quê xa xôi, hoàn cảnh nghèo, không nghề nghiệp ổn định hoặc không có ruộng vườn, chỉ đi làm mướn “bỏ làng” vào Sài Gòn bán hủ tiếu gõ tìm một cơ hội để đổi đời. Nhưng trước mắt thì nuôi mơ ước vượt qua nỗi khó khăn, kiếm “bạc cắc” để giúp đỡ gia đình, nuôi con cái ăn học.
Xóm hủ tiếu gõ “Xứ Nẫu”
Khoảng một thập niên trước đây, xóm hủ tiếu gõ “Xứ Nẫu” gồm nhiều thành viên cư ngụ ở quê, họ là bà con, hàng xóm… người trước rủ người sau vào Sài Gòn thuê nhà trọ ở theo nhóm để hướng dẫn nghề, giúp đỡ nhau trong kế mưu sinh. Những xóm hủ tiếu gõ “người miền ngoài”này ở rãi rác từ Gò Vấp, Bình Thạnh, Q3, Tân Bình tới Bình Tân… nhưng nhiều nhất ở Tân Bình. Ban ngày họ ngủ tới trưa, chiều lục đục dậy chuẩn bị nguyên liệu, đồ nghề nấu hủ tiếu, chiều xuống đẩy xe đi vào các xóm xa. Một xe hủ tiếu gõ thường có 3 người, “ông chủ” đẩy xe, kiêm thợ nấu, và 2 “đệ tử” vừa gõ nhịp lách cách rao hàng, kiêm bưng bê. Cuộc hành trình của một xe hủ tiếu gõ và những con người lam lũ này sẽ bước qua ngưỡng thời gian 0 giờ cho đến 2-3 giờ sáng hôm sau, trừ những xe may mắn bán hết hàng thì về sớm.
Hủ tiếu gõ thoạt kỳ thủy xuất phát từ những người “khách trú”, tức người Hoa di cư sang Việt Nam chọn Sài Gòn làm quê hương thứ hai để sinh cơ lập nghiệp. Khi chưa có “mặt bằng” kinh doanh ổn định họ bán hủ tiếu xe và cũng đẩy xe vào xóm bán từ chiếu tối tới đêm khuya. Những “Ông chủ” xe hủ tiếu gốc Hoa thời trước cũng gõ lốc cốc, lách cách như bây giờ, nhưng khác ở chỗ họ dừng xe ở một điểm cố định trong xóm, hết hẻm này đi hẻm khác. Và “hủ tiếu gõ” của người Hoa cực kỳ chất lượng, đơn giản vì họ lấy giá bằng hoặc rẻ hơn hủ tiếu ở tiệm một chút chứ không lấy giá bình dân như bây giờ. Hồi còn nhỏ tôi ở hẻm Nam Tiến quận 4, đã biết một “ông chủ” hủ tiếu gõ người Hoa bán xóm là A Chảy, ăn riết quen mặt, quen tên. A Chảy ngoài nghề bán hủ tiếu gõ còn nghề phụ là câu lươn, anh ta câu lươn vào buổi sáng, buổi chiều đẩy xe đi bán hủ tiếu gõ. Chẳng biết phải nhờ câu lươn về nấu nước lèo không mà hủ tiếu gõ của A Chảy thời ấy ngon cực kỳ.
Còn hủ tiếu gõ Sài Gòn ngày nay xuất phát từ… miền Trung, những người “nẫu” ở tận phương xa vào Sài Gòn hành nghề, tạo nên một phong cách ẩm thực bình dân nhưng ý nghĩa văn hóa lại rất “bác học”. Người bắt chước nghề, phát triển hủ tiếu gõ đầu tiên ở Sài Gòn có lẽ là anh Triêm, quê ở thôn Mỹ Trang xã Phú Cường huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi. Anh Triêm sau khi rời quê vào Sài Gòn thử nghiệm nghề bán hủ tiếu gõ thành công nên về làng rũ bạn bè, hàng xóm, bà con thân thuộc vào phát triển nghề này nên hiện nay thôn Mỹ Trang có nhiều người vào Sài Gòn bán hủ tiếu gõ nhất, có nhà đi gần hết chỉ còn người già ở lại.
Không chỉ có nam giới: trẻ con, thanh niên, trung niên, người lớn tuổi mà cả nữ giới: phụ nữ có gia đình, thanh thiếu nữ đều đi bán hủ tiếu gõ ở Sài Gòn. Nhờ bán hũ tiếu gõ mà người thôn Mỹ Trang đã giúp gia đình vượt qua khó khăn, nuôi được cha mẹ già yếu, lo cho con cái học hành đến nơi đến chốn. Đặc biệt nhà ông Chân có 5 người con đều vào Sài Gòn bán hủ tiếu gõ, riêng cô con gái út được coi là “thành đạt” nhất vì sau một thời gian bán hủ tiếu gõ đã quen với một “đại gia”, có nhà cửa và về quê bằng ô tô con khiến cả làng mở mặt.
Hủ tiếu gõ nở rộ rồi mai một dần
Nhưng trước khi có những người bán hủ tiếu gõ vượt qua số phận hẩm hiu thì hầu hết “doanh nhân” hủ tiếu gõ miền Trung trên đất Sài Gòn đều trải qua những ngày nắng mưa cơ cực, thật sự lam lũ với nghề, thậm chí tủi thân, khổ nhục trước sự cạnh tranh khắc nghiệt của thị trường ẩm thực phức tạp. Người ta đã từng tung tin hủ tiếu gõ Sài Gòn của những người miền Trung nấu nước lèo bằng nước cống và trùn chỉ. Cơn bão tin đồn quái ác này làm cho nghề bán hủ tiếu gõ của những người miền Trung xa xứ gặp rất nhiều khó khăn, điêu đứng. Chưa hết, mấy năm trước đây, không biết nguyên cớ nào, người ta lại tung tin đồn hủ tiếu gõ miền Trung nấu nước lèo bằng thịt… chuột cống.
Dư luận đã dấy lên sự bất bình, lo ngại, rồi bày tỏ sự kinh sợ hủ tiếu gõ đã đặt những người bán hủ tiếu gõ xa xứ trước nỗi lo bỏ nghề, phá sản vì thực khách tẩy chay. Nhưng cũng may mắn thay, báo chí lại chứng minh được rằng hủ tiếu gõ miền Trung vẫn trong sạch trong phong cách ẩm thực bình dân. Và thế là đêm đêm tiếng nhịp gõ lách cách quen tai của những chú bé nhân viên tiếp thị xe hủ tiếu gõ quen thuộc vẫn đi vào xóm, bất kể ngày nắng, đêm mưa.
Sài Gòn có cơ man các món ăn sang trọng, nhưng hủ tiếu gõ là “phong cách” ẩm thực đặc trưng của người xa xứ: công nhân, sinh viên, học sinh, người lao động đủ mọi ngành nghề ở các nơi tụ về sinh sống. Chỉ một món tiền nhỏ giữa thời bão giá, nhưng tô hủ tiếu gõ khiêm tốn chất lượng có thể “cứu đói” tức thời cho người thức đêm làm việ. Theo thời gian và sự phát triển của xã hội, văn hóa ẩm thực cũng tiến dần vào các con hẻm, đường ngang, ngõ tắt… nghề bán hủ tiếu gõ ở Sào Gòn mai một dần. Nhưng hình ảnh chiếc xe hủ tiếu gõ một thời lộc cộc đẩy vào xóm cùng tiếng rao bằng âm thanh đặc trưng lốc cốc, lách cách giòn tan trong đêm khuya, nhất là những đêm mưa chắc chắn đã thành dấu ấn kỷ niệm của biết bao người khi nhớ về Sài Gòn dù mai này có đi bất cứ nơi đâu, về đâu.



TỪ KẾ TƯỜNG

Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2025

GẶP LẠI - THƠ MẶC PHƯƠNG TỬ

 


GẶP LẠI 


Nhớ về ngày ấy.



Ngày ấy,

Cạn chén giao mùa niềm ảo vọng

Một thoáng trôi về tình khúc phôi pha

Mùa xuân, thanh âm sắc màu đi qua.


Đời mỗi phương

Nhìn nhau, bây giờ em ạ !

Sông đời, dòng trôi mênh mông

Như con thuyền sóng vờn bến lạ

Mắt đổi màu ngàn mây xa trông.


Nhớ thuở ấy,

Quê mình củ khoai, củ sắn

Giọt mồ hôi, giọt lệ vơi đầy

Bên miếng ruộng, miếng vườn

Bờ cau, liếp chuối

Thương đời mẹ một đời lầm lũi !

Gió sương năm tháng trĩu vai gầy !



Cố xứ gặp nhau

Tình ta nhớ thuở...

Chạnh lòng bao mùa trăng viễn phương

Trăng cũng ngậm ngùi

Như đời viễn mộng.

Cuộc lữ nào không rũ áo phong sương !


Màu xanh hôm nào

Vẫn xanh màu xứ sở

Những điệp khúc dòng trôi 

Đã khuất vội thuở xuân nào,

Cả lau sậy cũng vui mùa hội ngộ

Cát bụi bình yên về ngự đỉnh non cao !


Nay gặp lại em

Thời gian chảy dồn lên mái tóc

Ba mươi năm, những cuộc tình se tuổi mộng

Điệu đàn mấy nhịp trổi cung xưa

Long đong thuyền cũ

Xuân về bến

Trời quê hương tình mây nước giao mùa.




    MẶC PHƯƠNG TỬ.


Thứ Sáu, 25 tháng 4, 2025

NGÀY QUA NGÀY - XƯỚNG HOẠ HẢI LY,LÊ KIM THƯỢNG

 


                                                   

Bài xướng    

         

          NGÀY  QUA NGÀY

 

Một ngày qua, lại một ngày qua


Mái tóc bạc thêm sợi tóc già


Nước mới sôi tăm đùng ấm vỡ


Tình vừa bén lửa chợt mưa sa


Công danh hoa lá trôi ghềnh đá


Sự nghiệp khói mây níu nóc nhà


Không biết bao giờ dâu hóa bể


Cho đời dẫu xế nhập hòa ca


                                         

                            HẢI  LY



Họa y đề      

 

      NGÀY QUA NGÀY 

 

Đông tàn tuổi đến với năm qua


Sống chẳng bao năm đã cỗi già


Vừa mới thành nhân  như sóng lớn


Mà nay hóa lão tựa chim sa


Tiền đồ sóng vỗ xuôi bờ đá


Hoài bão mây tan thẹn nếp nhà


Chí lớn cho tàn theo dĩ vãng


Thôi đành lỡ khúc hát tâm ca

 



         Nha Trang, tháng  04. 2025


               LÊ KIM THƯỢNG