CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 31 tháng 3, 2021

THỬ SUY NGHIỆM VỀ “CUNG THỤY DU” TRONG BÀI THƠ “KHÚC THỤY DU” CỦA TRẦN MAI NGÂN. - CHÂU THẠCH






 


van tran

Tệp đính kèm20:57, Th 2, 29 thg 3 (2 ngày trước)


tới 


THỬ SUY NGHIỆM VỀ “CUNG THỤY DU” TRONG BÀI THƠ “KHÚC THỤY DU” CỦA TRẦN MAI NGÂN.
                      

  
KHÚC THỤY DU 

*** 
Em biết
Trăng Thu huyền ảo lắm
Càng chạy tìm - càng xa
Bóng trắng cứ sáng loà
Cung Thuỵ Du ảo mộng...
  
Em biết
Trong khúc quanh đồng vọng
Dư âm của dấu yêu
Dù rất rõ một điều
Là không hề có thật!
  
Em sống trong tất bật
Ngày đêm đan xen nhau
Những dư vị ngọt ngào
Tặng trao lời đường mật...
  
Em biết và em sống
Trong từng sát na yêu
Nghe hương đời tan biến
Rót trong nhau đủ điều!
Em biết và em sống!
Em biết và em sống! 
 

                     TMN 

 

Lời Bình: Châu Thạch    

 

     Thụy là ngủ, du là đi dạo chơi, vậy thụy du là nằm ngủ mà mơ thấy mình đi chơi.  Theo nghĩa Hán Việt, “Khúc Thụy Du” là một khúc hát về giấc ngủ, cái chết, hoặc một chuyến đi dài. 

 

    Nhà thơ Trần Mai Ngân lấy tựa đề cho bài thơ của mình là “Khúc Thụy Du. Tất nhiên bài thơ “Khúc Thụy Du” nói về một cơn mơ trong giấc ngủ của mình. Cũng có thể nhà thơ nói rộng ra, về một cơn mơ giữa cuộc đời nầy. 

 

   Trong bài thơ “Khúc Thụy Du”, có một chốn mà không ai biết đến, chỉ được thấy nhà thơ nói về nơi ấy là “Cung Thụy Du”. Vậy trong bài viết nầy, thử suy nghiệm về nơi chốn mới lạ ấy mà nhà thơ Trần Mai Ngân đã đem vào thơ của mình: 

 

    Khổ đầu của bài thơ như sau: 

 

                    Em biết
                    Trăng Thu huyền ảo lắm
                    Càng chạy tìm - càng xa
                    Bóng trắng cứ sáng loà
                    Cung Thuỵ Du ảo mộng... 

    

     Khổ thơ cho ta biết nhà thơ đang chạy theo ánh trăng thu nhưng không bao giờ đến đích. Đích không thể đến của nhà thơ là “Cung Thụy Du ảo mộng…”.  Chữ  “Cung Thuy Du” tác giả viết hoa. Như thế, đối với tác giả,  Cung Thụy Du là một vùng nào đó có thật giữa thiên nhiên, tuy nó nằm trong ảo mộng nhưng nó vẫn là điểm đến trong giấc thụy du. Linh hồn nhà thơ trong khúc thụy du đang bay về hướng Cung Thụy Du đó.  

   Sách vở không nói đến Cung Thụy Du, nhưng muốn biết nó ở đâu ta có thể suy nghiệm dựa trên thơ của nhiều thi nhân cũng từng bay về  một nơi như thế. 

 

  Xin mời nghe một khổ thơ  đi vào thế giới “Im Lặng” của Xuân Ly Băng, một nhà thơ Thên Chúa Giáo: 

 

                Dáng ngọc lượn về trong giấc êm
                Nhẹ tựa hoa bay chốn nguyệt thiềm
                Đường vào im lặng mê ly quá
                Lót toàn tơ lụa cõi thần tiên

                              (Im Lặng) 

 

      Khổ thơ giới thiệu với ta một linh hồn thoát xác bay trên con đường im lặng. Con đường ấy tất nhiên không có ở trần gian vì nó đã được “lót toàn tơ lụa cõi thần tiên” và nó cũng có thể đang hiện hữu một nơi nào đó mà linh hồn nhà thơ thấy khi bay. Đối với nhà thơ Thiên Chúa Giáo Thì con đường “Lót toàn tơ lụa cõi thần tiên” chắc chắn là con đường dẫn đến Thiên Đàng. Đọc thơ, ta biết Xuân Ly Băng cũng đang ở trong một giấc thụy du như Trần Mai Ngân. Nhà thơ đang bay trên con đường về Thiên Đàng. Vậy có thể nói “Cung Thụy Du” của Xuân Ly Băng là Thiên Đàng mà linh hồn nhà thơ đang “lượn về trong giấc  êm”, tức là giấc thụy du “mê ly quá” mà  nhà thơ đang thụ hưởng. 

 

   Bây giờ, xin mời nghe tiếp hai khổ thơ của một nhà thơ Phật Giáo, Trần Thoại Nguyên:

                Ngồi trong vườn nguyệt lộ
                Hôn một màu trăng non.
               Nghe lòng mình cười rộ
               Chạy băng đồi vô ngôn.

               Ồ. Hồn tràn mộng trắng
              Tôi ôm trăng không màu
              Tôi ngút xuống bi
n dạng
              Tôi dại khờ mắt nâu.
 

           (Đêm Trăng Leo Lên Mái Chùa) 

 

          Toàn bộ bài thơ “Đêm Trăng Leo Lên Mái Chùa” tác giả nói về trăng. Nhà thơ ngắm trăng, bay qua trăng, rơi trong trăng và ngộ ra điều huyền nhiệm cũng ở trong trăng. Trăng là những điều huyền diệu soi khắp bản thể của muôn vật trong trời đất. Mỗi con người trong linh hồn cũng có một vầng trăng nội tại, nói xa xôi là một vị Phật còn ẩn trong lòng. Bài thơ như nói về vầng trăng ngoại tại, vầng trăng thiên nhiên đã khai sáng, cho linh hồn thấy được vầng trăng nội tại. 

 

     Dầu “Ngồi trong vườn nguyệt lộ” nhưng linh hồn  nhà thơ Trần Thoại  Nguyên đã đi, đã “Chạy băng đồi vô ngôn”, tức là cũng giống như nhà thơ Xuân Ly Băng đi vào con đường “Im lặng mê ly quá”. Vậy thì mục đích nhà thơ Trần Thoại Nguyên “chạy băng đồi vô ngôn” để làm gì? Phải chăng ý tưởng cũng chỉ muốn đến một nơi thần thoại “Cung Thụy Du ảo mộng…” mà Trần Mai Ngân đã “Càng chạy tìm… càng xa”.  

 

     Hãy suy nghiệm tiếp khổ thơ đầu trong bài “Ave Maria” của Hàn Mạc Tử: 

 

                 Như song lộc triều nguyên ơn phước cả 

                Dâng cáo dâng thần nhạc sáng hơn trăng 

                Thơm tho bay cho đến cõi Thiên Đàng 

                Huyền diệu biến thành muôn kinh trọng thể 

                           (Ave Maria) 

 

     Bốn chữ “song lộc triều nguyên” Hàn Mạc Tử đã dùng thứ ngôn từ đặc biệt mà nhà thơ cho răng đó là “Kinh Kính Mừng” bằng thơ của riêng ông dâng lên cho Đức mẹ Maria. “Song lộc” là Hóa Lộc và Lộc Tồn trong khoa tử vi. Đó là hai thứ lộc Trời ban cho con người ân sủng cao trọng cũng như lợi lộc trần thế vinh quang. Bởi thế người xưa có câu “Song Lộc trùng phùng chung thân phú quý”. 

 

     Có người cho rằng Hàn Mạc Tử đã viết bài thơ nầy sau một lần tắm biển suýt chết, nhà thơ thấy mẹ Maria cứu ông, cho nên Hàn Mạc Tử đã tạ ơn bằng những câu thơ “Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy/ Cơn lậm lụy vừa trải qua dưới thế”. 

 

   Đọc thơ ta biết trong giây phút thập tử nhất sinh đó, linh hồn Hàn Mạc Tử đã thoát xác, linh hồn nhà thơ bay về Thiên Đàng với cảm nhận vô cùng thú vị, thú vị đến nổi nhà thơ thốt lên những mỹ từ vô cùng thánh thót như “thần nhạc, thơm tho, huyền diệu”. 

 

    Phải chăng trong giờ phút nầy linh hồn Hàn Mạc Tử cũng đắm mình trong một khúc thụy du để “triều nguyên” nghĩa là hướng về chốn khai nguyên hay là chốn chân lý. Chốn ấy chính là Thiên Đàng nơi mẹ Maria đang ở, cũng chính là “Cung Thụy Du” mà Hàn mạc Tử đang tìm về trong giấc thụy du của mình. 

 

    Cuối cùng, Hàn Mạc Tử cũng như Trần Mai Ngân, “Càng chạy tìm -càng xa” vì “Bóng trăng cứ sáng lòa” nên không thể đến với “Cung Thụy Du ảo mộng…”. Cho nên Hàn Mạc Tử mới thốt lên: 

 

                Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì! 
                Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu, 
                Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu 
                Trên triều-thiên ngời chói vạn hào-quang? 

 

 Phượng Trì là đâu? Có người cho rằng, Phượng Trì là nơi đức mẹ Marria ngự, có người cho rằng Hàn Mạc Tử đồng hóa Phượng Trì với  Giao Trì của Tây Vương Mẫu, nghĩa là nhà thơ quan niệm chỉ có  một chốn cực lạc chung mà  mỗi tôn giáo đặt tên khác nhau để gọi, nhưng chân lý thì quy về một thể một mốimột chốn mà thôi. 

 

     Qua những khổ thơ trên của các tác giả, người viết trưng dẩn, để có  thể cùng nhau suy nghiệm, hiểu rõ hơn “Cung Thụy Du” mà tâm thức nhà thơ Trần Mai Ngân đã muốn bay về nơi đó trong khúc thụy du của mình, hay đúng ra nhà thơ đã sáng tạo một tên mới trong bài thơ “Khúc Thụy Du” của mình, cho một chốn An Nhiên, Cực Lạc, Niết Bàn hay Thiên Đàng mà tôn giáo đã đặt ra.  Tất cả các tên ấy đều là “Cung Thụy Du” của Trần Mai Ngân, mà mỗi nhà thơ xuất thần đi vào trong không trung đều định hướng bay để đưa mình đến chốn khoái lạc kía.  

  

    Khác với ba nhà thơ kia, họ đi tìm Cung Thuỵ Du để thấy Chân Lý Vĩnh Hằng, nhà thơ  Trần Mai Ngân chỉ đi về Cung Thuỵ Du của tình ái, như con chim bé nhỏ bay qua ngàn vì sao để được đến với thế giới  ngọt ngào, nơi có tình yêu trai gái vĩnh hằng và thánh khiết. Nhà thơ Trần Mai Ngân trong bài thơ “Chuồn Chuồn bay…” đã từng hóa thân thành con  “Chuồn chuồn bay đến cổng trời/ Tìm người xưa cũ gửi lời ăn năn”. Một lần nữa, ta thấy sức tưởng tượng  của Trần Mai Ngân trở nên thâm thúy, mang màu sắc triết lý trong tình yêu.  

 

     Có một điều xác nhận, cả bốn nhà thơ, khi đi vào không trung để đến Cung Thuy Du, thì Trân Mai Ngân đi trong ánh trăng huyền ảo, Xuân Ly Băng đi trong chốn nguyệt thềm, Trần Thoại Nguyên ôm trăng không màu và Hàn Mạc Tử đi trong trăng có thần nhạc sáng hơn trăng. Vậy thì chốn mà bốn nhà thơ muốn đến chắc chắn nằm trong ánh trăng, hay nói rõ hơn Cung Thụy Du phải là một nơi trong vùng trăng sáng, tràn ngập ánh trăng! 

 

      Suy nghiệm như thế và luận giải như thế chỉ là ý chủ quan và cực đoan của người viết, chỉ mong đem lại vài phút giây tìm vui trong hư cấu của văn thơ. Rất mong ai đó đồng cảm hay không đồng cảm với bài viết cũng lắng lòng, cho tâm hồn hướng đến Cung Thụy Du của Trần Mai Ngân, để tưởng tượng những đường trăng lung linh có thần nhạc êm ái, để nhận “Những dư vị ngọt ngào/ Tặng trao lời đường mật…” mà nhà thơ Trần Mai Ngân  đã ngâm vào trong men thơ của tác giả . Nếu có duyên, người viết xin hẹn sẽ trình bày cảm nhận của mình về toàn bộ bài thơ “Khúc Thuy Du” một ngày nào cảm xúc tràn đến trong tim ./. 

                                       CHÂU THẠCH

 

     

       

Thứ Ba, 30 tháng 3, 2021

Từ HOÀNG HẠC LÂU đến HÀM DƯƠNG THÀNH ĐÔNG LÂU - ĐỖ CHIÊU ĐỨC

 


Chieu Duc

19:10, CN, 28 thg 3 (1 ngày trước)
tới AnAnhGiangBongBrianVanBillDienHoanDaoChonHungDoanhdothieucuong06@gmail.comDuongBácSanCangHồHảiHienHngHoahoanghong1942@yahoo.comhữuĐứcNoiKimKimsangLaTuanDzunglawrenceKyLelemaily.57@gmail.comCapLocNghiCoAnhLoanMaiMinhminhphan8519@yahoo.comtôiQUANGNguyenNguyenLocNhungnhungtvo048@gmail.comNicoleNhưphamid1934@gmail.comNguyenphilipsdo@gmail.comp.d.SonTamTBHThangThanhThanhthanhduongtx@yahoo.comThuthuctrinhvanTiemlyTonyAnhTrantranbt21@gmail.comtrudinh@hotmail.comTruongTuyenVietvienhoangle1948@gmail.comVoYên陈翠萍luutungvinh@gmail.comHuyNHANwalle408@gmail.comphingochung92@gmail.comngoton5888@yahoo.comThủyThuyminhtaichinh@gmail.comdoquybai@msn.comttranpham@gmail.comngocdungnnd@aol.comgocnhosantruong@hotmail.comhathaius@yahoo.com


Giai Thoại Văn Chương : 

          Từ HOÀNG HẠC LÂU đến HÀM DƯƠNG THÀNH ĐÔNG LÂU

                      
 
       Hoàng Hạc Lâu 黃鶴樓 nằm ở trên Hoàng Hạc Cơ 黃鶴磯 của Xà Sơn thuộc đất Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc. Được xây dựng từ năm Hoàng Võ thứ 2 của nước Đông Ngô thời Tam Quốc (223 sau CN). Theo sách "Nguyên Hòa Quận Huyện Đồ Chí 元和郡縣圖志" ghi lại : " Tôn Quyền khi xây Cố thành ở Hạ Khẩu, vì thành tây giáp Trường Giang, góc Giang Nam lại có bờ đá lớn, nên xây lên một lầu cao để quan sát, gọi tên là Hoàng Hạc Lâu. Lầu được xây dựng cho mục đích quân sự.". Nhưng theo sách "Cực Ân Lục 极恩录" ghi lại, thì Hoàng Hạc Lâu là do dòng họ Tân Thị xây lên để làm tửu lâu.
      Qua các triều đại Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, trước sau được tu sửa đến 10 lần, nhưng cuối cùng vẫn bị hũy ở đời vua Quang Tự thứ 10 (1884). Từ đời Bắc Tống cho đến khi bị hũy, Hoàng Hạc Lâu từng là Đạo Tràng lớn của Đạo giáo ( Lão giáo). Là nơi truyền đạo của tiên ông Lữ (Lã) Động Tân (một trong Bát Tiên ), tương truyền, Tổ Sư Lã Động Tân đã cởi hạc thăng thiên trong ngày 20 tháng 5 ở Hoàng Hạc Lâu, nên nơi đây trở thành thánh tích của Đạo Giáo từ đó.
     HOÀNG HẠC LÂU hiện nay : Năm 1957, khi xây cầu bắt ngang sông Trường Giang ở Vũ Xương, chân cầu dẫn đã chiếm dụng mất địa chỉ cũ của Hoàng Hạc Lâu. Mãi đến năm 1981, chính quyền Thành phố Vũ Hán mới căn cứ các tư liệu lịch sử cho xây dựng lại, cũng trên Xà Sơn nhưng cách địa chỉ cũ khoảng 1 ngàn mét. Đến tháng 6 năm 1985 mới khánh thành và cũng trở thành luôn là biểu tượng của Thành phố Vũ Hán.
     Hoàng Hạc Lâu mới gồm 5 tầng, cộng thêm 5 mét đỉnh tháp là hình một hồ lô khổng lồ. Tổng chiều cao là 51,4 mét, cao hơn lầu cũ khoảng 20 mét, chiều rộng là 30 mét , gấp đôi chiều rộng của lầu cũ. Toàn bộ được xây dựng bằng bê tông cốt sắt kiên cố. Trong ngoài, cỏ cây hoa kiểng, tranh họa, điêu khắc... đều theo một chủ thể là " Bạch vân Hoàng Hạc ". Cột lớn 2 bên là một đôi câu đối dài 7 mét như sau :

               Sảng khí tây lai, vân vụ tảo khai thiên địa hám
                 爽 氣 西  來,   雲 霧  掃  開  天  地 撼,
               Đại giang đông khứ, ba đào tẩy tịnh cổ kim sầu.
                 大 江   東  去, 波 涛  洗  净   古  今 愁。
Dịch nghĩa :
         Hơi mát từ tây đến, mây mù quét sạch mở ra làm lay động đến đất trời.
         Sông lớn chảy về đông, sóng gió theo dòng rửa sạch cả nỗi sầu kim cổ.

                
                Hoàng Hạc Lâu Hiện nay : Với chủ đề " Bạch Vân Hoàng Hạc "                 

       Hoàng Hạc Lâu là một "Đệ nhất lâu danh thắng" bao đời nay của Trung Hoa, thu hút biết bao văn nhân, thi sĩ đến đây để ngâm vịnh. Trong số đó , phải kể đến bài thơ Thất ngôn Bát cú của Thôi Hiệu là tuyệt tác nhất, thơ và lầu cùng bổ túc cho nhau để cùng lưu danh thiên cổ. Chúng ta hãy cùng đọc lại bài thơ tuyệt tác này nhé :

              黄鹤樓                             HOÀNG HẠC LÂU
         昔人已乘黃鶴去,             Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
         此地空餘黃鶴樓。             Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu
         黃鶴一去不復返,             Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
         白雲千載空悠悠。             Bạch vân thiên tải không du du
         晴川歷歷漢陽樹,             Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thọ
         芳草萋萋鸚鵡洲。             Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
         日暮鄉關何處是,             Nhật mộ hương quan hà xứ thị
         煙波江上使人愁。             Yên ba giang thượng sử nhân sầu
                         崔 颢                                              Thôi Hiệu

                 Inline image

Dịch nghĩa :
       Người ngày xưa đã cởi hạc bay đi mất rồi, nên nơi nầy chỉ còn lại một Hoàng Hạc Lâu trống không mà thôi. Hoàng hạc đã một đi không trở lại, chỉ có mây trắng là vẫn dằng dặc bay mãi ngàn năm. Trời quang mây tạnh trên sông nên nhìn rõ cả những hàng cây bên bờ Hán Dương đối diện, và màu cỏ non xanh biếc trên bãi Anh Vũ ở giữa ngả ba sông. Khi chiều xuống, lúc mặt trời chen lặn, ta không phân biệt phương nào là hướng của quê hương, nên dạ chợt âu sầu vì khói sóng trên sông mờ mịt... Cảnh dẫn đến tình và tình hòa vào cảnh thành một bức tranh sống động gợi cảm tuyệt vời !

Diễn nôm :
                       Người xưa đã cởi hạc bay cao
                       Bỏ lại ven sông Hoàng Hạc Lâu
                       Hoàng hạc một đi không trở lại
                       Bạch vân muôn thuở vẫn bay mau
                       Hán Dương sông tạnh rừng cây tỏ
                       Anh Vũ bãi xa cỏ biếc màu
                       Chiều xuống quê nhà xa chẳng thấy
                       Đầy sông khói sóng ngẩn ngơ sầu !

 Bài diễn nôm Luc Bát của Thi sĩ Tản Đà :

                         Hạc vàng ai cởi đi đâu
                         Mà đây Hoàng Hạc riêng Lầu còn trơ
                         Hạc vàng đi mất từ xưa
                         Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
                         Hán Dương sông tạnh cây bày
                         Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non 
                         Quê hương khuất bóng hoàng hôn
                         Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai !...

                         Inline image

     Quả là cảnh tình hợp nhất, tình cảnh tương liên, hòa hợp thành một bức tranh tuyệt tác... Thảo nào mà khi đến đây, nhìn lên vách thấy bài thơ nầy, Thi Tiên Lý Bạch đã phải quẳng bút mà than rằng :
                 Nhởn tiền hữu cảnh đạo bất đắc,         眼前有景道不得,
                 Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu.           崔颢题詩在上頭.
Có  Nghĩa :
      Trước mắt có cảnh mà nói chẳng nên lời, vì Thôi Hiệu đã đề thơ ở phía trên đầu ta rồi ! Vì Lý biết chắc rằng, nếu mình có miễn cưỡng làm thơ, thì chắc chắn chẳng bao giớ bằng được bài thơ mà Thôi Hiệu đã làm, nên thôi. Nhưng nỗi lòng ấm ức vẫn cứ mãi âm ĩ trong tâm, cho nên khi đến đất Kim Lăng, lên ngắm cảnh trên Phụng Hoàng Đài, ông mới xúc cảnh sinh tình, mà làm nên bài thơ " Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài 登金陵鳳凰台" rất xuất sắc, gieo vần và âm hưởng đều tương tự như bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu. Phải chăng để giải tỏa đi cái ấm ức bấy lâu nay ở trong lòng ?. Ta hãy cùng đọc bài thơ này nhé :
                                
             登金陵鳳凰台               Đăng KIM LĂNG PHỤNG HOÀNG ĐÀI

             鳳凰台上鳳凰游,         Phụng Hoàng Đài thượng Phụng hoàng du
             鳳去台空江自流。         Phụng khứ đài không, giang tự lưu
             吳宮花草埋幽徑,         Ngô cung hoa thảo mai u kính
             晉代衣冠成古邱。         Tấn đại y quan thành cổ khâu
             三山半落青天外,         Tam sơn bán lạc thanh thiên ngoại
             二水中分白鷺洲。         Nhị thủy trung phân Bạch lộ châu
             總為浮雲能蔽日,         Tổng vị phù vân năng tế nhật
             長安不見使人愁。         Trường An bất kiến sử nhân sầu ! 
                            李白                                                 Lý bạch

            Inline image Inline image
 
                          Lên Phụng Hoàng Đài ở Kim Lăng.

      Ngày xưa, phụng hoàng đã từng dạo chơi trên đài Phụng Hoàng nầy, nay phụng đã đi rồi, chỉ còn dòng sông lặng lẽ trôi. Hoa cỏ trong cung Ngô ngày xưa, nay đã tiêu điều trong hẽm vắng, những bậc vương hầu khanh tướng nhà Tấn, nay cũng chỉ còn lại những nấm mộ xưa. Nhìn ra xa, trong cảnh mây mù, ba ngọn núi liền nhau như bị rớt một nửa trên vòm trời xanh, bên dưới dòng sông Tần Hoài tách làm đôi chảy thành 2 nhánh bởi cù lao Bạch lộ (cù lao có rất nhiều cò trắng trên đó mà thành tên). Trong cảnh trí nầy, mây mù lại che khuất cả vầng thái dương, nên không thấy được đất Trường An, khiến cho người ta càng thấm thía thêm nỗi sầu nhân thế...
     Lý Bạch ví mây mù như là bè lũ nịnh thần, che lấp mặt trời là lấn áp Thiên tử, khiến cho người ưu thời mẫn thế cảm thấy lo buồn... 

Diễn nôm :
                      Lên Đài Phụng Hoàng Ở Kim Lăng

                    Phụng Hoàng Đài trước phụng hoàng chơi
                    Phụng đã biệt tăm, sông vẫn trôi
                    Hoa cỏ cung Ngô đà vắng vẻ
                    Y trang nhà Tấn cũng xa rồi
                    Ba núi lưng trời như ẩn hiện
                    Hai dòng sông nước rẻ đôi nơi
                    Cũng bởi mây mù che mặt nhật
                    Trường An chẳng thấy dạ bồi hồi !

                   Inline image
 
      So với " Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu " thi bài nầy ngụ ý xâu xa hơn, thâm trầm và có chiều sâu hơn, kỹ thuật cũng nghiêm cẩn hơn, nhưng thơ của Thôi Hiệu lại khoáng đạt hơn, trực tả cảnh trí trước mắt, hơi thơ liền lạc đi một mạch từ đầu đến cuối, và " đi " thẳng vào lòng người đọc !.... Hai bài đều có cái hay riêng, nhưng sao ta vẫn thấy Hoàng Hạc Lâu như vẫn thanh thoát và gợi cảm hơn... Có phải chăng... tại Hoàng Hạc Lâu gần gũi, thân thiết với người đọc hơn là với Phụng Hoàng Đài ?!!!....
          Không riêng gì Lý Bạch, còn có rất nhiều thi sĩ đương thời ngấm ngầm ganh tỵ với bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu. Họ không ganh ghét, mà chỉ muốn chứng tỏ tài năng của bản thân mình, vì địa vị và tài hoa của họ cũng không thua Thôi Hiệu chút nào cả.!. Trong số những thi sĩ " ngấm ngầm " nầy, ta thấy có Vương Xương Linh, tác giả của bài "Khuê Oán" nổi tiếng với câu  "Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu !....". Ông đã làm bài "Vạn Tuế Lâu" với đủ cả âm hưởng và vần điệu của " Hoàng Hạc Lâu ". Nào, ta hãy cùng đọc bài thơ nầy nhé !....                            

           萬歳楼                           VẠN TUẾ LÂU
          江上巍巍萬歳楼。         Giang thượng nguy nguy Vạn Tuế Lâu  
          不知経歴幾千秋。         Bất tri kinh lịch kỷ thiên thu  
          年年喜見山長在。         Niên niên hỉ kiến sơn trường tại 
          日日悲看水独流。         Nhật nhật bi khan thủy độc lưu 
          猿狖何曾離暮嶺。       Viên dứu hà tằng ly mộ lĩnh 
          鹭鷀空自泛寒洲。         Lô tư không tự phiếm hàn châu  
          誰堪登望雲煙裏。       Thùy kham đăng vọng vân yên lý 
          向晩茫茫發旅愁。       Hướng vãn man man phát lữ sầu 
                        王昌齡                                        Vương Xương Linh. 

          Inline image Inline image
     
Nghĩa bài thơ :
            Vạn Tuế Lâu cao cao ngất nghểu trên bờ sông Trường Giang, không biết là trải qua mấy ngàn thu rồi. Nhưng, vẫn còn mừng vì mỗi năm đều trông thấy núi xanh vẫn còn đó, chỉ buồn là mỗi ngày đều thấy dòng nước âm thầm lặng lẽ trôi. Bầy khỉ vượn vẫn luyến lưu chưa từng rời khỏi đĩnh núi mỗi khi chiều xuống, cũng như đàn cò kia vẫn luôn luôn bay lượn vô tư lự trên bãi sông lạnh lẽo. Ai là người có thể leo lên đứng trên lầu cao nầy, nhìn vào trong khói mây mờ mịt mỗi buổi chiều, mà không thấy lòng trổi dậy một nỗi buồn lữ thứ tha hương ?!

Diễn nôm :
                               VẠN TUẾ LÂU

                    Ngất nghểu trên sông Vạn Tuế Lầu
                    Mấy ngàn năm cũ vẫn cao cao
                    Mừng trông núi biếc còn trơ mãi
                    Buồn ngắm sông côi vẫn chảy mau
                    Lũ vượn luyến lưu chiều núi thẳm
                    Đàn cò bay lượn bãi sông sâu
                    Nào ai lên gác trông mây khói
                    Chiều xuống mênh mông lữ khách sầu !
 
          Mặc dù không so được với Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, và Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài cũa Lý Bạch, nhưng đây cũng là một bài thơ hay tả lại cảnh trí của một Danh Lâu thuở xưa ở trên Tây Nam thành của Phủ Trấn Giang thuộc Tỉnh Giang Tô.

          Mãi đến gần cuối của buổi Tàn Đường, vào khoảng năm Đại Trung thứ ba đời Đường Tuyên Tông (849), ta mới lại đọc được bài "Hàm Dương Thành Đông Lâu 咸陽城東樓" của Hứa Hồn, thấy âm điệu và phong cách cũng mang chút gì hơi hám của Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, kể cả vần được gieo cũng làm cho người đọc cảm thấy như đang đọc lại câu "Yên ba giang thượng sử nhân sầu !". Xin trích dịch sau đây để mọi người cùng thưởng lãm !

   《咸陽城東樓》                 HÀM DƯƠNG THÀNH ĐÔNG LÂU                           
    一上高城萬里愁,             Nhất thượng cao thành vạn lý sầu,
    蒹葭楊柳似汀洲,             Kiêm hà dương liễu tự thinh châu, 
    溪雲初起日沉閣,             Khê vân sơ khởi nhật trầm các,
    山雨欲來風滿樓。             Sơn vũ dục lai phong mãn lâu. 
    鳥下綠蕪秦苑夕,             Điểu hạ lục vu Tần uyển tịch,
    蟬鳴黃葉漢宮秋,             Thiền minh hoàng diệp Hán cung thu,
    行人莫問當年事,             Hành nhân mạc vấn đương niên sự,
    故國東來渭水流。             Cố quốc đông lai Vị Thủy lưu. 
                 許渾                                                               Hứa Hồn.                 
       
        Inline image Inline image
 
         HỨA HỒN, tự là Dụng Hối (Có sách cho là Trọng Hối), người đất Đơn Dương (Mục Châu) đời Đường. Đậu Tiến Sĩ năm Thái Hòa thứ sáu, làm Huyện Lệnh Huyện Thái Bình, năm Đại Trung thứ ba làm Giám Sát Ngự Sử, vì bệnh nên xin chuyển về miền đông, sau cùng làm  Thứ Sử ở 2 Châu Sính và Mục, ở mọi nơi đều có tiếng là vị quan tốt. Ông giỏi về thơ, còn lưu lại đời sau 2 tập thơ " Đinh Mão Tập ".
          Theo " Tuyên Hòa Thư phổ " ghi : Hứa Hồn tuy không chuyên về thư pháp, nhưng chữ viết bay bướm dễ nhìn, có phong cách riêng. Hồn làm thơ giống như Đỗ Mục, tuy không phóng đạt bằng Đỗ, nhưng hoa lệ thì có thừa, người học thơ xưa nay đều rất thích đọc, nên Hồn càng nổi tiếng song song cả thơ lẫn thư pháp. 

DỊCH NGHĨA :
                     TRÊN LẦU ĐÔNG CỦA THÀNH HÀM DƯƠNG.
      Lên đến tận trên lầu cao của đông thành thì nỗi sầu lại dài thêm vạn dặm. Trước mắt, lau sậy hòa vào màu xanh của dương liễu mường tượng như màu xanh của đất Thinh Châu. Những làn hơi nước trong khe suối vừa bốc lên thành những làn mây mỏng thì mặt trời cũng đã chìm xuống phía sau lầu rồi ! Và cơn mưa núi chưa kịp đổ xuống thì gió đã ào ạt đầy cả lầu ! . Lũ chim bay xà xuống bãi xanh hoang vu của vườn thượng uyển đời Tần ngày xưa trong buổi chiều tà. Và lũ ve cuối mùa cố cất tiếng ngâm trong đám lá vàng của cung viên nhà Hán vào buổi chiều thu se lạnh. Ôi thôi ! Người qua đường xin đừng hỏi đến chuyện của năm xưa nữa, Cố quốc từ hướng đông mà đến cũng như dòng Vị Thủy theo hướng của tất cả những dòng sông đổ vào Hoàng Hà rồi cũng đều chảy về với biển Đông thuận theo lý tự nhiên... 

 DIỄN NÔM :
                          Vòi vọi thành cao vạn dặm sầu,
                          Lau xanh liễu rũ ngỡ thinh châu.
                          Mây vờn khe suối vầng ô khuất,
                          Mưa chửa thành cơn gió ngập lầu.
                          Chim lượn xập xòe Tần thượng uyển,
                          Ve sầu rả rít Hán cung thâu.
                          Nào người chớ hỏi đời xưa cũ,
                          Sông Vị về đông vẫn chảy mau !
      Lục bát :
                         Thành cao cho vạn lý sầu,
                         Vi lô tơ liễu tựa màu thinh châu.
                         Mây lên mặt nhựt khuất lầu,
                         Mưa chưa thành hạt gió sầu đầy song.
                         Chim xà Tần uyển vườn không,
                         Ve ngâm rả rít Hán cung thu sầu.
                         Nào ai chớ hỏi vì đâu ?!
                         Về đông sông Vị chảy mau, lệ thường !!!...
                                                              
            Mặc dù không làm rung động lòng người và còn để lại dư âm như Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, không cảm khái và ưu thời mẫn thế như Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài của Lý Bạch, không nhẹ nhàng thương cảm như Vạn Tuế Lâu của Vương Xương Linh , Hàm Dương Thành Đông Lâu của Hứa Hồn cũng nói lên một niềm hoài cổ não lòng, xót xa đến... dửng dưng, vì biết đó là cái lẽ thường của cuộc sống, cái lý của sự vật ở trên đời " Vật cực tất phản ", Âm cực dương hồi, hết thịnh rồi lại suy... cứ thế luân lưu mãi, như tất cả những dòng sông đều chảy về đông...

                      Hành nhân mạc vấn đương niên sự,   行人莫問當年事,       
                      Cố quốc đông lai Vị Thủy lưu !!!         故國東來渭水流。
                    ( Nào người chớ hỏi đời xưa cũ,
                      Sông Vị về đông vẫn chảy mau )
             
                      Inline image

            Hẹn bài viết tới.

                                             杜紹德
                                          ĐỖ CHIÊU ĐỨC
                             
                      


Thứ Hai, 29 tháng 3, 2021

CHÙM THƠ NGUYÊN LẠC


Steven Nguyen

07:37, CN, 28 thg 3 (23 giờ trước)
tới tôi
 Gởi đến NM thêm vài bài thơ, tùy nghi xử dụng. Tình thân. NL 3/28/2021
........................................................................


PHÙ VÂN

Phù vân. thì đã phù vân!
Làm sao giữ được một vầng mây trôi?
Thì thôi. người hỡi thì thôi
Cõi riêng đời đó chia đôi ta đành!
.
CÓ GÌ ĐÂU?
Lưng trời mây trắng vẫn bay
Hoa nào mà chẳng phôi phai theo mùa?
Có gì đâu nghĩa đợi chờ?
Mà đêm trăng biếc mà thơ não nùng?
.
VÔ ĐỀ 1

Nam mô thế giới ta bà
Cảm ơn Phật, Chúa cho ta yêu người
Ví bằng vắng mất nụ cười
Chắc rồi ai cũng ... bỏ đời đi tu!


VÔ ĐỀ 2

Nhân sinh một giấc mộng dài
Giật mình tỉnh thức tiếng ai đang cười?
Có em bên giấc mộng đời
Mùa xuân lại đến ngàn lời chim ca!
.
CUỘC TANG THƯƠNG

Cầm tay nuốt giọt tình rơi
Biệt ly! Tôi biết mặn môi thế nào
Trùng khơi cuồng nộ ba đào
Về đâu? Khủng khiếp một màu tử sinh
.

VIÊN SỎI
.
Thấy trời đất rộng thênh thang
Thấy ta sao giống một viên sỏi buồn
Ta bà bào ảnh huyễn sương [*]
Có viên sỏi nhỏ bên đường mình ên!
..........
[*] Kinh Kim Cang
.
.
NHỚ M. MỘT THỜI
.
"Ôm M 16 trong tay
Băng rừng lội suối dạn dày gió sương
Ôm M suốt những đêm trường
Băng rừng lội suối dạn dày gió sương
Ôm M suốt những đêm trường
Băng rừng lội suối dạn dày gió sương
Ôm M suốt những đêm trường
Băng rừng lội suối dạn dày gió sương
Ôm M suốt những đêm trường" *
Nghiêng vai ta gánh nước non một thời
.
Hôm nay ta nhớ M ơi
Ôi M 16 một đời cùng ta
Lưu vong nâng chén chiều tà
Nhớ M và nhớ bạn bè thuở nao!
.
Ai còn ai mất? Bể dâu!
Phố người nghiêng chén khóc câu Hồ trường **
Hồ trường nâng chén Hồ trường
M giờ ký ức ta mòn áo cơm!
.
Nhớ M 16 trăng tròn
Hận ta "gãy súng"... nước non lời thề ***
.............
* Thơ Dư Mỹ
** Hồ trường- Nguyễn Bá Trác
*** "Tháng ba gãy súng" - tên sách hồi ký của Cao Xuân Huy
.

CHÚT THÔI CŨNG ĐỦ
.
Chút thôi chỉ một chút thôi
Chút thôi cũng đủ trọn đời bâng khuâng
Chút thôi một chút dư âm
Chút thôi mây tóc son trầm môi ai?
.
Chiều trôi ru gió thở dài!
Thiết thê huyễn vọng tình ai sương mù
Chút thôi một chút hương dư
Chút thôi cũng đủ thiên thu một đời... !
.

MỞ CHI NGĂN NHỚ?
.
Một thời ảo vọng thanh xuân
Mở chi ngăn nhớ bay hương cho buồn?
Cố nhân đâu nữa mà mong?
Tang thương ngày đó phù vân cuộc người!
.
Tay cầm hạt lệ tình rơi
Tìm chi quá khứ để rồi trắng đêm?
Đông tàn thì sẽ đến xuân
Quên đi. khêu nến tụng kinh vô thường!
.
KHÓA ĐI NGĂN NHỚ!
.
Lục ngăn ký ức tìm hương
Hồn nhiên tuổi mộng giờ còn dư âm
Tiếc chi? Nhân thế phù trầm
Ngàn năm thơ cổ "bạch vân du hành"
.
Bên hồ chiều bóng đối hình
Nghe hồn sóng vỗ ru tình gió lay
Rượu đây nâng chén mời ai?
Hồ Trường ngày đó thở dài chiều trôi
.
Khóa đi ngăn nhớ lại thôi!
Ném đi chiếc khoá cho rồi... Quên đi!
Biệt li từ lúc phân kỳ
Biệt li từ lúc nâng ly Hồ trường
.
"Trăm năm thân thế tà dương" *
Ai còn ai mất Hồ trường cùng ta?
Chỉ là ngân vọng xót xa
Chỉ là lên xuống âm ba sóng buồn
...........
[*] Hồ Trường- Nguyễn Bá Trác
.

NỖI NHỚ
.
Bỗng nhiên nhớ
điếu thuốc
và
ly cà- phê đắng
khói nhòa mắt cay
Góc đêm. sầu khúc tình hoài
Bao năm rồi đó có phai sắc nào?
.
Bổng nhiên nhớ đến nôn nao
Cà- phê. khói thuốc. đèn màu quán đêm
Ngọt ngào một nụ môi hôn
Bao năm rồi đó trọn hồn viễn phương
.
Đêm đông. Starbucks góc buồn
Đắng hồn cô lữ cố hương thuở nào
Cà- phê. khói thuốc. quán nao
Cách chi tìm lại ngọt ngào thanh xuân!
.
Cố nhân! tôi nhớ mùi hương
Khói cay điếu thuốc
Điếng rần môi ai


NHỚ CHIỀU CHIỀU
.
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người thiếu nữ khăn điều áo bông
Áo bông gió thổi hở hông
Ngẩn ngơ đôi mắt nhớ không khăn điều?
.
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Đèn xanh đèn đỏ hai chiều xuống lên
Phố đông sao lại buồn tênh?
Hở đùi hở ngực!... Không quên khăn điều
.
Chiều Cali nhớ chiều chiều
Nhớ ơi là nhớ khăn điều áo bông
Áo bông có nhớ tôi không?
Tôi đây nhớ lắm hở hông chiều chiều
.
Cali phố... sao cô liêu?
Người ơi tôi nhớ yêu kiều quê hương!

NGUYÊN LẠC