CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2025

NỖI LÒNG THA HƯƠNG - THƠ HUY VỤ

 


NỖI LÒNG LY HƯƠNG

Ô Thước làm sao để bắc cầu
Khi tình đã đoạn giữa sông sâu
Trăm năm mãi nhớ hình non thẳm
Vạn thế còn ghi bóng nguyệt sầu
Đất khách ngậm ngùi trông biển rộng
Quê người khắc khoải ngóng ngàn dâu
Thơ văn đeo đuổi hoài không dứt
Được chút hư danh đã trắng đầu

Trắng đầu vì mải thú văn chương
Thêu dệt bao nhiêu giấc mộng thường
Để ánh Đường thi tròn kiếp nuối
Cho câu lục bát trọn đời vương
Trông về tê tái phương trời cũ
Ngoảnh lại chênh chao chốn hí trường
Ba vạn sáu ngàn ngày chẳng mấy
Ai người thấu cảm nỗi ly hương.

Ly hương cách biệt dạ thêm sầu
Biết quỉ ở đâu Chúa ở đâu
Khó kiếm được ra người nghĩa trọng
Khôn tìm cho thấy kẻ tình sâu
Ngẩn ngơ đất lạ đời lữ thứ
Quay quắt trời nam cảnh dãi dầu
Giấy mực vơi đầy khôn tả hết
Se lòng tiếng cuốc vọng canh thâu.



HUY VỤ 
15/06/19

Thứ Năm, 19 tháng 6, 2025

NHẠC SỸ CHÂU KỲ : NGƯỜI TÙ LÃNG MẠN - TRẦN HỮU NGƯ

 


NHẠC SĨ CHÂU KỲ: NGƯỜI TÙ LÃNG MẠN

Nhạc sĩ Châu Kỳ qua đời, tính hôm nay 16.6.2025 là… 17 năm!
Thỉnh thoảng nhìn thấy vỏ bia BGI, tôi nhớ nhạc sĩ Châu Kỳ.
17 năm, đăng lại bài viết, để tưởng nhớ người nhạc sĩ “không say, không về”
“… Theo năm tháng hoài mong
Thư gởi đi mấy lần
Đợi hồi âm chưa thấy…”
(Sao chưa thấy hồi âm-Châu Kỳ).
Trước năm 2000, mỗi chiều Chủ Nhật, tôi thường đến nhạc sĩ Châu Kỳ để… nhậu!
Thú thật, anh nhậu “đến say mới về”, còn tôi thì “chưa say đã về”. Nhạc sĩ Châu Kỳ rất thích mấy em phục phụ kêu “Anh Kỳ”, mà đã kêu “Anh” thì Châu Kỳ nhậu tới bến luôn. Châu Kỳ khi đã đưa vài ly, tôi nhìn khuôn mặt anh “đẹp trai”, trổ một tràng tiếng Pháp rồi nói: Bịnh gì mà cử?
Có một ngày, (tôi nhớ là năm 2000, không rõ ngày tháng, nhân ngày đẹp trời, nhạc sĩ Châu Kỳ đến nhà tôi trên chiếc xe đạp sườn ngang).
Mời trà, không uống. Anh nói, có bia cho anh một chai. Hết một chai, anh nói cho thêm chai nữa rồi về. Cứ hết chai nữa rồi về (Bis, bis…). Khi anh về, tôi đếm 5 chai BGI (trong đó có tôi uống cầm chừng để tiếp anh).
Hôm đó anh say (Tôi hỏi anh đi được không để em đưa anh về? Anh mắng tôi, chú mày tưởng tao say hả, tao còn ghé quán con X làm tiếp…). Vợ anh gọi điện thoại mắng tôi một trận làm tôi cũng say luôn! Thường thì Chủ Nhật anh rủ tôi đi nhậu. Khổ một điều anh nhậu mà chưa say thì chưa chịu về. Cho nên từ vài ly cho đến… “biệt ly”, anh mất chừng 17 chiếc xe đạp.
Nhạc sĩ Châu Kỳ:
-Sinh 5.11.1923 tại Huế
-Mất 6.1.2008 tại Saigon
-Viết chừng 130 nhạc phẩm
-Bút hiệu khác: Anh Châu, Huy Tài, Huyền Chanh.
Nhạc sĩ Châu Kỳ người lắm “tài hoa” và nhiều “gian truân”, đã từng học Lycée Khải Định (Huế). Năm 20 tuổi anh đã làm nên nhạc phẩm “Trở về”, có thể nói anh là một thần đồng âm nhạc lúc bấy giờ. Châu Kỳ khởi đầu sự nghiệp là ca sĩ, Châu Kỳ-Mộc Lan là cặp ca sĩ nổi tiếng ở Huế từ năm 1950, anh hát nhạc Pháp khỏi chê, và nói lưu loát tiếng Pháp.
Trước khi nhậu, tôi phỏng vấn cấp tốc anh, anh nói, chú mày khỏi lo, “uống nói mới tin”, và anh nói khi chứ say:
-… Anh bị Pháp bắt tại Thàkhẹt Lào năm 1943 vì dám diễn vở kịch “Hồn Lao động”, vỡ diễn này có nội dung đề cao sức lao động và chống thực dân Pháp. Rồi từ Thàkẹt anh bị đày ra Ba Vì (Việt Bắc). Lúc đó, trong cái đói cái rét… tất cả anh đều chịu được, nhưng anh chỉ thèm một thứ rất nhỏ, nhưng khó mà cưỡng lại được, đó là… cà phê. Và để được uống một hớp cà phê, anh phải hát một bản nhạc Pháp, nhờ hát được bài hát tiếng Pháp anh đã được trả tự do.
Trong vụ bắt này có Trần văn Lang, Châu Thành và nghệ sĩ Mộng Điệp. Nhưng một tháng sau, mọi người đều được thả, chỉ còn lại một mình anh và anh bị đày ra Ba Vì.
Những ngày bị giam ở Ba Vì, anh nhớ nhà thì ít mà nhớ ca phê thì nhiều. Một hôm, nhân lúc tù nhân đi làm cỏ vê, ngang qua chỗ thằng Trung úy Muraton (Trưởng trại tù), thấy nó đang ngồi uống cà phê, anh thèm quá, đánh bạo xin, Maraton đồng ý với điều kiện muốn được uống cà phê thì phải biết hát nhạc Pháp. Châu Kỳ mừng quá, nói với với Maraton rằng, làm ơn cho tôi mượn cây đàn, Châu Kỳ ôm đàn hát một bài tiếng Pháp.
Và cũng từ đó, Châu Kỳ chiếm được cảm tình với vợ chồng Maraton. Một hôm thấy nó vui, Châu Kỳ xin nó trả tự do, nó hứa hôm nào tao xuống Hà Nội, xin tướng Decoux tha mày.
Đúng như lời hứa, chừng một tháng sau Châu Kỳ được thả, và từ Ba Vì phải vô Hà Nội rồi lên Ga Hàng Cỏ để mua vé xe lửa thống nhất về Huế. Vé có ba cắc, nhưng Châu Kỳ không có một xu, biết Châu Kỳ là một nghệ sĩ, Muraton bảo vợ là Ana cho Châu Kỳ 10 đồng và đích thân Ana dẫn Châu Kỳ ra Ga Hàng Cỏ lên tàu về Huế. Nhưng… (cuộc đời có những cái nhưng bất ngờ) đã trễ tàu, hai người đành ở lại khách sạn. Tôi nói, sướng nhỉ? Châu Kỳ làm bộ hỏi, sướng gì? Tôi nói, thì lâu lắm mới được ngủ khách sạn, sướng!
Năm 1943 Châu Kỳ ở tù vì diễn kịch, rồi 32 năm sau anh bị tai nạn nghề nghiệp vì viết một bài hát mà bị ở tù, rồi tiếp theo anh dám chơi “cùi chỏ” một nhà thơ lớn ở Hanoi nhân buổi “lên lớp” những anh em văn nghệ sĩ miền Nam, vì dám nói anh là “nhạc sĩ ngụy”, bị nhốt một đêm, nhờ nhà văn VH mà anh được thả ra. Anh nói một câu nghe mà khí khái:
-“… Cái thằng nhà thơ này, tao đã từng giúp nó khi mua hết mấy chục tập thơ “Điêu Tàn” bán ế trong những ngày gian khổ kháng chiến, nó phải mang ơn tao, vậy mà…”.
Lần đầu nghe thấy anh tức giận, và anh nói rằng, anh có một thế võ, những thằng nào cà chớn anh “đục” một phát là tiêu! Tôi nói, anh làm ơn chỉ em, vì quanh em cũng có mấy thằng cà chớn…
Chuyện là như vầy, anh tường thuật lại như sau:
Châu Kỳ:
-H. nhớ mình không? (Phan Ngọc Hoan là tên cúng cơm của CLV)
-H: Không!
-Châu Kỳ: Châu Kỳ, nhạc sĩ đây.
H:
-À, nhớ ra rồi, Châu Kỳ nhạc sĩ ngụy phải không?
Trở về Huế gần cuối năm 1943, ngồi bên bờ Hương Giang Châu Kỳ viết nhạc phẩm “Trở về”.
Theo tôi, trong số 130 nhạc phẩm của Châu Kỳ, tôi chọn nhạc phẩm “Trở về” là số 1, một bài hát rất nghệ thuật, đầy tính nhân văn, lãng mạn. Dù là bài hát đầu tay, dù anh mới 20 tuổi, nhưng “anh khôn trước tuổi”, và những ca từ “đi trước thời đại”.
Nhạc phẩm “Trở về” đã được lưu diễn khắp thế giới của nữ giáo sư vĩ cầm Pauline (người Pháp) ghé qua miền Nam trước 1975, bà đã độc tấu nhạc phẩm “Trở về” tại Rạp Thống Nhât, nhân tiện bà mời Châu Kỳ, Lê Thương, Trân Văn Trạch sang Pháp. Tại Rạp Municipal nữ ca sĩ Janesse đã hát “Trở về” bằng ba thứ tiếng Việt, Pháp và Tây Ban Nha.



Và hãy nghe ca sĩ Ngọc Hạ (hải ngoại), chuyển lời buồn muôn thuở, cùng giai điệu nhẹ lướt êm trên dòng Hương Giang:
“… Về đây nhìn mây nước bơ vơ
Về đây nhìn cây lá xác xơ
Về đây mong tìm bóng chiều mơ
Mong tìm mái tranh chờ
Mong tìm thấy người xưa
Về đây buồn trông cánh chim bay
Về đây buồn nghe gió heo may
Về đây đâu còn phút sum vầy
Đâu còn thắm niềm say
Lạnh lùng ngắm trời mây
Nơi xưa ôi giờ đây nát tan…”
Ôi, mất nhiều quá! Một bài hát cũ từ năm 1943, nhưng nghe lại sao thấy như… mới?
Em xin thành kính đốt nén nhang tưởng nhớ anh và cúng anh một chai bia BGI. Mời anh nâng ly để nhớ… Trở về.



TRANHUUNGU

Thứ Tư, 18 tháng 6, 2025

TRÁI KEO GAI SẮC MÀU KỶ NIỆM - TỪ KẾ TƯỜNG





 TRÁI KEO GAI SẮC MÀU KỶ NIỆM

Ở thôn quê ngày trước trẻ con thiếu thốn mọi thứ từ phương tiện giải trí tới cuộc sống sinh hoạt đời thường. Do đó hầu như trẻ con thôn quê đều gắn bó với thiên nhiên như hình với bóng. Ngoài cảnh sắc đồng quê do thiên nhiên ban tặng, nhiều loại trái hoang dại từ dây leo, lùm bụi thấp cho tới cây cao, tán lá sim sê đều là món ăn chơi và ăn thiệt của trẻ con quê nghèo, túi rỗng, thiếu thốn quanh năm. Trong số các loại trái hoang dại thiên nhiên ban tặng cho trẻ con thôn quê ngày xưa, tôi thích nhất là trái me keo, me nước hay còn gọi nôm na là trái keo gai, vì loại cây này mọc thành lùm bụi, cành nhánh có gai nhọn tua tủa.
Ở quê tôi ngày xưa, là vùng đất gần cửa biển, nhiễm mặn hầu như nhà nào cũng có hàng rào tre gai hoặc hàng rào keo gai. Hàng rào tre gai thì mùa nắng cho tiếng "võng đưa" kẽo kẹt từ những thân tre theo ngọn gió đưa cạ vào nhau thành âm thanh giống như tiếng võng đưa, nghe rất buồn. Mùa mưa dầm vài đám, dưới những gốc tre gai nhú lên những mụt măng, măng tre gai lớn nhanh, cao khỏi mặt đất chừng 40-50 cm thì gia chủ "xắn" mang ra chợ bán để người ta mua về hầm giò heo, hầm xương heo thành món canh giò heo hầm măng ngon tuyệt đỉnh bolero. Nhưng măng tre gai có vị đắng, không ngon, ngọt bằng măng tre mạnh tông. Do măng tre mạnh tông hiếm nên giá cũng mắc hơn măng tre gai rất nhiều.
Nếu nhà nào hàng rào trồng keo gai (còn gọi là me keo) thì trẻ con có hai thú vui. Đầu mùa mưa cây keo gai ra lá non là nguồn thức ăn khoái khẩu của họ hàng nhà quýt tàu (còn gọi là kim quýt). Một loài bọ cánh cứng màu xanh tuyệt đẹp, con trống và con mái rất khó phân biệt nếu không nhìn phần bụng. Con mái bụng to hơn con trống, vì thời điểm này quýt tàu mái bụng mang trứng chuẩn bị đẻ. Trứng quýt tàu cũng rất đẹp, bằng trứng thằn lằn nhưng có nhiều màu sắc, có 3 màu cơ bản: trắng, xanh da trời và hồng phấn. Tạo hóa thật kỳ diệu, cây keo gai lúc đầu là loài cây hoang dã, tưởng không có công dụng gì ngoài việc mọc hoang hóa ra lá cây keo gai lại là nguồn thức ăn vô tận cho loài quýt tàu.
Những nhóc tì kẹp tóc (con gái) rất thích nuôi quýt tàu để cho chúng đẻ trứng ra ngắm chơi. Những chị quýt tàu mang trứng thường rất lười biếng, các chị ở đâu không biết, cứ đầu mùa mưa là bay về lúc sáng sớm, đậu trên những nhánh keo gai để ăn lá non, ăn xong tới trưa thì nằm ngủ. Lúc này đám kẹp tóc phải nhờ một anh húi cua (con trai) làm cây gồng móc dài bằng cây trúc già, uốn thẳng, kéo nhau đi thọc các chị quýt tàu rớt xuống mang về nuôi trong hộp thuốc Tàu có mặt bằng kiếng, cho ăn lá keo để đợi ngày các chị quýt tàu "khai hoa nở nhụy", đẻ ra những quả trứng xinh xắn, nhiều màu đem khoe với nhau.
Hết mùa mưa tới mùa nắng, trẻ con thôn quê không còn thú chơi quýt tàu nữa thì lúc này trên những cành keo gai đã có những chùm trái chín ửng đỏ. Trái keo gai có nhiều mắt, mỗi mắt là một hột được bọc bởi lớp cơm mềm như bột, lớp cơm này có vị ngọt, thơm đặc trưng, là món ăn chơi của trẻ con nhà quê, trong đó có tôi. Trái me keo chín cong hình trăng lưỡi liềm, mọc thành chùm, treo lơ lững trên nhánh keo đầy gai, màu sắc rất đẹp làm mê mẫn đám con gái. Còn tôi ngày ấy chỉ theo phục vụ, khi thì trèo tuốt lên cây keo gai, lựa nhánh nào ít gai để đứng móc những chùm trái lơ lửng, hấp dẫn ấy cho đám con gái phía dưới dùng nón lá hứng.
Trái keo gai chín phải được trẻ con canh chừng để móc, nếu không sẽ bị đám chim sáo, chim cưỡng bông ăn mất. Nên việc canh chừng hàng keo gai trái chín tranh nhau với lũ sáo, lũ cưỡng bông cũng là một thú vui. Còn phe húi cua vào dịp này bỗng trở nên quan trọng, được phe kẹp tóc o bế, nhờ vả cũng là dịp để "lên mặt", ra oai. Đó cũng là nhờ mùa trái keo gai được trồng làm hàng rào quanh nhà, hay ranh đất giồng, đất vườn đang chín rộ.
Nhưng bây giờ về quê, tôi hầu như không còn thấy cây keo gai nữa. Và thứ trái gợi nhớ về tuổi thơ trong ký ức vui buồn cũng chỉ còn trong kỷ niệm. Những mùa hè tuổi thơ ấy đã qua lâu lắm rồi và đã chìm khuất hết, mất tăm vào dĩ vãng không quay lại mà chỉ còn trong hồi tưởng, hoài niệm đẹp của một thời thơ ấu. Lý do để cây keo gai biến mất trên những vùng đất quê là bây giờ người quê làm hàng rào bằng kẽm gai, hoặc đổ cột bê tông kéo lưới B40, nhìn có vẻ hiện đại nhưng lại không tạo được cảnh quan thiên nhiên, không thân thiện với môi trường sinh thái.
Chính vì thế nên bầu trời tuổi thơ đã mất đi niềm vui những mùa trái me keo chín, canh để móc xuống, tranh ăn với lũ chim sáo, chim cưỡng kéo nhau về kêu vang gọi bầy… Và trẻ con gái trai mất luôn cả những con bọ cánh cứng màu xanh biếc nuôi làm thú cưng để chiêm ngưỡng những quả trứng vàng nhiều màu sắc tuyệt đẹp. Nhiều thế hệ trôi qua, không cứ gì trẻ con sinh ra ở thành phố nhộn nhịp xe cộ, nhà cửa bê tông san sát mà ngay trẻ con thôn quê bây giờ cũng không biết trái keo gai, loại trái gắn liền với thời thơ ấu đã biến mất gần như chìm vào cổ tích xa xưa.



TỪ KẾ TƯỜNG

Thứ Ba, 17 tháng 6, 2025

NHỚ VỀ QUAN HỌ, BỐN BỀ TRĂNG MƠ - THƠ NHÃ MY

 



NHỚ VỀ QUAN HỌ 

Trăng nghiêng đậu xuống mạn thuyền 

Bơi theo câu hát giao duyên trữ tình

Lẳng lơ ánh mắt đen huyền

Cái ô khép nép chúng mình che chung

Ai về quan họ hội lim

Thiết tha câu hát đi tìm bóng xưa

Áo the quần lĩnh yếm đào

Nón quai thao chạm má hồng thêm xuân

Chùng chình nửa bước nửa dừng 

Bồng bềnh câu hát người ơi  đừng về 

Trăng mơ sóng toả sánh đôi ngọt lòng

Ơi câu quan họ thanh trong

Lửng lơ  gợi nhớ tơ lòng ngẩn ngơ

Hội lim nhớ hẹn lại lên

Đừng như duyên cạn  não lòng trầu cau 


NHÃ MY


BỐN BỀ TRĂNG MƠ


 đố ai vớt được trăng vàng

trăng bơi theo nước mơ màng trăng trôi

đôi tay em cuốn vàng rơi

phất phơ áo lụa mỏng mời hương xưa

đêm vàng trăng lạc thuyền đưa

chèo khua vỡ nước đêm vừa ảo mơ

nửa đêm lẻn bến đợi chờ

 ai đem duyên thắm  rối bời chiêm bao

bâng khuâng muốn ngõ lời trao

ngẩn ngơ thẹn với  má đào ngây thơ

nguyệt nằm bên gối trăng chờ

ai đem tiếng hát vỗ bờ  đam mê

thuyền trôi trôi mãi quên về

đêm  huyền ảo mộng bốn bề trăng mơ



NHÃ MY

Thứ Hai, 16 tháng 6, 2025

CUỐI GIÓ ĐẦU MÂY - THƠ HOA VĂN

 


CUỐI GIÓ ĐẦU MÂY



Thưa rằng xanh mãi cũng vàng
Làm thơ đâu kể muộn màng sớm hôm
Tập tành từ thuở vô ngôn
Ghép từng con chữ cho tròn câu thơ

Từ yêu lục bát đến giờ
Là trong muôn sự đôi bờ nắng bay
Chút tình cuối gió đầu mây
Bên này lối nọ Đông Tây thì thầm

Tôi vui bạn hữu xa gần
Tuổi đời chưa cạn thơ dần dà thưa
Như tôi thơ sắp hết mùa
Bước cao bước thấp gió mưa phận gì

Tôi còn nhẹ nhõm chân đi
Câu thơ tròn vận nặng vì bút duyên
Vẫn hồng tâm thức hồn nhiên
Trong tâm tư vẫn chẳng phiền trần ai

Mong nhau mớ tuổi thêm dài
Để hồn thơ vẫn trang đài tháng năm
Ơn chia bằng hữu vẹn phần
Tình em bát ngát vô ngần hương thơ.


01/27/2024
HOA VĂN

Chủ Nhật, 15 tháng 6, 2025

CẦU DỪA QUA TRÁI TIM QUÊ - TỪ KẾ TƯỜNG



 CẦU DỪA QUA TRÁI TIM QUÊ

Ở Đồng bằng sông Cửu long do đặc tính vùng miền nên có rất nhiều kênh rạch, thậm chí nhiều vùng sâu, vùng xa kênh rạch chằng chịt. Để nối liền giao thông thủy, bộ ở những nơi được ví von là “ khỉ ho, cò gáy” chẳng còn cách nào khác, người dân quê tôi tùy theo phương tiện sẵn có ở địa phương mình mà chọn “nguyên liệu” gỗ để bắc cầu. Ở miệt U Minh thì dùng cây tràm để làm cầu qua xẻo, qua rạch, ở miệt trên nữa như An Giang, Vĩnh Long thì làm cầu tre, nhưng ở Tiền Giang hoặc Bến Tre, đặc biệt là Bến Tre thì phổ biến làm cầu dừa vì Bến Tre nổi tiếng xứ Dừa, đi đâu cũng gặp cây dừa. Nhưng xin nói rõ, đây là cây dừa trái to, cho cơm ép lấy dầu chứ không phải cây dừa nước mọc thành bụi, um tùm cũng có trái mà trái nhỏ, có cơm mỏng, ăn chơi, lá dùng để lợp nhà, dừng vách.
Do đặc điểm ở Bến Tre hầu hết đều là nhà vườn trồng dừa, có nhiều thớt vườn rộng mênh mông hàng chục mẫu, trong vườn có nhiều bờ dừa nối tiếp nhau, bờ này cách bờ kia một con mương rộng nên muốn đi qua mương vườn phải bắc cầu và không còn gì tiện lợi hơn, dừa sẵn trên bờ cây nào già lão, cao ngất nghễu, ít trái hoặc dừa bị đuôn ăn, bom đạn chém chủ vườn hạ xuống… làm cầu. Nếu là cầu qua kênh rạch thì để nguyên cả cây dừa và thường là cầu đôi, tức hai cây dừa bắc song song sát vào nhau cho dễ đi. Nếu là cầu bắc qua mương vườn, qua con xẻo thì phải cưa cây dừa làm hai, ba đoạn tùy theo khoảng cách con mương, con xẻo dài hay ngắn.
Cây dừa mọc thẳng đứng, suôn, bền chắc, càng lầu năm càng dẻo dai nên có rất nhiều công dụng mà hai công dụng chính là làm cột nhà và làm cầu. Nhưng đặc biệt, cây dừa khi làm cột nhà thì thợ mộc phải chành vỏ, bào láng. Nếu dừa lão, nổi nhiều vân, màu sắc khác nhau khi được bào láng làm cột nhà sẽ rất đẹp và nếu được ngâm dưới bùn vài ba tháng vớt lên làm cột nhà thì bền chắc hết ý. Nhưng cây dừa dùng bắc cầu thì để nguyên cả vỏ, và cầu dừa bắc qua mương vườn thường là cầu chiếc, ít ai bắc cầu đôi. Chính vì đặc điểm này nên mới có bài hát “cây cầu dừa” của một nhạc sĩ mang âm điệu dân ca Nam bộ, có lẽ cảm tác từ mối tình của chàng trai thành phố và cô gái miệt vườn khi chàng trai thành phố theo cô gái miệt vườn về thăm quê bước qua cây cầu dừa mùa mưa.
Đúng thế, chẳng đợi tới mùa mưa cầu dừa mới trơn trợt, ai không quen đi thường, nắm được bí quyết, kinh nghiệm bước chân trên cầy cầu dừa thì dễ té xuống mương vườn. Bởi vì chỉ cần một vài người chân lấm bùn sình đi qua cầu dừa trước, người đi sau sẽ lãnh đủ vì dấu chân người đi trước sẽ để lại bùn bám trên cây cầu dừa trơn… hơn bị đổ nhớt hay bôi mỡ. Ai bước lên sẽ té ngay mà không có cách nào chống đỡ. Kinh nghiệm của tôi từ thuở nhỏ ở quê đi cầu dừa mùa mưa trơn trợt là đi chân... hai hàng, bước thật nhanh qua bên kia đầu cầu sẽ không bị té. Người lớn không có kinh nghiệm đi qua cầu dừa do sợ sẽ đi thật chậm, đi kiểu người mẫu trên sàn diễn bắt tréo chân trước, chân sau sẽ té ngay từ bước chân đều tiên.
Cầu dừa đối với nhiều người ở miệt vườn chắc chắn có không ít kỷ niệm. Lúc tuổi nhỏ qua cầu dừa để tới trường học, lớn lên phụ ba mẹ vác lúa qua cầu dừa tới nhà máy chà gạo. Lớn hơn nữa ở tuổi yêu đương, biết hò hẹn thì nam, nữ rũ nhau ra cầu dừa ngồi ngắm trăng sáng lên trong vườn và… thề hẹn cũng dễ, khi nhìn xuống mặt nước thấy vầng trăng lung linh lúc vỡ ra, lúc ráp lại nguyên vẹn tha hồ cho trí tưởng tượng… phiêu linh mà nghĩ ra trăm lời thề non, hẹn biển. Nhưng với tôi, thời tuổi nhỏ, cầu dừa là nơi tắm rạch tuyệt cú mèo. Tắm rạch không đứa nào tắm một mình mà rũ cả đám bạn cùng trang lứa đợi cho nước lớn đầy vào buổi trưa kéo nhau ra rạch, đứng trên cầu dừa “bông nhông” xuống nước với nhiều tư thế khác nhau: khum người bổ thẳng xuống như ếch phóng, nhún chân lấy đà lộn nhào như làm xiếc, nhảy xuống theo chiều thẳng đứng mà phần lưng quay ra mặt nước…
Nhưng có lẽ thú vị nhất là ngồi trên cầu dừa thòng hai chân xuống mặt nước đang đổ vào rạch, vào mương trong những đêm trăng sáng để câu cá chốt đêm. Cá chốt ăn câu khi nước “nhữn lớn”, trên mặt nước nổi váng phù sa màu mỡ gà mà dân miệt vườn thường gọi là “nổi màng màng” cho đến khi nước đứng, tức lúc nước đã lớn đầy. Sau đó thì tuyệt nhiên, chẳng còn con cá chốt nào ăn câu dù có câu với cần không lưỡi như Khương Tử Nha câu cá chờ thời. Đặc biệt, ban ngày cá chốt ăn mồi tép phơi “một nắng”, nhưng ban đêm ít ăn mồi tép mà mồi câu cá chốt đêm tuyệt cú mèo là con hà. Loài này thân dẹp như cọng lác chẻ nhỏ, da láng bóng, màu nâu, có con dài đến 10cm, ở sâu trong lớp bùn dẻ dưới chân bụi lúa, gốc rạ trên đồng ruộng nước lợ. Muốn bắt phải thọc cả hai bàn tay sâu vào gốc rạ bứng lớp đẩt bùn dẻ lên rồi bắt từng con bỏ vào lon sữa bò có sẵn một lớp bùn nén chặc. Thứ mồi này rất nhạy để dụ cá chốt ăn câu vào ban đêm.
Người thành phố khi về quê chơi muốn đi qua cầu dừa mùa mưa dính bùn trơn trợt phải làm sao cho khỏi té ngã? Có một vài bí quyết nhỏ, đồng thời cũng là kinh nghiệm. Trước hết phải lột giày, lột dép, bỏ guốc cao gót cầm tay, quần xắn ống lên cao, đứng lên đầu cầu theo thế nghiêng chân trái làm chuẩn, bàn chân phải sát vào bàn chân trái cố gắng giữ thăng bằng từ hai bàn chân rồi nín thở, lấy trớn… tuột một cái thật nhanh qua đầu cầu bên kia, bảo đảm không té ngã dù cầu rất trơn. Kinh nghiệm thứ hai: bước thẳng lên đầu cầu theo tư thế hai chân đi… hai hàng, mặt nhìn thẳng, hai gang chân làm điểm tựa, bám sát lớp vỏ gồ lên của cây cầu dừa từng đoạn và mạnh dạn bước qua, đi theo cách này sẽ không té ngã lộn mèo xuống mương, xuống rạch.
Không cứ gì dân miệt vườn, người thành phố nếu có dịp về quê sẽ rất thú vị nếu được bước chân đi qua cây cầu dừa. Dù cầu dừa bắc qua con mương ngắn hay con xẻo, con rạch rộng dài, và dù có trơn trợt đến đâu hãy cứ xem đây là sự thử thách, sự khám phá mới mẻ. Khi đã chinh phục được… cây cầu dừa miệt vườn rồi thì có thể bước qua bất cứ một cây cầu nào cũng sẽ thấy rất dễ dàng. Đặc biệt là khi thử thách này được đặt vào một thanh niên thành phố từ một cô bạn gái ở miệt vườn. Nếu anh bước qua được cây cầu dừa trơn trợt mùa mưa mà không té ngã thì xem như đã bước tới được trái tim cô ấy vậy.



TỪ KẾ TƯỜNG

Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2025

LỄ CHA - ĐỖ CHIÊU ĐỨC


  



Chúa Nhật thứ ba của Tháng Sáu hằng năm, là ngày LỄ CHA (Father's Day) của nước MỸ. Ngày LỄ CHA năm nay nhằm ngày Chúa Nhật 15 tháng 6 năm 2025.
          
 Ta thường gọi ngày LỄ MẸ là NGÀY HIỀN MẪU, nên khi đến ngày LỄ CHA thì rất nhiều người theo thói quen, thay chữ MẪU bằng chữ PHỤ, và gọi ngày Lễ Cha bằng NGÀY HIỀN PHỤ ??!!...
 
Ngày Lễ Cha, Father's Day, không thể gọi là ngày HIỀN PHỤ được, vì Hiền Phụ 賢婦 là VỢ HIỀN, chớ không phải CHA HIỀN. Muốn nói Cha Hiền thì phải gọi là TỪ PHỤ 慈父, lấy trong thành ngữ  "Phụ Từ Tử Hiếu 父慈子孝 ", tương đương trong tiếng Nôm ta là "Cha Hiền Con Thảo."  Trong gia đình Phong Kiến ngày xưa, người Cha luôn luôn nghiêm khắc và nghiêm cẩn trong mọi hành vi cũng như sinh hoạt của gia đình, nên còn được gọi là NGHIÊM ĐƯỜNG, NGHIÊM PHỤ.  Lời dạy của Cha thì gọi là NGHIÊM HUẤN, như trong Truyện Kiều, khi Thúc Ông bắt Thúc Sinh phải bỏ cô Kiều, cụ NGUYỄN DU đã viết:
                    
Thấy lời NGHIÊM HUẤN rành rành,                    
Đánh liều sinh mới lấy tình nài kêu.

 Nhưng bây giờ mà ta gọi như thế thì nghe nghiêm khắc và xa rời con cháu quá!   Còn một từ dùng để gọi cha ngày xưa nữa là XUÂN ĐƯỜNG (còn đọc là THUNG ĐƯỜNG) 椿堂. Theo sách Trang Tử, chương Tiêu Dao Du, thì XUÂN 椿 là loại cây cao bóng cả, tàng lá sum xuê, có tám trăm năm là mùa xuân, tám trăm năm là mùa thu, nên được dùng để ví với người cha là cột trụ chống đỡ và che chở cho gia đình.  Khi cô Kiều khuyên Thúc Sinh về thăm Hoạn Thư, thì chàng mới...
             
Rạng ra trình lại XUÂN ĐƯỜNG,                
Thúc Ông cũng vội khuyên chàng quy gia.
 
Sẵn trình bày luôn về từ dùng để chỉ Mẹ, đó là từ HUYÊN ĐƯỜNG 萱堂.  HUYÊN  là một loài thảo mộc được trồng trong nhà như cây Trường sinh, lá thon dài, nở hoa màu vàng và cho hương thơm dìu dịu, ăn được, ta thường gọi là Hoa KIM CHÂM, dùng để chỉ sự dịu dàng của người mẹ nên ta có từ gọi chung CHA MẸ là XUÂN HUYÊN.  Khi hay tin Kiều đã bán mình chuộc cha, Kim Trọng đã vật vã khóc than đến nỗi "Máu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao", khiến cho:
                     
XUÂN HUYÊN lo sợ xiết bao,                    
Hóa ra khi đến thế nào mà hay!
          
Xin được trở lại và nói thêm về từ HIỀN PHỤ 賢婦 là VỢ HIỀN;  HIỀN :  Ngoài nghĩa trái với Dữ là Hiền Thục ra, Hiền còn có nghĩa là GIỎI GIANG.  Ví dụ: Hiền Thần là Bề tôi giỏi để phò Vua giúp nước.  Hiền Tài là người có Tài Giỏi và đây cũng là một chức sắc Giỏi Giang trong Cao Đài Giáo. Còn...         
PHỤ :  Đây là kiểu chữ HỘI Ý, được ghép bởi bộ NỮ  bên trái là Cô Gái, và chữ TRỮU  bên phải là Cây Chổi hàm ý là cô gái mà cầm cây chổi (để quét dọn nhà cửa) là đã trở thành người chủ của gia đình rồi, đã kết hôn rồi, nên PHỤ là Đàn Bà, là Người Vợ.  Vì thế mà HIỀN PHỤ là VỢ HIỀN.  PHỤ NỮ là chỉ chung tất cả CÁC BÀ CÁC CÔ có chồng hoặc "chổng chừa !". PHU PHỤ là Vợ Chồng. Hồi nhỏ thường hay nghe Má tôi hát ru em như thế nầy:
                               
Sông dài cá lội biệt tăm,               
Phải duyên PHU PHỤ ngàn năm em cũng chờ!
  
Nên...         
HIỀN PHỤ 賢婦 : Chẳng những chỉ người đàn bà hiền thục, mà còn chỉ người đàn bà giỏi giang "Tướng phu giáo tử"  ( Giúp đỡ chồng và nuôi dạy con cái ).         
Ca dao của Việt Nam ta có câu:   
                   
Công cha như núi Thái sơn,              
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra !

 

  
Nhưng...        
Trong văn chương không thiếu những áng văn, những bài thơ ca tụng mẹ hiền, mà lại rất hiếm, rất khó kiếm được một bài thơ, một áng văn hay ca ngợi công cha, có thể sự dịu dàng hòa ái của bà mẹ gần gũi với con cái hơn là bộ mặt lúc nào cũng "Lập nghiêm" của ông cha.  Cha thì lo việc lớn hơn, ngoài việc duy trì và nuôi sống gia đình, lắm ông còn phải chăm lo việc nước, việc ngoài xã hội...  Nhưng cũng có những người cha có máu "giang hồ" thích lang bạt rày đây mai đó... Ta hãy cùng đọc một bài Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt của Đỗ Mục đời Đường để thắm thía hơn với cái máu "giang hồ" của các ông cha ngày trước...
 
歸家                           QUY GIA  
稚子牽衣問,           Trỉ tử khiên y vấn  
歸來何太遲。           Quy lai hà thái trì ?  
共誰爭歲月,           Cộng thùy tranh tuế nguyệt  
贏得鬢如絲           Doanh đắc mấn như ti
             杜牧                                        Đỗ Mục
 
Thích nghĩa:
 
QUY là về, GIA là nhà, QUY GIA là Về Lại Nhà.
1. Câu 1: Trỉ là non, Tử là Con. TRỈ TỬ: không phải là con non mà là Con Thơ.  Khiên: là nắm, là níu, là dắt.  Y là Áo, Vấn là Hỏi.  Nghĩa toàn câu là:                    
"Con thơ níu áo hỏi"  
2. Câu 2: Quy là Về, LAI là Xu hướng Động từ, chỉ sự di chuyển gần đến người viết hoặc nói.  QUY LAI là Về lại, là Về "đây."  QUY KHỨ là Về "đi " (KHỨ chỉ di chuyển Xa người nói hoặc viết).  Hà là Sao? Thái là Quá.  Trì là Trễ, muộn. Nghĩa cả câu:     
 "Sao muộn quá mới về lại nhà?" 
3. Câu 3: Cộng là cùng, chung.  Thùy là Ai?  Tranh là dành, giựt.  Tuế là Tuổi, là Năm.  Nguyệt là Tháng.
Nghĩa cả câu:       
Cùng với ai dành giựt năm tháng, ý nói: "Cùng với ai sống đua chen trong những năm tháng đó?"  
4. Câu 4: Doanh là Lời, thắng, Ăn, thu hoạch.  Đắc là được. Mấn là Tóc mai.  Như là giống, giống như.  Ti là Tơ.
Nghĩa cả câu:          
(chỉ) lời được hai bên tóc mai trắng như tơ.
 
Diễn nôm:
                 
Về Lại Nhà           
Con thơ trì áo hỏi           
Sao đi mãi đến giờ ?          
Cùng ai ngày tháng ấy           
Mà tóc đã bạc phơ!
 
Lục bát:
                 
Con thơ níu áo hỏi cha           
Đi sao lâu quá, bỏ nhà bỏ con!                 
Cùng ai ngày tháng mõi mòn?          
Sương pha tóc trắng chẳng còn như xưa!
       
Hai câu đầu là lời chất vấn, thắc mắc, thơ ngây nhưng lắc léo của con thơ.  Nhưng hai câu sau... hình như là lời than van, oán trách, khúc mắc, thở than của bà... nội tướng đã biết bao ngày khoắc khoải, mòn mõi đợi chàng về!
 
Trong ngày LỄ CHA, mong rằng các ông cha luôn luôn trân quý sự sum họp và tình cảm gia đình để gắn bó hơn với con cái và các thành viên trong đó, nhất là với người đầu gối tay ấp, sao cho...
                                
Một nhà sum họp trúc mai,                       
Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông!                                         
                                      (Truyện Kiều)                             

 

              杜紹德   

                      ĐỖ CHIÊU ĐỨC