CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 31 tháng 7, 2019

KÝ ỨC MỘT THỜI - THƠ TỊNH ĐÀM


Đàm Nguyễn Tài
21:44, Th 2, 29 thg 7 (2 ngày trước)
tới tôi








***KÝ ỨC MỘT THỜI .

Một mặt trời
Đã ngủ trong tôi .
Những rạo rực
Chìm vào cõi lặng !

Tôi bây giờ 
Hồn như chút nắng
Sót bên đời
Vàng vọt , hanh hao !

Đường mộng nào 
Trả lại trăng sao ?
Chốn đi về 
Bước chân xa vắng !

Em ngày xưa 
Tình trần vẫn nặng.
Mắt môi còn
Dan díu đời nhau !
Phút biệt ly ,
Đâu hẹn mai sau .
Cầm giọt lệ
Nẻo về ...Mây trắng !

Này tôi ơi
Tuổi còn mấy chặng ?
Soi gương thầm ...
Đếm những tàn phai !

Gối sầu vương
Vọng tưởng tình hoài .
Đêm nguyệt tận
Cạn ly rượu đắng !

TỊNH ĐÀM
( TP.HCM . VN )

Thứ Ba, 30 tháng 7, 2019

BÀI THƠ MƯA, THƠ HUỲNH TÂM HOÀI , NHẠC NGUYỄN HỮU TÂN








BÀI THƠ MƯA
THƠ: HUỲNH TÂM HOÀI
NHẠC: NGUYỄN HỮU TÂN
NGÂM THƠ: HOÀI HƯƠNG
HÒA ÂM: KIM THÀNH
CA SĨ : KIM KHÁNH
VIDEO CLIP: HUỲNH TÂM HOÀI

Thứ Hai, 29 tháng 7, 2019

BIỂN CHIỀU ĐỢI MONG - THƠ NGUYÊN LẠC


Steven Nguyen
Tệp đính kèm
05:04 (2 giờ trước)
tới tôi

Gởi NM thêm 1 bài thơ. NL 7/29/2019
...................................









BIỂN CHIỀU ĐỢI MONG

.
Nghìn năm vẫn mãi huyễn mong
Bởi em là mộng tôi đành mơ thôi!
.
Nghìn năm em vẫn xa xôi
Sóng chiều biển vắng. tôi ngồi đợì em
Dã tràng xây mộng đời riêng
Xa kia. trời lặn ưu phiền. trốn tôi!
.
Em giờ là mộng thật rồi
Dấu chân trên cát biển đời xóa mau
Trong hồn. vẫn dấu chân nào
Trinh nguyên. em vội bước vào tim tôi 
.
Những chiều biển vắng trông vời
Thấy bao tan vỡ mộng đời vụt qua!
Thấy ai. mỏng mảnh lụa là
Thấy tôi. với bóng chiều tà. biển mong!
.
Chỉ là huyễn mộng phải không?
.
NGUYÊN LẠC


KHIÊNG NƯỚC , THƠ LUÂN HOÁN , NHẠC PHAN NI TẤN









KHIÊNG NƯỚC 
THƠ LUÂN HOÁN
NHẠC PHAN NI TẤN
TRÌNH BAỲ BẮC PHONG & PHAN NI TẤN

Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2019

LỤC BÁT EM XƯA - THƠ TỊNH ĐÀM


Đàm Nguyễn Tài
05:24, Th 7, 27 thg 7 (1 ngày trước)
tới tôi








***LỤC BÁT EM XƯA.

Từ em xưa
Ngõ trúc về
Theo chân áo trắng
Mải mê nẻo đường .
Tóc dài em 
Sợi vấn vương
Phất phơ trong gió
Gởi hương cho người .

Ngẩn ngơ anh ...
Với nụ cười
Em đưa mắt liếc...
Rụng rời tim anh .

Trên trời 
Mây trắng xây thành
Đâu hay 
Dưới đất có anh chàng khờ .
Lòng riêng 
Mang mối tình thơ
Đã bao năm cũ
Ơ hờ ...
Nhớ , quên .

TỊNH ĐÀM
(TP.HCM )

Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2019

ĐÊM Ở PHI TRƯỜNG. - THƠ MẶC PHƯƠNG TỬ


tong minh
Tệp đính kèm
16:38, Th 5, 25 thg 7 (2 ngày trước)
tới Lê, tôi, Kim, Dao, Tiemly




Kết quả hình ảnh cho ảnh phi trường ở mỹ





ĐÊM Ở PHI TRƯỜNG.



Đêm nay nghỉ ở phi trường
Đời hun hút mộng, đêm suông bóng đời.
Nửa khuya nghe bước ngược xuôi
Đi-về vạn nẻo buồn vui muôn trùng.

Nỗi niềm riêng, cảnh tình chung
Con tàu đã lỡ chuyến cùng nước mây.
Đời khuya, quá nửa khuya nay, 
Hình nầy với bóng, ta nầy với đêm.

Ngoài kia sương khói trăm miền 
Trăng nghiêng bóng xuống cánh chim giang hồ.
Thế rồi, đời vẫn tung hô,
Thế rồi, ta vẫn lên bờ về xuôi.

Thế rồi, và thế rồi thôi !
Cung đàn còn nhịp, thơ đời còn hương.
Nếu không đếm bước tha phương
Thì đâu cảm nỗi vui buồn thế nhân !

                   Atlanta, tháng 7. 2019.
                       MẶC PHƯƠNG TỬ.


Thứ Năm, 25 tháng 7, 2019

BÊN DÒNG SÔNG TRẸM NHẠC PHAN NI TẤN








BÊN DÒNG SÔNG TRẸM
NHẠC :PHAN NI TẤN
CA SĨ : HƯƠNG LAN

Ca khúc Bên Dòng Sông Trẹm do ca sĩ Hương Lan trình bày trên sân khấu Thúy Nga  với hòa âm tuyệt vời , lời dân ca Nam bộ thật truyền cảm , hay. Cảm ơn NS Phan Ni Tấn và CS Hương Lan .

Thứ Tư, 24 tháng 7, 2019

VỀ VẤN ĐỀ NGUỒN GỐC THƠ LỤC BÁT - NGUYÊN LẠC





     
                                Nhà thơ Nguyên Lạc


       VỀ VẤN ĐỀ NGUỒN GỐC THƠ LỤC BÁT
                                                                        NGUYÊN LẠC

Trong Facebook của nhóm Diartlogue - văn đàm có đăng bài viết “Lục Bát: Của Ta Hay Của Tàu”, tác giả Đỗ Quý Dân cùng lời mời tranh biện. Thấy tầm quan trọng của vấn đề nguồn gốc này, tôi xin ghi ra đây nguyên văn bài viết của ông Đỗ Quý Dân cùng lời phản biện của tôi.
Sau đây là nguyên văn bài viết của ông Đỗ:

LỤC BÁT: CỦA TA HAY CỦA TÀU? [*]


Từ trước đến nay nhiều người cho rằng thể thơ lục bát là do người Việt chúng ta đặt ra. Tuy nhiên, thể lục bát đã được sử dụng trong kinh, truyện, và sử của Trung Quốc (Kinh Dịch, sách Trung Dung và Tống Sử). Vậy phải chăng chúng ta đã mượn lục bát từ người Tàu?
Phần diễn giảng hào lục tam của quẻ Khôn trong Kinh Dịch có hai câu như sau:
“Lục tam, hàm chương khả trinh
Hoặc tòng vương sự, vô thành, hữu chung.”
Đúng là lục bát. Từ số chữ đến cách gieo vần.
Trong sách truyện (Trung Dung) có hai câu:
“Phù thủy, nhất thước chi đa
Cập kỳ bất trắc, ngoan đà giao long.”
Rõ ràng là lục bát. Có khác chăng là lời thơ bằng Hán tự.
Còn sách Tống Sử có hai câu:
“Đế sĩ Sái Xác hữu công,
Sử chi tòng tự Triết tông miếu đình...”
Cũng lại lục bát. Trước khi nên thơ văn của Việt Nam được phát triển.
Khi nhắc đến vấn đề này, cụ Ngô Tất Tố mượn nhân vật “Cụ bảng”, thầy dạy học của Đào Vân Hạc trong “Lều chõng”, để bàn như sau:
“ Cũng vì có mấy câu đó cho nên từ xưa đến nay đã có nhiều người cho rằng: lối văn trên sáu dưới tám của ta gốc ở kinh, truyện và sử mà ra. Nhưng theo ý ta, thì nói như vậy có lẽ cũng quá khiên cưỡng. Trời đã sinh ra mỗi nước có một thứ tiếng, thì tất nhiên mỗi nước cũng phải có một điệu hát. Nếu bảo điệu hát lục bát gốc ở kinh, truyện và sử, thì sao ở Tầu lại không có cái thể văn ấy? Tuy vậy, các cụ đời trước nói thế, bây giờ mình cũng hãy hay rằng thế, để rồi kê cứu dần dần, không nên vội vàng bài bác.” – trích “Lều Chõng” của Ngô Tất Tô
Không biết đúng sai thế nào, tôi chỉ biết người Việt chúng ta tự ái rất cao, tìm đủ mọi lý lẽ để chứng minh mình không lệ thuộc Tàu, nhưng cái mà chúng ta hay gọi là “chứng minh” chỉ là những ý kiến hết sức chủ quan, không dựa trên căn bản biện chứng vững chắc. Người Nhật cũng mượn nhiều từ văn hóa Trung Quốc, nhưng họ không phủ nhận điều đó mà chỉ đem mấy cái đã “mượn” kia làm cho hoàn hảo hơn rồi lấy đó làm tự hào. Sao người Việt chúng ta không làm được như người Nhật nhỉ? Cứ nhận là lục bát gốc ở Tàu, nhưng người Việt chúng ta đã biến nó thành thể thơ riêng, đặc biệt của mình đi, có làm sao đâu?
Chỉ sợ cái tự ái rất Việt Nam sẽ ngăn cản chúng ta làm chuyện đó.

                                                                                      ĐỖ QÚY DÂN
NHỮNG LỜI PHẢN BIỆN

Tôi sẽ lần lượt phản biện về câu “thơ” trong Kinh Dịch cùng 2 câu trong Trung Dung và Tống sử mà ông Đỗ cho là lục bát, cùng vài điểm nhỏ về “tự ái” dân tộc.

1. Về Kinh Dịch
Vì trong bài viết của Đỗ Quý Dân có liên hệ đến Quẻ Dịch - hào Lục tam - nên tôi ghi ra đây sơ lược vài hàng về Dịch:
Kinh Dịch là một trong ba bộ kinh cổ nhất của Trung quốc, sau Kinh Thi và Kinh Thư, nhưng nguồn gốc của nó (tức bát quái) thì có thể sớm hơn, vào cuối đời Ân, khoảng 1.200 năm trước Tây Lịch.
Nó không do một người viết, mà do nhiều người góp sức trong một ngàn năm, từ Văn Vương nhà Chu mãi đến đầu đời Tây Hán.
Vì nó được “tập đại thành” có hệ thống và giảng giải sơ khởi bởi Chu Văn Vương, và được giải thích rõ thêm bởi con ông là Chu Công nên thường được gọi là Chu Dịch. (Cũng có nhiều nguồn khả tín cho biết Dịch phát xuất từ nước nông nghiệp: Lạc Việt nên còn được gọi là Việt Dịch).
Điều kỳ dị nhất của Dịch là nó chỉ dựng trên thuyết âm dương, trên một vạch liền ____ tượng trưng cho dương, một vạch đứt __ __ tượng trưng cho âm. Hai vạch đó chồng lên nhau, đổi lẫn cho nhau nhiều lần thành ra tám hình bát quái, rồi tám hình bát quái này lại chồng lẫn lên nhau thành sáu mươi bốn hình mới: Lục thập tứ quái: 64 quẻ.
Sáu mươi bốn quẻ mới này gọi là trùng quái (quẻ trùng) để phân biệt với tám quẻ nguyên thủy gọi là đơn quái (quẻ đơn).
Mỗi quê trùng có 6 vạch - gọi là hào - thứ tự từ dưới lên trên là: Sơ, nhi, tam, tứ, ngủ và thượng. Gọi là thượng mà không gọi là lục vì trong Kinh Dịch Lục (6) là Âm: (vạch đứt: _ _ ), Cửu (9) là Dương: (vạch liền: ___ ). Riêng đặc biệt 2 quẻ Thuần Càn và Thuần Khôn có thêm hào 7 gọi là dụng
Thí dụ: Thượng lục là hào 6 âm, Thượng cửu là hào 6 dương, Cửu ngủ là hào 5 dương v.v ...
[Trích QUẺ DỊCH, CÁCH LẬP VÀ GIẢI ĐOÁN - Nguyên Lạc ] [*]
Trong bài, Đỗ Quý Quân nói hào “lục tam” nghĩa là hào 3 âm của quẻ Khôn/ Thuần Khôn
Thử xét quẻ trùng này:

QUẺ THUẦN KHÔN
Quẻ Thuần Khôn là quẻ thứ 2 trong 64 quẻ Dịch, nó gồm 6 vạch âm: (vạch đứt: _ _ ). Hào từ của quẻ Khôn (có thêm hào dụng như đã nói) từ dưới lên trên, kể cả lời Kinh là:
7. DỤNG LỤC: Lợi vĩnh trinh.
6. LỤC THƯỢNG: Long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng.
5. LỤC NGŨ: hoàng thường, nguyên cát.
4. LỤC TỨ: quát nang, vô cữu, vô dự.
3. LỤC TAM: hàm chương khả trinh, hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung.
2. LỤC NHỊ: trực phương đại, bất tập vô bất lợi.
1. SƠ LỤC: Lý sương, kiên băng chí.
(Hào từ của quẻ Khôn từ dưới lên trên)
Hào Lục Tam mà Đỗ Quý Quân liên hệ là hào 3 âm.
Sau đây là lời hào Lục Tam - Hào 3 Âm - qua các lời giải:
六三:含章可真,或從王事,無成有終.
Lục Tam:
Hàm chương khả trinh, hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung.
Dịch nghĩa:
- Hào Sáu Ba:
Ngậm văn vẻ, có thể chính; hoặc theo đuổi việc nhà vua, không cậy công? Thì được tốt lành về sau. - Lời giải của Ngô Tất Tố:
- Hào 3, âm:
Ngậm chứa (đừng để lộ ra) đức tốt mà giữ vững được, có khi theo người trên mà làm việc nước, đừng chiếm lấy sự thành công thì sau cùng sẽ có kết quả - Lời giải của Nguyễn Hiến Lê
Lời hào lục tam là "Hàm chương khả trinh; hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung" viết liền và chỉ có 12 âm tiết. Ông Đỗ Quý Dân đã không lương thiện khi ghép thêm tên hào LỤC TAM vào 12 âm tiết của nội dung HÀO, cho đủ 14 âm tiết theo cách “mập mờ đánh lận con đen”, rồi viết xuống dòng kiểu “trên 6, dưới 8”, và gọi đó là THƠ LỤC BÁT:
     “Lục tam, hàm chương khả trinh
     Hoặc tòng vương sự, vô thành, hữu chung.”
                                         (Theo Đỗ Quý Dân)
Rõ ràng có sự "nhập nhằng", có ý đồ ở đây!

2. Về hai câu thơ Trung Dung và Tống Sử
Trong sách truyện (Trung Dung) có hai câu:
“Phù thủy, nhất thước chi đa
Cập kỳ bất trắc, ngoan đà giao long.”
Sách Tống Sử có hai câu:
“Đế sĩ Sái Xác hữu công,
Sử chi tòng tự Triết tông miếu đình...”
Đúng là các câu lục bát âm Hán Việt dẫn trên đều là có đủ 6 thanh điệu: ngang (không dấu), huyền, sắc, hỏi, ngã và nặng. Nhưng ông Đỗ nên nhớ rằng tiếng Tàu chỉ có 4 thanh điệu: âm bình, dương bình, thượng thanh và khứ thanh. Hán Việt là đọc chữ Hán theo âm Việt chứ âm Tàu đâu phải vậy. [Mời các bạn đọc thêm phần thanh điệu ở phụ chú dưới của Thiếu Khanh và nhà giáo, nhà thơ La Thụy] [*]
Theo riêng tôi, đây là cách các cụ đồ nho Việt Nam hồi trước dùng thể lục bát để diễn giải Trung Dung (của Khổng Tử) và Tống Sử cho các môn sinh hoặc người sau dễ dàng hiểu mà thôi.

3.Về sự tự ái của người Việt
Thật lòng nói, bài viết của ông Đỗ tôi không cần phải bỏ nhiều thời gian phản biện như vầy, vì nó “bình thường” lắm; tôi không dám nói “ấu trỉ” như các bạn tôi vì sợ ông buồn. Tuy nhiên, như người Mỹ nói: ONCE AND FOR ALL: Trả lời một lần những ai cứ cho rằng mọi điều của Việt Nam đều từ Tàu; giống như một số người cố tình “moi móc” để cho truyện Kiều/ Đoạn Trường Tân Thanh là từ Thanh Tâm Tài Nhân bên Tàu.
Trân trọng và mong các bạn góp thêm ý kiến.
Mời đọc thêm Phụ Lục dưới.
                                                                                        NGUYÊN LẠC
...................
[*] Đây là FB của bài Đỗ Quý Dân
https://www.facebook.com/groups/339950766569558/
[**] Quẻ Dịch, Cách Lập Và Giải Đoán - Nguyên Lạc
http://phudoanlagi.blogspot.com/2019/01/que-dich-cach-lap-va-giai-oan-nguyen-lac.html#more
[***] Yukichi Fukuzawa - Khuyến Học
Fukuzawa Yukichi là nhà tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất đối với xã hội Nhật Bản thời cận đại. Người Nhật tôn vinh ông là "Voltaire của Nhật Bản", không chỉ vì tính triệt để và tầm mức vựơt trội trong tư tưởng của ông, mà còn vì cũng như danh nhân người Pháp, Fukuzawa Yukichi cùng những người đồng chí của mình là những người khai sáng tinh thần quốc dân Nhật Bản, đem lại linh hồn, động lực và sự hậu thuẫn tinh thần cho công cuộc Duy tân của chính phủ Minh Trị. Những tác phẩm của ông dù viết từ hơn một thế kỷ trước nhưng vẫn được người Nhật Bản ngày nay hết lòng ngưỡng mộ.

@. Phụ Lục
Xin được ghi ra đây thêm những phản biện về bài viết của Đỗ Quý Dân:
I. PHẢN BIỆN VỀ VẤN ĐỀ NGUỒN GỐC THƠ LỤC BÁT 
                                                                   
I. Phản biện của Đỗ Phú

Tác giả bài viết là ông Đỗ Quý Quân quá ấu trĩ. Ba cặp câu mà ông Quân nêu ra, xét về luật, vần thì đúng là 3 cặp thơ Lục bát, 3 cặp câu Lục Bát hay, khó có.
Tuy nhiên để gọi 1 cặp câu Lục Bát là 1 bài thơ thì chưa đủ. Hai câu thơ 7 chữ đối nhau cũng chỉ là 1 cặp đối chứ không phải là 1 bài thơ đường luật. 3 cặp câu ông Quân nêu ra bất quá chỉ là Tàu cú mà thôi.
Để gọi là một dòng thơ cần phải xét đến tính phổ quát của nó. Dọc theo từng thời kỳ phát triển của thơ ca, thể loại thơ đó, dòng thơ đó phải xuất hiện liên tục và không gián đoạn. Và điều tiên quyết là mọi nhà thơ của quốc gia, hoặc các nhà thơ sống tại lãnh thổ mà dòng thơ đó xuất hiện đều có sáng tác thơ theo thể loại này.
Thể thơ lục bát cũng không ngoại lệ. Muốn nói nó là thể thơ của quốc gia nào, phải xét khía cạnh có bao nhiêu bài thơ được lưu truyền, bao nhiêu tác giả danh tiếng, bao nhiêu bài bất hủ mà đại chúng hầu hết đã từng nghe, từng đọc
Không thể vì 3 câu lục bát tìm được trong 3 quyển sách khác nhau mà kết luận xứ sở nào đó khai sinh ra dòng thơ này.
Nếu nói lục bát là của Trung Quốc. Câu hỏi là tại sao chỉ có 3 cặp câu?Tại sao trong vài ngàn năm người Trung Quốc không làm thơ lục bát nữa? Thể thơ này vì sao không được lưu truyền? Nếu nó chết thì tại sao nó chết?
Nếu nó vẫn sống thì sao lại không thấy thơ?
                           
                                                                                            ĐỖ PHỦ

II. Phản biện của nhà giáo, nhà thơ La Thụy

A/ Xét việc KINH DỊCH dùng thể thơ lục bát, cụ thể là Quẻ Thuần Khôn theo như ông Đỗ Quý Dân nêu.

Ta thấy:
* HÀO TỪ của QUẺ THUẦN KHÔN gồm có:
1/ SƠ LỤC: Lý sương, kiên băng chí. (5 âm tiết)
2/ LỤC NHỊ: trực phương đại, bất tập vô bất lợi. (8 âm tiết)
3/ LỤC TAM: hàm chương khả trinh, hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung.
(Chỉ có 12 âm tiết trong 3 cụm từ - mỗi cụm từ có 4 âm tiết)
4/ LỤC TỨ: quát nang, vô cữu, vô dự. (6 âm tiết)
5/ LỤC NGŨ: hoàng thường, nguyên cát. (4 âm tiết)
6/ LỤC THƯỢNG: Long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng. (8 âm tiết)
7/ DỤNG LỤC: Lợi vĩnh trinh. (3 âm tiết)
Trong quẻ thuần khôn của Kinh Dịch từ SƠ LỤC cho đến DỤNG LỤC hoàn toàn không thấy thể lục bát như THƠ LỤC BÁT Việt Nam “trên 6 dưới 8” gồm 14 âm tiết.
- Trong đó, HÀO LỤC TAM viết liền (không viết xuống dòng kiểu “trên 6, dưới 8”), chỉ có 12 âm tiết. Ông Đỗ Quý Dân đã có dụng ý riêng khi ghép thêm tên hào LỤC TAM vào 12 âm tiết của nội dung HÀO, biến hóa cho đủ 14 âm tiết, ông ấy lại viết xuống dòng kiểu “trên 6, dưới 8”, rồi gọi đó là THƠ LỤC BÁT:
   (“Lục tam, hàm chương khả trinh
   Hoặc tòng vương sự, vô thành, hữu chung.” – Đỗ Quý Dân)

Mà LỤC BÁT theo kiểu ông Đỗ Quý Dân không đúng LUẬT THANH, chữ thứ tư phải là thanh trắc (trong khi CHƯƠNG trong ‘hàm chương’ lại mang thanh bằng). Không giống như thơ Tàu nói riêng, thơ thế giới nói chung - chỉ gieo vần chân (cước vận), thơ lục bát và thơ song thất lục bát Việt Nam ngoài việc gieo vần chân, còn có thêm vần lưng (yêu vận) nữa, mà thơ Tàu thì hàng nghìn năm vẫn chỉ gieo vần chân mà thôi…

B/ Xét việc SÁCH TRUYỆN TRUNG DUNG và việc SÁCH TỐNG SỬ dùng thể thơ lục bát như ông Đỗ Quý Dân nêu:

Trong sách truyện (Trung Dung) có hai câu:
“Phù thủy, nhất thước chi đa
Cập kỳ bất trắc, ngoan đà giao long.”

Sách Tống Sử có hai câu:
“Đế sĩ Sái Xác hữu công,
Sử chi tòng tự Triết tông miếu đình...”
                                 (Theo Đỗ Quý Dân)
*
Theo tôi, cái gọi là sách truyện Trung Dung, sách Tống Sử này, ta nên xem thử ai là tác giả, có lẽ các nhà Nho Việt Nam hồi trước hứng khởi dùng thể lục bát để diễn giải Trung Dung (của Khổng Tử) và Tống Sử đó thôi. Nếu có điều kiện, chúng ta nên xem lại Trung Dung và Tống Sử (văn bản được xem là chính quy) sẽ tường tận hơn các bản do ông Đỗ Quý Dân nêu mà không nói rõ tên tác giả.
*
Mấy ông đồ nho cũng đã từng dùng thể lục bát để nêu cách viết chữ ĐỨC 德 đó mà:
     Chim chích mà đậu cành tre
     Thập trên, tứ dưới, nhất đè chữ tâm

Chữ ĐỨC:
    Bên trái có bộ xích (ở đây có hình tượng con chim chích đậu trên cành tre) – Chích và Xích cũng cùng âm
    Bên trên có chữ thập: 十
    Dưới chữ十 là chữ Tứ: 四
    Dưới nữa là chữ Nhất: 一
    Dưới cùng là chữ Tâm: 心
*
Tiếng Tàu chỉ có 4 thanh điệu: âm bình, dương bình, thượng thanh và khứ thanh. Trong khi âm Hán-Việt xét theo hình thức (của ngữ pháp thông dụng), có đến 6 thanh điệu: ngang (không dấu), huyền, sắc, hỏi, ngã và nặng. Phiên thiết Hán-Việt về thanh điệu thì 6 thanh điệu đó tương ứng với:
1/ Phù bình thanh – không dấu
2/ Phù khứ thanh –dấu sắc
3/ Phù thượng thanh – dấu ngã
4/ Trầm bình thanh – dấu huyền
5/ Trầm thượng thanh – dấu hỏi
6/ Trầm nhập thanh – dấu nặng

Theo ông Lê Ngọc Trụ và một số nhà làm từ điển khác, chia làm 8 thanh bậc: phù bình, trầm bình, phù thượng, trầm thượng, phù khứ, trầm khứ, phù nhập, trầm nhập
* Thanh bình: Có hai bậc, phù và trầm.
- Thanh bình bậc phù (phù bình hay âm bình) là những tiếng không dấu, tức thanh ngang. Ví dụ: vui, hương.
- Thanh bình bậc trầm (trầm bình hay dương bình) là những tiếng có dấu huyền. Ví dụ: đà, điền, thần.
Điều cần chú ý là các chữ thanh ngang bắt đầu bằng l, m, n, ng, nh, d, v đều thuộc "trầm bình" ("hạ bình") trong cách áp dụng phiên thiết (Lê Ngọc Trụ) như: minh, nhân, vân, nếu không sẽ sai về bậc thanh. Điều này rất ít tác giả nhấn mạnh.
* Thanh thượng: Có hai bậc, phù và trầm.
- Thanh thượng bậc phù (phù thượng) là những tiếng có dấu hỏi. Ví dụ: bả, hải, trảm.
- Thanh thượng bậc trầm (trầm thượng) là những tiếng có dấu ngã. Ví dụ: mẫu, nữ, ngữ.
* Thanh khứ:
- Thanh khứ bậc phù (phù khứ) là những tiếng có dấu sắc. Ví dụ: đấu, phóng, tiến.
-Thanh khứ bậc trầm (trầm khứ) là những tiếng có dấu nặng. Ví dụ: đại, tại, vọng.
* Thanh nhập:
- Thanh nhập bậc phù (phù nhập) là những tiếng có phụ âm cuối là p, t, ch, c và có dấu sắc. Ví dụ: đáp, thiết, trách, tróc.
- Thanh nhập bậc trầm (trầm nhập) là những tiếng có phụ âm cuối là p, t, ch, c và có dấu nặng. Ví dụ: đạp, diệt, thạch, trạc.
Tiếng Quan thoại có 1280 âm trong khi tiếng Việt có từ khoảng 4500 đến 4800 âm đọc, tùy theo phương ngữ, và 6200 âm viết trong quốc ngữ. Thơ Tàu không gieo vần lưng (yêu vận).Thanh điệu của ngữ âm Tàu chỉ có 4 thanh bậc không được phong phú 8 thanh bậc như ngữ âm Việt Nam.
Rõ ràng các câu lục bát Tàu trên do ông Đỗ Quý Dân nêu, đều mang âm Hán Việt có đủ 8 thanh bậc… Nên, Khổng Tử không thể ghi dạng lục bát đủ 8 thanh bậc theo âm tiết Việt trong khi san định Kinh Dịch và khi viết Trung Dung. Tương tự, sách Tống Sử cũng thế.
C/ Xét việc học giả Ngô Tất Tố được ông Đào Quý Dân nêu:
“Khi nhắc đến vấn đề này, cụ Ngô Tất Tố mượn nhân vật ‘Cụ bảng’, thầy dạy học của Đào Vân Hạc trong ‘Lều chõng’, để bàn như sau:
“Cũng vì có mấy câu đó cho nên từ xưa đến nay đã có nhiều người cho rằng: lối văn trên sáu dưới tám của ta gốc ở kinh, truyện và sử mà ra. Nhưng theo ý ta, thì nói như vậy có lẽ cũng quá khiên cưỡng. Trời đã sinh ra mỗi nước có một thứ tiếng, thì tất nhiên mỗi nước cũng phải có một điệu hát. Nếu bảo điệu hát lục bát gốc ở kinh, truyện và sử, thì sao ở Tầu lại không có cái thể văn ấy? Tuy vậy, các cụ đời trước nói thế, bây giờ mình cũng hãy hay rằng thế, để rồi kê cứu dần dần, không nên vội vàng bài bác.” – trích ‘Lều Chõng’ của Ngô Tất Tố”
Trong trích đoạn mà ông Đỗ Quý Dân nêu ở trên, thì cụ Ngô Tất Tố cũng đặt câu hỏi nghi ngờ đó mà...
*
Tôi đồng ý với anh Đỗ Phú:
“3 cặp câu lục bát tìm được trong 3 quyển sách khác nhau mà kết luận xứ sở nào đó khai sinh ra dòng thơ này.
Nếu nói lục bát là của TQ. Câu hỏi là tại sao chỉ có 3 cặp câu? Tại sao trong vài ngàn năm người TQ không làm thơ lục bát nữa? Thể thơ này vì sao không được lưu truyền? Nếu nó chết thì tại sao nó chết? Nếu nó vẫn sống thì sao lại không thấy thơ.”

                                                                                              LA THỤY
*
III. Thêm về vụ "thanh điệu".
Mời các bạn đọc trích đoạn từ bài viết của Thiếu Khanh:
Một học giả rất nổi tiếng của Trung quốc hiện đại là “Quý Tiễn Lâm (季羡林 Ji Xian-lin, 1911-2009), người được dư luận chính thống nước này tôn vinh là “Quốc học đại sư”, “Học giới Thái đẩu” (Siêu sao trong giới học thuật), “Quốc bảo” (Báu vật của nước nhà)” vân vân, viết rằng “chữ viết của người Việt Nam sau khi được La tinh hóa, đầu đội mũ, chân đi giầy, rất nực cười,” (越 南 文 字 拼 音 化 之 后,头戴帽子,脚穿鞋子,很滑稽. [Việt Nam văn tự bính âm hóa chi hậu, đầu đái mạo tử, cước xuyên hài tử, ngận hoạt kê] )
Ts Nguyễn Hải Hoành nhận thấy cái ông “đại sư” “quốc bảo” của Tàu nói năng hồ đồ và chứng tỏ chẳng biết gì cả về chữ quốc ngữ của người Việt. Dù vậy, hình tượng “đội mũ mang giầy” mà Quý Tiễn Lâm gán cho chữ quốc ngữ của chúng ta, cũng ngộ nghĩnh đó chớ. “Mũ” và “giầy” theo con mắt Quý Tiễn Lâm chính là các dấu phụ nguyên âm (diacritical marks). và dấu giọng (accent marks) chúng ta “gắn” vào chữ viết của mình.
"Đội mũ mang giầy: chuyện không đơn giản" Đây nhé:
-- Cái ông “siêu sao học thuật” (Học giới Thái đẩu) của Tàu này không hề... rê đuốc vào chân mình, chỉ nói lấy được. Trong bài viết dẫn trên, Ts Nguyễn Hải Hoành cho biết: “Tiếng phổ thông TQ có 4 thanh điệu, vì thế chữ Latin trong phương án Hán ngữ Pinyin do Nhà nước TQ ban hành sử dụng từ năm 1958 cũng phải kèm theo 4 dấu giọng, ví dụ [lī], [lí], [lǐ], [lì], ngoài ra các phụ âm kép như zh, ch, sh có thể viết tắt là ẑ, ĉ, ŝ. Như vậy chữ Hán ngữ Pinyin (Bính âm) (5) cũng “đội mũ,” vì sao cụ Quý Tiễn Lâm lại chỉ chê chữ Quốc ngữ Việt Nam “rất nực cười”?”
Ts Nguyễn Hải Hoành nhắc lại lời học giả Hồ Thích từ 100 năm trước “phán” về chữ quốc ngữ của người Việt: “Chữ viết Việt Nam hiện nay xem ra giống như chữ Pháp bị nước mưa xối tan ra, giống như phiên bản Latin của chữ hình vuông, vừa không thanh thoát cũng chẳng mỹ quan.” Hồ Thích cho rằng chữ quốc ngữ của người Việt Nam vừa không giống chữ Hán, không giống chữ Nôm (đã đành!) lại không giống chữ Pháp, mà cũng không giống cả chữ La tinh, “nghĩa là không đâu vào đâu, chẳng ra cái giống gì.” (6) . Lời phán ấy có lẽ khiến một số nhà nho Việt Nam thủ cựu bài bác chữ Quốc ngữ thời đó khoái lắm.
-- Xem ra các tay học phiệt Tàu không biết gì về chữ quốc ngữ của Việt Nam, chỉ phán bừa vì họ rất hậm hực về việc Việt Nam “thoát Trung” thành công về mặt văn tự. Với thứ chữ viết La tinh hóa này chỉ trong khoảng 60 - 70 năm người Việt Nam đã hoàn toàn thoát ra khỏi hệ thống văn tự Hán, điều mà người Nhật và người Hàn đã không làm được, dù họ cũng sáng tạo được văn tự riêng cho mình.
-- Tiếng Việt có 6 thanh (Phù bình thanh – không dấu, Phù khứ thanh –dấu sắc, Phù thượng thanh – dấu ngã, Trầm bình thanh – dấu huyền, Trầm thượng thanh – dấu hỏi, và Trầm nhập thanh – dấu nặng), nên phải dùng 5 ký hiệu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng để phân biệt thanh điệu. Tiếng Trung quốc (chỉ có 4 thanh: âm bình thanh, dương bình thanh, thướng thanh, và khứ thanh) không có thanh “trầm nhập” như tiếng Việt nên chữ “bính âm” (pinyin) của họ không mang dấu “nặng”, tức là họ có đội mũ mà không mang giầy, giống như anh chàng nhà quê đội mão mà không mang hia, hoặc như Táo quân mặc áo mà không mặc quần chớ gì mà cười tiếng Việt! [theo Thiếu Khanh]
Link:
http://www.art2all.net/tho/tho_tk/chuquocnguvahoichungnhaycuu.htm

NGUỒN : từ blog Bâng Khuâng
phudoanlagi.blogspot.com


Thứ Ba, 23 tháng 7, 2019

ĐIỆU RU TRÊN VÕNG- THƠ HUỲNH TÂM HOÀI - NHẠC NGUYỄN HỮU TÂN








ĐIỆU RU TRÊN VÕNG
THƠ HUỲNH TÂM HOÀI
GIỌNG NGÂM: HOÀI HƯƠNG
NHẠC : NGUYỄN HỮU TÂN
HÒA ÂM : TRUNG TÂM QUANG ĐẠT
CA SĨ : THÚY HUYỀN

Thứ Hai, 22 tháng 7, 2019

Chủ Nhật, 21 tháng 7, 2019

CHUYỆN TÌNH VÙNG U MINH NAM BỘ QUÊ TÔI (PHẦN II) - NGUYÊN LẠC





                    

                                         Hoa sứ trắng

Phần II


CHUYỆN TÌNH

SƠ LƯỢC CHUYỆN TÌNH VÙNG U MINH

Đây là bài thơ kể lại chuyện tình vùng U Minh nam bộ quê tôi, được gợi hứng từ truyện "Hương Rừng" nổi tiếng của nhà văn Sơn Nam. Xin tóm tắt chuyện như sau:
Di dân từ ngũ Quảng vào lập nghiệp vùng rừng U Minh. Ông Hương giáo có một người con gái duy nhất, xinh đẹp mà ông rất thương yêu tên Hoàng Mai. Khi Hoàng Mai đến tuổi trăng tròn, hỡi ơi ông phát hiện nàng bị bệnh nan y: Cùi  (bệnh hủi hay bệnh Hansen)
Tìm trong gia phả thấy có ghi: - Luyện thuốc bằng "ngọc" ong mật có thể chữa bệnh cùi. Ông bèn thuê một chàng trai trẻ, làm nghề bắt ong mật đi tìm "ngọc" để ông luyện thuốc cho con gái yêu. Ông Hương giáo mời chàng trai ở luôn trong nhà cho có bạn. Ngày đêm, ông chong hàng chục ngọn nến bạch lạp chung quanh mớ “ngọc” để luyện, hy vọng rằng khi đúng một ngàn ngày, nó sẽ trị được bịnh nan y của Hoàng Mai.
Một hôm tại nhà ông Hương giáo, chàng trai gặp nàng, người con gái mỏng mảnh, liêu trai đứng tựa cây sứ cùi, mặt cạnh bên những đóa hoa trẳng nhìn chàng với ánh mắt đầy ân tình. Lòng đầy yêu thương, chàng đến đứng cạnh Hoàng Mai xin được cầm tay nàng.

[- Anh nắm cái chéo tay áo này, em cũng đủ vui rồi.
Cảm đông làm sao!...
Và ngạc nhiên làm sao, một mùi hôi hám từ trong tay áo bay ra  khi níu cái chéo tay áo của người đẹp. Tư Lập thấy rõ ràng bên trong, ngón tay của nàng rụng mất hồi nào, chỉ có năm cuộn vải nhỏ vấn khéo léo thay thế.
Hôm sau, chàng trai  viện cớ ra đi lúc mùa bông tràm nở trắng rực. Anh không thèm làm nghề ăn ong nữa, về ở Long Xuyên...]
                                                                 (Hương Rừng - Sơn Nam)

Nhưng hương rừng có ma lực quyến rũ, lúc mới đến thì vui, ở lâu lại sanh buồn; nhưng xa cách lâu ngày thì đâm ra nhớ không nguôi, không trở lại thì không được. Ôi đẹp quá mùa bông tràm nở trắng rực, cảnh rừng tràm lúc ong "đi bông" *. Anh lại trở về.
Khi phát hiện anh về, ông Hương giáo nhắn mời anh thăm Hoàng Mai. Anh ăn ong hứa, nhưng giữa đêm chàng ta xuôi dòng sông trốn mất.
........
(*) Đi bông: Ong bay từng đàn tìm từng nụ hoa (bông) lấy mật. Đi bông là tiếng riêng của những người làm nghề bắt ong.

Và đây là đoạn cuối của "Chuyện Tình Vùng U Minh":
[... Trên thềm nhà, trong bóng mát, hình dáng của Hoàng Mai với đôi mắt và mớ tóc trùm kín trong chiếc khăn. Chiếc tay áo của nàng lòng thòng che khuất mấy ngón tay, từ từ nâng lên như tiễn đưa một hình bóng ... ]
                                                                  (Hương Rừng - Sơn Nam)

               

                                       Hoa mẫu đơn

@. Cảm thương người con gái, Nguyên Lạc xin đổi chữ CÙI bằng chữ MẪU ĐƠN (nôm na: Mẹ thằng cùi)
Xin được trích đoạn truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Sơn Nam để giải thích rõ về chữ Mẫu đơn/ Mẹ thằng cùi:

[... THAI ĐỐ TRONG DỊP TẾ LỄ KỲ YÊN

Thời xưa, ở Nam Bộ, dịp tế lễ Kỳ Yên (cầu an lành) thường bày ra đấu xảo bánh khéo nhất, đấu xảo mâm xôi ngon nhất, ráo nhất. Lại chưng bài vài sản phẩm tượng trưng cho sự bội thu: củ khoai mì nặng cân ít thấy; trái bí rợ to đến mức kỳ dị; con trăn, con rùa to, khó gặp. Nhưng vui nhất có lẽ là "Thai đố ", đã thu hút mọi giới. [Thai đố (quiz): Đố vui có thưởng]
Chủ trì là một ông kỳ lão đầu bịt khăn đỏ, ngồi ghế, giữa sân, bên cạnh là thúng đầy cam, quít, bưởi (dùng làm vật thưởng). Trước mặt ông là mõ và thanh la, với cây dùi.
Dùng cây dùi gõ vào mõ "cốc, cốc..." khi đoán câu đố sai; gõ vào thanh la nhẹ "beng" khi đoán gần đúng; gõ mạnh và liên hồi thanh la "beng beng beng" để xác nhận đoán đúng và trúng giải.
Thoạt đầu, ra những câu Thai dễ, thí dụ như:

Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi.
- Xuất bỉnh (tên một thứ bánh).

Trẻ 1 hô lớn: "bánh ướt". Ngụ ý cầu khó đi, có thể té, quần áo ướt mem. Vì gần đúng, ông kỳ lão gõ một tiếng "beng" vào cái phèng la.
Cậu 2 đáp là "bánh tét". Ông kỳ lão gõ một tiếng "cốc", ngụ ý sai lời giải.
Rốt cuộc, một cậu đáp to : "Cái bánh bò"!. Tiếng phèng la đổ dồn, khá to, xác nhận cậu ta trúng giải. Cây cầu khó đi thì phải bò, khom lưng.
Và đây là câu đố mà chúng ta cần chú ý:
Kỳ lão ra câu Thai:
- Mẹ thằng cùi!

Xuất mộc (Tên một loài cây)
Vài người thử đáp giải, nhưng được lãnh tiếng "cốc, cốc", hoặc tiếng "beng" thật nhỏ.
Rốt cuộc, ông kỳ lão ra Thai tự giải đáp:
- Mẹ là mẫu theo nghĩa chữ Hán.
Đơn là bịnh phong, người nổi đơn, da thịt sưng lên, sần sùi, gọi là bịnh cùi.
Vậy "Mẹ thằng cùi" là "bông mẫu đơn"! (hoa mẫu đơn)...]
                                   (Thuần Phong Mỹ Tục Việt Nam - Sơn Nam)

Giờ mời các bạn đi vào bài thơ của tôi:

CHUYỆN TÌNH VÙNG U MINH


I. ANH HÙNG LỠ VẬN


U Minh tràm đước, cóc kèn (*)
Anh hùng lỡ vận vào rừng bắt ong
Bắt sao trúng phải nỗi buồn
Cảm thương phận bạc
Lệ tuôn lưng tròng

Dõi theo con nước lớn ròng
Bỏ đi trốn bậu
mà lòng xốn xang
Nước mắt sao cứ chảy hai hàng
Chèo ghe lướt tới,
mà lòng quay lui!

Rạch sông muôn nẻo ngược xuôi
Cố quên nẻo ấy
Dáng người bên hoa

Mắt xưa giờ chắc lệ nhòa
Gặp nhau chi hở?
Bậu qua phải sầu!

II.  "MẪU ĐƠN" HOÀNG MAI

Bên sông tựa nhánh bần xiêu
Lặng thinh đêm lạnh
đìu hiu bên trời
Sương rơi thấm lạnh vai người
Vạc kêu tiếng khổ,
buồn rơi đoạn lòng

Mắt ơi!
Thôi. chớ hoài trông
Làm sao giữ được một dòng nước xuôi?

Về thôi?
Thôi hãy về thôi!
Trăm năm. cũng vẫn một đời cô liêu!

Về thôi!
Trời ửng bóng nhiều
Ngàn chim ríu rít
như trêu lòng người

Về thôi!
Người chẳng đến rồi!
Gặp chi?
Rồi để cả đôi phải sầu

Hoa xưa. nay có còn đâu
Còn màu lá úa
Còn đau tình này!
.............
                                       NGUYÊN LẠC
 
(*) Cây cóc kèn: Derris trifoliata rất phổ biến trong những vùng ngập mặn, rừng sác, rừng ngập mặn. là loại cây bò trườn, thuộc họ Fabaceae.

.....................

@.Phụ lục cho toàn bài viết:

Huyền Thọai Trận Mù U - Võ Hương An
http://www.art2all.net/tho/tho_vha/vha_huyenthoaitranmuu.html

Rừng U Minh Ta không thấy em (Nguyễn Văn Nho đàn và hát)
http://www.art2all.net/tho/nguyenlac/RungUMinhTaKhongThayEm_NguyenVanNho.mp3

Thứ Bảy, 20 tháng 7, 2019

Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2019

MÂÝ DÒNG TÂM TƯ . - THƠ TỊNH ĐÀM


Đàm Nguyễn Tài
02:32, Th 5, 18 thg 7 (1 ngày trước)
tới tôi







***MÂÝ DÒNG TÂM TƯ .

Thắp đêm ,
Cùng ngọn nến vàng .
Chập chờn hư ảnh ...
Mênh mang tình sầu !

Ngoài hiên ,
Rả rích mưa ngâu .
Rưng rưng nỗi nhớ ...
Từ đâu tìm về !

Mình tôi ,
Hồn nửa tỉnh , mê
Thấy trong tâm tưởng bốn bề ...
Mộng giăng !

Người ơi ...
Có biết cho chăng ?
Tình tôi ,
Lệ nến thắp bằng lửa tim .!

TỊNH ĐÀM
( TP.HCM )

Thứ Năm, 18 tháng 7, 2019

Thứ Tư, 17 tháng 7, 2019

CHUYỆN TÌNH VÙNG U MINH NAM BỘ QUÊ TÔI (I) - NGUYÊN LẠC


Steven Nguyen
Tệp đính kèm
16:46, Th 2, 15 thg 7 (2 ngày trước)
tới Van, QUANG, Hung, Văn, Tran, Tran, tôi, TAM, Truong






                                                (U Minh-Diệc)

CHUYỆN TÌNH VÙNG U MINH  NAM BỘ QUÊ TÔI (I)

Phần I: 
VÙNG U MINH

BÀI THƠ, NHẠC VỀ RỪNG U MINH


Trước khi vào bài, mời các bạn đọc bài thơ và nghe bài nhạc phổ bài thơ này. Bài thơ liên quan đến vùng U Minh. Bài nhạc phổ thơ này theo cảm xúc riêng tôi rất hay, nhưng không biết sao nó không được phổ biến bằng các bài nhạc phổ thơ cùng thời, cùng nhạc sĩ Phạm Duy như bài: "Thà Như Giọt Mưa", "Kỷ Vật Cho Em" "Chuyện Tình Buồn"... Chắc vì nó không đề cập đến thành phố, trường đại học, quán nhạc đèn vàng... mà chỉ nói về nơi chốn chân chất, quê mùa?

Rừng U Minh Ta Không Thấy Em
          [Thơ Nguyễn Tiến Cung]

Ta không thấy em từ bấy lâu nay
Mùa mưa làm rừng đước dâng đầy
Trên cao gió hát mây như tóc
Tràm đứng như em một dáng gầy

Ta không thấy em một lần đi
Nước phèn vàng nhuộm quần trây-di *
Đạn nổ lùng bùng trong nòng ướt
Tình đã xa rồi thôi nhớ chi

Mỗi con lạch là mỗi xót xa
Mỗi giòng sông là mỗi tuổi già
Thành phố đâu đây hình mất dạng
Cuộc chiến già nua theo tiếng ca…
........
* Treillis: loại quần bằng vải khaki của quân đội, thường có hoa văn màu xanh thẫm để ngụy trang

Mời nghe nhạc:
Rừng U Minh Ta Không Thấy Em - nhạc Phạm Duy - Khánh Ly
https://youtu.be/Cd7H_ieM85k

RỪNG U MINH

Rừng U Minh nằm sát Vịnh Thái Lan, thuộc hai tỉnh Kiên Giang và tỉnh Cà Mau. Rừng U Minh là kiểu rừng rất đặc thù, được xếp hạng độc đáo và quý hiếm trên thế giới, gồm phần trên là U Minh Thượng, phần dưới là U Minh Hạ. Giữa U Minh Thượng và U Minh Hạ là sông Trẹm và sông Cái Tàu, nơi đây thiên nhiên rất hùng vĩ và hoang sơ.
Rừng U Minh được coi là nơi có giá trị sinh khối cao nhất so với các kiểu rừng khác với khoảng 250 loài thực vật, chủ yếu là cây tràm mọc ở khắp nơi, hơn 180 loài chim, hơn 20 loài bò sát...
                                                                                         (Wikipedia)

Sao gọi là U Minh? Theo các nhà văn viết sử dân dã chính xứ U Minh cho biết:  U Minh là u ám, mù mịt, như cõi địa ngục. Tên khu vực từ xa xưa được hiểu là xứ đen tối, mù mịt.
Theo từ điển Hán Việt
U: Âm u, tối tăm, thăm thẳm
Minh có nghĩa là tối tăm, mù mịt: 暝 hay 冥 (bộ Mịch), không phải 明 là sáng.
Cõi U Minh ám chỉ địa ngục, là nơi tối tăm u ám.

       
                        (Rừng tràm)

1. Rừng U Minh Hạ

-- U Minh Hạ có diện tích rộng khoảng 82,86 km². Cách thành phố Cà Mau 40km, nó năm trên địa phận xã Khánh Lâm, Khánh An của huyện U Minh và xã Trần Hợi, Khánh Bình Tây Bắc của huyện Trần Văn Thới. Rừng quốc gia U Minh Hạ là một trong ba vùng lõi của Khu dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau, được UNESCO đưa vào danh sách các khu dự trữ sinh quyển của thế giới. Đây là khu vực có hệ sinh thái mang nét độc đáo của vùng đất ngập nước trên lớp than bùn. Thực vật ở đây đặc trưng nhất là cây tràm và các loại dây leo. Hệ động vật tương đối phong phú với các loài cá đồng, trăn, rắn, khỉ, nai, cheo, heo rừng…  hứa hẹn sẽ là một địa điểm rất lý tưởng cho những người đam mê "du lịch bụi" và ưa khám phá mạo hiểm.
-- U Minh Hạ lắm chuyện ly kỳ, rùng rợn từ thuở người đi mở đất Phương Nam về heo rừng, bắt cọp, bắt cá sấu như Sơn Nam đã viết trong "Hương Rừng Cà Mau" . Mặc dù con cọp cuối cùng đã biến mất ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long từ lâu, cá sấu cũng không còn nằm vắt vẻo trên bờ dưới sình như xưa nữa (giờ sấu hay châu chấu cũng bị người làm đặc sản ăn hết sạch cả rồi), nhưng U Minh Hạ vẫn còn đó với những câu chuyện rùng rợn về rắn khổng lồ nặng hàng tạ, dài cả chục mét. Ở miền rừng, dường như con gì cũng thành tinh. Đến giống lươn hiền lành cũng nặng tới... 2kg, mình to bằng cổ tay, da trơn nhẵn bóng. Chuột đồng ngót hơn cân thịt, không rõ đã sống lâu bao tuổi, người yếu bóng vía chẳng dám ăn. Có đoàn tình nguyện viên quốc tế đến U Minh Hạ vài ngày, khi về bị con muỗi rừng đốt sưng vù cả mặt, vết cắn u to bằng quả mận, vài tháng sau vẫn còn vết thâm. Xưa đã có câu ca dao về vùng đất này: “Cà Mau là xứ quê mùa/Muỗi bằng gà mái, cọp tùa bằng trâu”.
Muỗi mòng vùng U Minh đã đi vào ca dao dân gian:

"Xứ đâu như xứ Cạnh Đền
Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lềnh tựa bánh canh"
                                       (Ca dao Tây nam bộ)

Từ hai câu ca dao này đưa đến bài hát Em Về Miệt Thứ ca sĩ Hương Lan thường ca:

Từ ngày xa đất Tiền Giang
Em theo anh về xứ Cạnh Đền
Muỗi kêu mà như sáo thổi
Đĩa lềnh tựa bánh canh
Em yêu anh nên đành xa xứ
Xuôi ghe chèo Miệt Thứ Cà Mau.
       (Lời nhạc: Em Về Miệt Thứ)

Mời nghe nhạc Em Về Miệt Thứ - ca sĩ Hương Lan
https://youtu.be/ZBD_j_kf8nQ

Về chuyện muỗi mòng, xin trích đoạn truyện vui sau đây của nhà văn Sơn Nam. (Phần trong ngoặc là của tác giả bài viết ghi thêm cho rõ)

     [  ... Má ơi ! Đừng gả con xa.
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu

Câu chuyện xảy ra tại rạch Bình Thủy, làng Long Tuyền, tỉnh Cần Thơ, đâu cũng vào khoảng năm 1939 hoặc 1940 gì đó.
...
-- Dạ, vợ chồng cậu Quỳnh mạnh khỏe (Khách từ U Minh lên Bình Thủy nhắn lời cô Út thăm hỏi ông bà Cả - Cha mẹ cô Út, vợ Quỳnh - trả lời). Nhờ trời sanh được sáu đứa con. Bốn đứa sau đều là con trai.
Bà Cả mừng quýnh :
- Úy ! Bộ con Út đẻ năm một sao ? Con nhỏ đó thiệt...
Khách trả lời :
- Dạ, đẻ năm một. Đứa ăn thôi nôi, đứa lôi đầy tháng. Mẹ tròn con vuông. Hồi tôi đi đây, cô Út gần nằm chỗ một lần nữa. Thưa ông bà, "miệt dưới" ai cũng vậy. Như vợ chồng cháu đây có tám đứa con.
- Sao vậy cà ? Sao vậy cà ? Ở dưới cỡ này ra sao mà thiên hạ đẻ nhiều quá vậy ?
Khách ngượng nghịu... chập sau mới nói :
- Dạ ở miệt dưới muỗi dữ lắm; chạng vạng là cả nhà, vợ chồng con cái rút vô mùng... nói chuyện. Ít ai đi đâu.
Ai nấy phá lên cười to. Đến lúc bấy giờ, ông Cả bà Cả mới hiểu thêm một sự bí mật quan trọng của tiếng "muỗi kêu như sáo thổi" ở Cạnh Đền. Nó làm hại sức khỏe con người. Nhưng nó gắn bó mối tình chồng vợ hơn ở xứ không có muỗi... ]
                                                                [Cô Út về rừng - Sơn Nam]

-- Những sự đa dạng về sinh vật ở rừng U Minh Hạ như sau:
- Rừng U Minh Hạ mang nét đặc trưng tiêu biểu của rừng ngập mặn miền Nam. Cây rừng ở u Minh chủ yếu là loại tràm ngập mặn, năn, sậy và các loại dây leo cùng với hệ động vật đa dạng như các loại cá nước ngọt, heo rừng, nai, khỉ, sóc, kỳ đà, trăn, rắn, rùa… nhiều loại quý hiếm khác.
Và đặc biệt, mật ong rừng U Minh:
[... Nơi đây đặc biệt, dưới tán rừng tràm, loài ong quanh  năm cần mẫn đi hút mật hoa tràm về xây tổ và cho sản lượng mật lớn. Mật ong rừng U Minh nguyên chất trong và vàng tươi, những giọt mật được chắt lọc kỹ càng, hoàn toàn được lấy vào mùa hoa tràm nở rộ. Mật ong rừng U Minh không bị pha trộn, để lâu năm không đổi màu, không biến chất, có hương vị đặc biệt của hoa tràm, mùi thơm nhẹ và có rất nhiều công dụng trong y học, chăm sóc sức khỏe.
Vào mùa “ăn ong”, từ khoảng Tết cho đến tháng 6, đi du lịch U Minh Hạ, du khách sẽ được theo chân những người thợ gác kèo ong vào rừng cùng ăn ong, lấy mật. Tại đây, du khách được thưởng thức món ăn từ ong non vừa được cắt xuống, chấm thêm tí mật của hương rừng tràm U Minh cảm nhận vị ngọt thanh, thơm ngát của ong rừng. Ngoài mật ong, ong rừng U Minh còn chế biến được nhiều món khác nhau, như nhộng ong xào, nhộng ong nấu cháo, nhộng ong kho khô, hay xúc bánh tráng…
Ngoài những món ăn quen thuộc từ nhộng ong, người dân vùng U Minh còn chế biến một món ăn rất đặc biệt từ nhộng ong, đó là mắm ong. Mắm ong, đặc sản rừng U Minh với nhiều người nghe có vẻ xa lạ, nhưng với người dân vùng U Minh đây là một món ăn rất dân dã.
Món đặc sản rừng U Minh này có thể ăn kèm với các loại rau rừng cùng lá cóc, chuối chát, dưa leo… Vị mềm béo và thơm của ong, vị chua nhẹ của mắm và lá cóc, chát chát của chuối, giòn giòn của dưa leo… cùng mùi thơm đặc trưng của thính lan tỏa khiến bạn ăn hoài không chán. Nếu thích, bạn có thể trộn mắm ong với thịt ba chỉ luộc nước dừa thêm vài lát ớt sừng cùng ngò rí vậy là bữa ăn giữa bạt ngàn tràm U Minh đã trở nên thịnh soạn rồi... ]
                                                                   [Tùy Phong – Mytour.vn]

2. Rừng U Minh Thượng

U Minh Thượng có diện tích rộng khoảng 80,53 km² thuộc địa phận của huyện An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận thuộc tỉnh Kiên Giang và bán đảo Cà Mau.
Những sự đa dạng về sinh vật ở rừng U Minh Thượng như sau:
- Không khí trong lành cùng với không gian khoáng đãng
- Nhiều chim muông, thú rừng, các loài động thực vật như mảng chim, mảng dơi quạ, tràm nguyên sinh, nhiều quần thể rái cá, heo rừng, kỳ đà. Đây còn là nơi cư trú của một số loài hoang dã vùng rừng ngập như Sóc mun Viverra:  Viverra megaspila.

       
                             







       (U Minh thượng)


GIỚI THIỆU VÀI LOẠI THỰC VẬT ĐẶC BIỆT

Xin được giới thiệu đến các bạn thực vật đặc biệt của vùng U Minh, Cà Mau nói riêng và Nam bộ quê tôi nói chung.
Bài thơ được phổ nhạc nhạc trên có nói đến tràm và đước, ta lần lượt tìm hiểu 2 loại thực vật này trước.
Rừng tràm và rừng đước nối tiếp vây quanh mũi Cà Mau từ Đông sang Tây, rừng Cà Mau đứng thứ nhì trên thế giới về tầm quan trọng và diện tích, sau rừng ngập mặn ở cửa sông Amazon của châu Mỹ La Tinh. Cà Mau có hai khu rừng lớn nổi tiếng trong cả nước và trên thế giới. Khi nói đến rừng U Minh người ta liên tưởng đến loài cây phổ biến là cây tràm, cây đước tạo nên rừng bạt ngàn ở Năm Căn.

1. Cây Tràm
-- Tràm (Melaleuca cajuputi) là một trong 10 loài thuộc chi Tràm (Melaleuca L.) Cây gỗ nhỏ hay trung bình, thường xanh, cao 10-15m (đôi khi tới 20-25m), và đường kính có thể đạt 50-60cm. Đôi khi là cây bụi, cao 0,5-2m, nếu mọc ở vùng đồi cằn cỗi Thân thường không thẳng; vỏ ngoài mỏng, xốp, màu trắng xám, thường bong thành nhiều lớp. Hệ rễ phát triển mạnh. Lá đơn, mọc so le; phiến lá hình mác hay hình trái xoan hẹp, thường không cân đối, kích thước 4-8 (-10)x1-2,0 (¬2,5)cm; đầu nhọn hoặc tù, gốc tròn hoặc hơi hình nêm; dày; lúc non có lông mềm màu trắng bạc, sau nhẵn, màu xanh lục; gân chính 5 (đôi khi 6), hình cung; cuống lá ngắn, có lông.
Cụm hoa bông mọc ở đầu cành hay nách lá. Hoa nhỏ, màu trắng, trắng xanh nhạt, trắng vàng nhạt hoặc trắng kem; đài hợp ở gốc thành ống hình trụ hay hình trứng, 5 thuỳ đài rất ngắn; cánh tràng 5, có móng rất ngắn (các thuỳ đài và cánh tràng đều sớm rụng); nhị nhiều, hợp thành 5 bó, xếp đối diện với thuỳ đài; đĩa mật chia thuỳ, có lông mềm; bầu ẩn trong ống đài, 3 ô.
Quả nang gần hình chén hoặc hình bán cầu hoặc hình cầu, kích thước 3¬3,5x3,5-4mm, khi chín nứt thành 3 mảnh. Hạt hình nêm hoặc hình trứng. Sau khi hoa nở, tạo quả; trục cụm hoa tiếp tục sinh trưởng, phát triển tạo thành từng đoạn mang hoa quả và mang lá xen kẽ nhau.

         
                           (Cây tràm-Cô gái )

-- Tràm lá dài (cây tràm gió) hay Cừ tràm là loại cây thân gỗ, có vỏ mềm xốp, khi cao 3-5 mét thì vỏ cây nứt ra từng miếng mảng dễ bị tróc. Lá cây tràm có mày xanh, mọc so le, hình trứng hay mũi mác, dài 1 – 25 cm và rộng 0,5 – 7 cm, mép lá nhẵn, màu xanh lục sẫm hay xanh xám.
-- Công dụng của tràm:
Cây tràm được dùng làm củi, cừ tràm trong xây dựng. Vỏ tràm dùng để trám ghe, thùng.
- Trong lá và cành non của cây tràm có tinh dầu tràm có tính sát trùng dùng để xức trị bệnh hô hấp. Tinh dầu tràm có tác dụng thay đổi sự bài tiết của khí quản và làm lỏng đờm.
Dầu tràm gió là một loại dầu gió được chiết xuất từ lá của cây tràm lá dài (Melaleuca leucadendra), cũng có thể chiết xuất từ các cây khác thuộc chi Tràm. Loại dầu này có hương thơm và mùi vị dễ chịu nên được dùng trong nhiều loại thuốc ho, nước súc miệng, thuốc sát khuẩn và nấm đặc hiệu dưới hai dạng sử dụng bôi thoa trực tiếp hay dạng hít ngửi bay hơi. Từ lâu dầu tràm đã được sử dụng rất rộng rãi trong cộng đồng ở Việt Nam để phòng ngừa cảm mạo, gió máy cho người già, người bệnh, sản phụ, trẻ em, kể cả trẻ sơ sinh
- Đặc biệt thân cây tràm sử dụng rất nhiều trong các công trình xây dựng, các công trình bờ kè giữ đất. Cừ tràm sau khi trông khoảng 5-6 năm trở lên có thể khai thác để sử dụng gia cố nền móng cho các công trình xây dựng vừa và nhỏ. Thường sử dụng loại cừ tràm có chiều dài từ 3,7 – 4,5 mét và có đường kính gốc 8 – 12 cm, đường kính ngọn từ 3 – 4,5 cm. Cừ tràm có độ bền khá cao nếu ở trong điều kiện thích hợp. Điều kiện thích hợp của cừ tràm là ngập nước hoặc độ ẩm cao. Ngoài ra cừ tràm còn được kết hợp với phên tre sử dụng để gia cố cho các bờ kênh, bờ kè, các thành hố đào,… chống sạt lở đất.

2. Cây đước
Cây đước quá quen thuộc vùng Nam bộ qua ca dao. Thí dụ:

Hổng thương em hổng có cần
Trầm hương khó kiếm chớ đước, bần thiếu chi

Ta thử tìm hiểu cây đước:
-- Cây đước (Đước đôi) có tên khoa học là (Rhizophora apiculata B.L). Ở Việt Nam, đước phân bố tự nhiên trên diện rộng từ Quảng Trị đến đồng bằng sông Cửu Long, nhưng phát triển mạnh nhất ở Cà Mau. Là loài cây gỗ ngập mặn. Gỗ cây màu trắng hồng, cứng, nặng có công dụng làm củi, làm vật liệu xây dựng, đốt than. Than đước Cà Mau là chất đốt rất cần thiết thời trước.
Đước là loài cây sinh sống tại nơi đặc biệt, ngập mặn nên có bộ rễ được cấu tạo đặc biệt.
Rễ cây đước phân ra thành 2 bộ là rễ cọc và rễ phụ
- Rễ cọc nhỏ, kém phát triển, cắm sâu xuống lòng đất.
- Rễ phụ lại phát triển, mọc ra từ phần thân xung quanh gốc cây, bán chặt vào vùng bùn nhão xung quanh, giúp cho cây được vững vàng.
Trung bình mỗi cây đước có từ 8 đến 12 rễ phụ.
Rễ cây đước có nhiệm vụ hút và vận chuyển nước, cùng các chất dinh dưỡng đi nuôi cây.
Ngoài ra còn có rễ thở, có chức năng hô hấp, mọc trực tiếp trên thân cây, tại những nơi không bị ngập nước.

       
                             (Cây đước 2)

-- Đặc điểm sinh sản của cây đước
Không giống hầu hết các loài thực vật khác, đước có một hình thức sinh sản khá đặc biệt đó là “thực vật thai sinh”. Vào mùa tháng 4, tháng 5 hàng năm đước ra hoa và kết quả. Thời gian quả chín từ tháng bảy đến tháng mười hàng năm.  Khi quả đước chín, hạt sẽ nảy mầm, hấp thụ chất dinh dưỡng luôn trong phần thịt quả. Thời gian từ khi ra hoa đến khi phôi chín khoảng tầm 6 tháng.
Khi phôi chín sẽ tách khỏi cơ thể cây mẹ và rơi xuống nước, trôi dạt khắp nơi. Quả nào gặp bùn sẽ bám trụ lại, mọc ra rễ con bám vào bùn và phát triển thành cây, quả nào không gặp bùn thì sẽ tiếp tục trôi dạt đến nơi khác. Thời gian từ lúc quả đước bám rễ vào trong đất đến lúc mọc ra được chồi non là khoảng 20 đến 25 ngày. Sẽ mất khoảng 20 năm để cây đước phát triển từ mầm cây bé lên được thành cây lớn có thể khai thác gỗ.
Một số loài đước - mangrove - có gỗ thích hợp cho các công trình xây dựng dưới nước hoặc để làm cọc, cột. Tanin thu được từ vỏ cây để thuộc da. Các rừng đước ngập mặn tạo thành một phần của hệ sinh thái đất ngập mặn, có vai trò quan trọng trong sự phát triển và đa dạng hóa của động vật thân mềm.
Ai chưa đến Cà Mau thường nghĩ đến nơi đây là vùng đất của những tán đước xanh rờn. Cây đước dường như trở thành một loài cây biểu tượng của vùng đất biển. Người ta thường biết đến cây đước Cà Mau qua những lời ca tiếng hát ân tình “Anh đến quê em đất biển Cà Mau/ Có thấy xanh tươi đước rừng bát ngát” (Đất Mũi Cà Mau); “Rằng quê Minh Hải mình đây/ Đồng xanh thẳng cánh chim bay/Chang đước vươn ra xa khơi” (Trên quê hương Minh Hải),… Thế nhưng có một loài cây vẫn thầm lặng sinh sôi vun trồng những hạt giống của mình cho vùng đất bồi ngày đêm vươn mình lấn biển: Đó chính là cây mắm.
       
                        (Hoa đước)

3. Cây mắm
-- Cây mắm có tên khoa học là Avicennia marina. Có nhiều loài mắm như mắm trắng, mắm đen, mắm ổi, mắm biển, mắm lưỡi đồng… Cây con mọc thành bụi, thấp, khi lớn nó thân gỗ cao đến 15 m đôi khi đến 30 m. Hoa có màu vàng cam đến vàng chanh. Vỏ cây trơn màu lục bẩn đền xám tối, có các vết nứt. .
- Mắm đen hay mắm lưỡi đòng (danh pháp hai phần: Avicennia officinalis) là một loài thuộc thực vật ngập mặn. Cây con mọc thành bụi, thấp, khi trưởng thành nó thân gỗ cao đến 15 m đôi khi đến 30 m. Các lá xanh bóng dài 10 cm, rộng 5 cm. Có hoa lớn nhất trong chi Mắm, với đường kính từ 6 đến 10 mm khi nở. Hoa có mày vàng cam đến vàng chanh. Vỏ cây trơn màu lục bẩn đền xám tối, có các vết nứt.
- Cây mắm biển là một cây đặc trưng của hệ sinh thái rừng ngập mặn. Loại cây này có chức năng quan trọng trong việc ngăn chặn sự xâm lấn biển, làm tăng thủy triều và biến đổi khí hậu. Cây mắm biển có thể được dùng để làm củi đun, xây nhà, làm xuồng… Có rất nhiều nhà khoa học cho biết rằng cây mắm biển cũng có thể được sử dụng trong công việc điều chế dược liệu.
       
                 (Cây mắm - Trái)

Cây mắm biển trắng hay còn được gọi với pháp danh: Avicennia marina Vierh
Lá mặt trên nhẵn, mặt dưới lông trắng.Đất phù hợp cho việc sinh sôi và phát triển của cây là nơi đất bùn và có thủy triều lên xuống.
Cây mắm biển đen có pháp danh khoa học là Avicennia Marina (Forsk.)
Mặt trên của lá màu lục sáng, không có lông. Mắt dưới lá màu xanh xám. Cây mắm biển đen là loài ưa sáng, chịu mặn giỏi. Chúng có thể sống được môi trường nước mặn, lợ. Tuy nhiên chúng thường định cư tại bãi lầy. Hoa để nuôi ong hút mật còn thân cây dùng để đun củi
Cây mắm biển còn được dân miền Nam nước ta dùng để đuổi muỗi. Cây mắm còn là mồi nhử những đàn cá dứa bơi từ biển về các cửa sông.

-- Đặc điểm của cây mắm là loại cây dễ bén rễ ở vùng đất bồi, cắm bộ rễ tua tủa trên phần đất bùn tại bãi bồi, những phần rễ mắm mọc ngược trở lên và tiếp tục giữ lại những lượng phù sa bị sóng đánh vào bãi. Đến khi mảnh đất chỗ đó dần dần nổi lên khỏi mặt nước, mặt đất bắt đầu săn lại thì cũng là thời điểm mắm cho quả. Vào khoảng tháng tư hàng năm là thời điểm cây mắm bị sâu phá hoại trầm trọng. Thời điểm này cây đước từ phía đất liền bắt đầu lấn chiếm ra phía bãi mắm. Do phải tập trung nhiều vào bộ rễ để giữ đất nên phần thân và tán mắm bị sâu phá hoại trầm trọng chẳng thể nào cạnh tranh lại với đước. Cây đước hưởng phù sa đất mới nên phát triển xanh tốt và lấn át cây mắm. Đước vươn cao đón hết những ánh mặt trời, tán đước che lấp toàn bộ loài mắm, thấp bé hơn bên dưới. Mắm chết dần và trước khi chết, mắm vẫn còn kịp ra hoa, kết trái và tung trái, vung hạt về phía chút đất non còn hoà với nước biển. Những hạt mầm lại tiếp tục sinh sôi để giữ đất và đất từ đó lại tiếp tục mở ra. Đó là lý do vì sao người dân Cà Mau hay nói “Mắm trước, đước sau,...” là như thế.
                                                                (Theo Dương Kim Chuyển)

-- Phân biệt cây đước và cây mắm:

Đặc điểm nhận dạng của cây mắm là bộ rể không chỉ đâm xuống mà còn đâm ngược trở lên khỏi mặt đất để lấy không khí như đã nói.
[... Trên bãi bồi phù sa màu mỡ, đâm lên tua tủa những ngọn rễ cây mọc ngược như một rừng chông dày đặc. Đó chính là rễ cây mắm, loại cây tiên phong cư ngụ sớm nhất tại bãi bồi. Thoạt nhìn cây mắm tương tự như cây đước, nhưng đuôi lá tròn, màu lá xanh nhạt hơn lá đước, thường chỉ dễ phân biệt nhau bằng bộ rễ. Trái mắm từng chùm cỡ lóng tay, trong ruột lõm màu xanh nhỏ bằng hột bí, như trái tim, có vị đắng, nên cần luộc nhiều lần mới ăn được. Đất bùn phù sa săn dần đi nhờ cây mắm rút bớt nước, chỉ một hai năm sau, cây mắm đã trổ bông, đậu trái, rồi lại tung hạt mắm bay đến những bãi bồi mới. Họ mắm gồm nhiều loại, như mắm đen, mắm trắng, mắm biển, mắm lưỡi đồng…
Khi đất tương đối chắc, cây đước bèn đến cắm dùi. Họ nhà đước đông đảo không kém, như vẹt dù, vẹt tách, dà vôi, dà quánh… Lá đước mọc đối xứng, xanh đậm, chuôi lá nhọn, búp lá màu đỏ và đặc biệt bộ rễ um tùm vươn ra ôm chầm lấy đất. Chàng đước vội ra chiêu quy hoạch cải tạo đất, chàng vừa bảo vệ, vừa phục hóa đất chua, mở đường cho thảm thực vật phong phú phát triển. Một thời Bạc Liêu, Cà Mau đốn sạch đước để đào hầm nuôi tôm, được vài ba vụ, tôm chết hàng loạt, vì bị ô nhiễm. Đến bây giờ nông dân mới ngộ ra nhiệm vụ cao cả của cây đước. Không chỉ có nhiệm vụ giữ đất, mà cây đước còn phát triển nhiều vi sinh hữu ích làm sạch môi trường, nhất là môi trường chuyên nuôi tôm, cá…
Nhưng khi chàng đước chen chân đến định cư, thì nàng mắm đành phải dứt áo ra bãi bồi mới, theo đúng quy luật thiên nhiên từ xưa đến nay, để bảo đảm cho hệ sinh thái bền vững.
Cây mắm đầu sóng ngọn gió. Cây đước biến phù sa thành đất phì nhiêu Cây mắm rừng Cà mâu tưởng không ích gì, làm củi thì khói, làm gỗ gia dụng thì không được; nhưng chính cây mắm nầy giữ đất phù sa lại, kết dính đất phù sa với nhau, trở nên mầu mỡ tốt tươi, và nhờ đó mũi Ca Mâu ngày một mở rộng dần...]
                                                                                (Theo Lâm Bích)

- Cây mắm mọc quanh rừng ngập mặn Mũi Cà Mau như một lá chắn giúp bảo vệ bờ biển trước nguy cơ sạt lở do biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Đây có thể nói là một trong những loài cây có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành lên rừng ngập mặn. Như chúng ta biết, bãi bồi Mũi Cà Mau được hình thành từ sự lắng đọng phù sa của hai con sông lớn là sông Cửa Lớn và sông Bảy Háp. Mắm là cây tiên phong của vùng đất bồi ven biển. Mỗi năm Mũi Cà Mau vươn ra biển được gần 80 - 100m cũng một phần nhờ loài cây mắm.
       
                          (Cây mắm 2)

Xin được trích ra đây đoạn liên quan đến cây đước trong truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn, nhà biên khảo Bình Nguyên Lộc: "Rừng Mắm"
.[... Xa, xa lắm, có những cây mọc lẻ tẻ như những tên lính xung phong mau bước tiến tới để hãm thành lập công.
– Nhìn xuống gốc cây! Ông nội bảo.
– Nước chưa lớn hẳn, để lộ bùn đen dưới gốc cây ra. Bùn đen từng nơi lại trắng xóa những đóa hoa năm cánh, hai màu đối chọi trông rất đẹp.
– Cây gì mà lạ vậy ông nội? Trổ bông ngay dưới gốc.
Bông trổ trên đầu những cái rễ ăn lên mà người ta gọi là rễ gió. Cây này là cây mắm, đây là rừng mắm đấy.
– Cây mắm? Sao tui không nghe nói đến cây ấy bao giờ.
– Con không nghe, vì cây ấy không dùng được để làm gì cả cho đến làm củi chụm cũng không được.
– Vậy chớ trời sanh nó ra làm chi mà vô ích dữ vậy ông nội, lại sanh hằng hà sa số như là cây cỏ ấy.
– Bờ biển này mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng ra hàng mấy ngàn thước. Phù sa là đất bùn mềm lủng và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưởng, nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một khi kia mắm sẽ ngã rạp. Giống tràm lại nối ngôi nó. Rồi sau mấy đời tràm, đất thuần, cây ăn trái mới mọc được.
Thấy thằng cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, ông cụ vịn vai nó mà tiếp:
– Ông với lại tía con là cây mắm, chơn giầm trong bùn. Đời con là đời tràm, chơn vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xoài mít, dừa cau.
Đời mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ đã ngã gục cho kẻ khác là con cháu họ hưởng.
Con, con sắp được hưởng rồi, sao lại muốn bỏ mà đi. Vả lại con không thích hy sinh chút ít cho con cháu của con hưởng sao?
(Đoạn trên thằng Cộc đã nói: – Ở đây mình có ruộng, nhưng cũng khổ cả đời. Tui muốn đi quá, đi đâu cũng được, miễn là ở đó có làng xóm, có người ta- NL) ...]
                                                       [Rừng Mắm - Bình Nguyên Lộc]

4. Cây Bần
--  Cây bần, còn gọi là thuỷ liễu, là loại cây to mọc dựa bờ nước, lá nhiều. Cây thuộc loài thân gổ đại mộc có thể cao đến 20m và có đường kính đến 50 cm. Loại cây này có nhiều cành, cành non màu đỏ, 4 cạnh, có đốt phình to. Gổ xốp, bở, vỏ thân chứa nhiều tanin
– Bần gốc to, khỏe, rễ mọc sâu trong đất bùn. Đặc biệt từ rễ mọc ra nhiều "rễ thở" thành từng khóm quanh gốc.
– Lá đơn, mọc đối, dày, giòn, hơi mọng nước, hình bầu dục hoặc trái xoan ngược hay trái xoan thuôn, thon hẹp thành cuống ở góc, cụt hay tròn ở chóp, dai, dài 5-10cm, rộng 35-45mm. Cuống và một phần gân chính màu đỏ, gân giữa nổi rõ ở cả 2 mặt, cuống dài 0,5 – 1,5cm.
–  Hoa trắng, cụm hoa ở đầu cành, có 2-3 hoa, rộng 5cm, có cuống hoa ngắn. Đài hợp ở gốc, có 6 thùy dày và dai, mặt ngoài màu lục, mặt trong màu tím hồng. Cánh tràng 6, màu trắng đục, hình dải, thuôn về hai đầu. Nhị có chỉ hình sợi, bao phấn hình thận. Bầu hình cầu dẹt, vòi dài, đầu hơi tròn.
– Trái tròn dẹp, có đài dầy, mọng nước, đường kính 5-10 cm, cao 2-3 cm, gốc có thùy đài xòe ra. Trái khi còn non thì cứng, giòn ăn chua và chát, nhưng khi chín thì mọng, thịt quả mềm Nhiều hạt có hình dẹt
Xuất phát từ cái tên bần đồng âm với sự nghèo túng, bần cùng, mà người Nam bộ đã đặt câu đố về nó:

Giống chi toàn là giống đực
Thiếu tứ bề cam cực chung thân ?

Giống đực là bởi ở loài cây này, luôn có một phần của rễ mọc ngoi lên mặt đất để hút dưỡng khí, dân gian gọi là “cặc bần”. Từ đó, người ta cho rằng bần không có giống ... cái !

Bần ơi, ơi hỡi cây bần
Lá xanh bông trắng lại gần không thơm

Hình dáng của cây bần đã thể hiện khá rõ nét qua câu ca dân dã ấy.

         
             (Cây bần- Dừa nước)

Sự Tích Cây Bần

Truyện kể dân gian đại khái như sau:                                 
Xưa kia có một gia đình nông dân rất nghèo khó, áo chẳng được lành, cơm chẳng đủ no. Chẳng ai biết vợ chồng anh ta tên gì, chỉ dựa vào gia cảnh mà gọi anh là Bần. Hết cày thuê đến cuốc mướn mà nhà Bần vẫn vẫn không sao có đủ gạo ăn. Người vợ ngày ngày phải lặn lội tìm thêm trái rừng, lá cây mọc hoang hái về ăn đỡ dạ.
Năm ấy, trời lụt, nước dâng cao ghê lắm. Cảnh nghèo như Bần càng thêm khốn khổ. Vợ chồng Bần biết vậy nên bồng bế nhau đi khỏi xóm, đến vùng đất ở cửa sông để cắm câu, xúc tép, mong sanh tồn qua cơn thắt ngặt.
Nhưng sức mỏn hơi mòn, Bần đã gục ngã bên bãi đất bồi ven sông. Chồng chết, vợ Bần than khóc thảm thiết rồi cũng qua đời sau đó không lâu.
Thời gian trôi qua, trời hết lụt, cuộc sống trở lại bình thường, mọi người nhớ đến Bần ra cửa sông tìm thì chẳng còn ai thấy bóng dáng của hai vợ chồng nghèo khổ ấy nữa. Tìm mãi, họ phát hiện hai cây lạ mà trước nay vùng đất này chưa từng có. Một loại cây mọc ven sông, to tàn rậm lá, hoa nở tim tím, trái hình tròn dẹp, ăn vừa chua vừa chát. Họ gọi đó là cây bần. Một loại cây khác mọc gần đấy cũng cho trái hai màu tím và trắng như bông cây bần nhưng ăn có vị mặn. Người gọi đó là cây Mắm. Họ tin rằng đấy là hai loại cây do vợ chồng Bần hoá thành, hai thứ cây này thường mọc gần nhau, chúng có đời sống rất đơn giản mọc trên vùng đất cằn cỗi hay bùn hoang, giống như tình cảnh của hai vợ chồng chàng trai nghèo khó ngày trước.   
                                                                                           (Sưu tầm)                                                                                                             
Tại sao gọi là thuỷ liễu?

Giai thoại kể rằng khi vua Gia Long bôn tẩu đến cửa sông Hàm Luông, tỉnh Bến Tre đã ăn món cây bần chua chấm mắm và đặt cho loài cây này cái tên trang trọng hơn là “thủy liễu”, nghĩa là cây liễu nước (sống ở bùn nước, cành rủ xuống như cây liễu).
Đây là giai thoại:
"Cây bần gắn liền với cái tên thuỷ liễu đầy thơ mộng bởi một giai thoại liên quan đến vua Gia Long trong những ngày gian khó. Dân gian miệt cù lao Bến Tre kể : Khi chạy lánh Tây Sơn, có lần thuyền chúa Nguyễn lạc vào rạch Ụ, Cái Mít (thuộc Hàm Luông ngày nay), phải nhờ gia đình ông Trần Văn Hạc, là cai việc trong làng « bữa cơm ». Tình thế bất ngờ, lại phải “bảo mật”, chúa Nguyễn nói với gia chủ :
- Tôi chỉ muốn xin bữa cơm đạm bạc, có gì ăn nấy vì tôi phải đi thật gấp !
Ông cai Hạc suy nghĩ : nếu làm thịt gà, thịt vịt thì tốn thời giờ. Giết heo lại càng lâu lắc và lộ bí mật. Đích thân ông Cai vào bếp, giở hũ mắm sống rồi ra ngoài bãi hái mấy trái bần mới vừa chín cây.
Có lẽ, đó là lần đầu tiên và cũng là duy nhất Nguyễn Ánh được thưởng thức món ăn như vậy. Mùa vị vừa chua, vừa chát của bần, mùi vị đặc trưng của mắm và có lẽ quan trọng nhất là bụng đói cồn cào sau bao ngày chạy loạn, khiến vị vua cảm thấy thích thú :
- Trái chi mà ngon vậy ?
Cai Hạc kính cẩn thưa :
- Muôn tâu, tên trái ấy nghe dân dã quá, kẻ bề tôi chưa tiện thưa qua ạ !
- Cứ nói, đừng sợ chi cả !
- Thưa, trái bần ạ !
Nghe xong, Nguyễn Ánh cười, bảo :
- Trong lúc gian truân này ta mới hiểu trái bần thật ngon lành, nó chẳng kém gì cam quýt, nhãn, hồng
Vừa nói, vị vua thuở hàn vi liếc mắt nhìn rặng cây bần mọc hoang trung trùng điệp điệp trước nhà, lá bần xanh mượt gờn gợn thật thơ mộng. Hơn thế, từng chùm bông bần đung đưa, khoe nhuỵ trắng hồng vương bay theo gió.
Vua bèn phán :
- Cây này giống như cây liễu, trong Đường thi, Tống phú. Cây liễu ở Trung Hoa mọc trên đất cao, cây liễu xứ ta mọc trên bãi bùn, dầm chân trong nước mặn mà lá vẫn tươi xanh. Từ nay, ta gọi nó là thuỷ liễu, tức cây liễu mọc dưới nước nhé!"
                                                                  (Theo Trần Minh Phương)

Vậy là, từ đó bần có một loài tên không kém phần vương giả

Đóm đeo thủy liễu đôi chùm
Biết ai nhơn đạo chỉ giùm làm ơn.

     
                          (Bần- Trái)

Miếu Ông Bần Quỳ

Ở hạ lưu sông Vàm Cỏ Tây (huyện Vàm Cỏ, Long An) có miếu thờ ông Mai Công Hương, dân gian quen gọi là " miếu Ông Bần Quỳ ". Theo Huỳnh Ngọc Trảng trong "Ngàn năm bia miệng" (Sở Văn hoá và Thông tin Long An, in năm 1984), thì từ khi Mai Công Hương (người sau đó được triều đình nhà Nguyễn phong làm « vị quốc tử nghĩa thần ») tử tiết (khi đánh với quân Nặc Thâm, năm 1705) thì tất cả “bần” mọc hai bên bờ sông đều “quỳ” xuống như muốn tỏ phục hành động nghĩa báo của ông. Có dị bản khác thì cho rằng sau khi Phan Thanh Giản tuẫn tiết năm 1867, bần ở vùng ngã ba sông Vàm Cỏ và sông Tra hàng loạt bần quỳ xuống ... chịu tang người trung liệt. Từ đó, dân gian gọi ngả ba này là Ngã ba Bần Quỳ.
Cũng theo Huỳnh Ngọc Trảng giải thích thì “hiện tượng bần quỳ là do nước sông xói mòn làm cây cối ở mé sông ngả nghiêng ...
Khi nước ngập một phần lớn của rễ bần, nếu nước chảy mạnh, rễ bần thường ngã qua xuyên lại. Do đó, dân gian miền quê Cửu Long có một câu đối khá độc đáo về rễ bần như sau:

Nước chảy cặc bần run bây bẩy
Gió đưa dái mít giãy tê tê

Công dụng của cây bần

-- Trái bần lúc còn sống thì chua và chát. Trái bần chín có vị chua và mùi thơm rất đặc trưng nhưng hoa bần thì lại không thơm. Do vậy mà ca dao có câu:

“Cây bần ơi, hỡi cây bần
Lá xanh bông trắng lại gần không thơm.”

Đơn giản nhất là hái trái bần... ăn chơi. Bần chín rụng xuống người ta lượm về hoặc hái trái chua còn trên cây ăn chơi lúc rãnh rang, vị vừa chua chúa, chát, lại mằn mặn của muối ...
Như ở phần giai thoại lý giải tên thuỷ liễu chúng tôi đã nói đến món mắm sống với bần được mang đãi cả vua. Ca dao có câu:

Muốn ăn mắm sặc bần chua
Chờ mùa nước nổi ăn cho đã thèm

Mắm sống (mắm cá sặc, cá rô, cá chốt, cá trê vàng ...), giở ra, xắt chuối chát, kèm ít rau rừng như lá cách, cơm nguội, đọt sộp, lá lụa, vài trái ớt hiểm xanh... thêm trái bần chua nữa, ăn cớm với cơm nóng thì quả thật sướng đến... đã đời. Cơm hết nồi cũng chưa thấy no, chưa muốn nghỉ !
Khi ăn cơm, người ta có thể dầm bần chín với cá kho, mắm kho, để chấm rau sống, hoặc chấm ngay bằng gỏi bông bần. Bông bần được hái về bóp với dấm chua, làm gỏi ...
Trong số các món ăn mà bần góp mặt, cầu kỳ nhất có lẽ là canh chua bần và đọt bần xào chuột.                                       
Canh chua bần thì ngon nhất là nấu với cá bống sao. Đồ bổi (rau) để nấu canh chua bần cá bống sao thì không thể thiếu cọng môn (có thể là thân loại môn trồng lấy củ, hoặc thân môn ngọt, chỉ để ăn cọng) và ngò gai.
Cọng môn cắt về, tước sạch vỏ bọc bên ngoài, xắt thành hình thoi. Ngò gai xắt sợi, cá bống sao làm sạch để ráo nước. Bắc nước sôi cho trái bần chín vào nấu rã, dùng rổ lược vớt bỏ hột. Nêm nếm vừa chua, đổ bổi vào nấu. Sau đó, cho cá bống vào để vài phút rắc ngò gai và ít cọng bông bần lên trên tô canh, ăn ngay khi canh nóng ... nếu để lâu thịt cá sẽ nát và mất ngon. Nước chầm là muối, ớt chín dầm nát và bọt ngọt, đường cát ...
Mùi chua của bần, mùi ngọt của cá, cọng màu xanh của môn, ngò , sắc tím lẫn trắng của bông bần gợi nên tình quê đậm đà sâu nặng ...
Ở món chuột đồng xào đọt bần, thì chuột cơm ngoài đồng ruộng béo tròn (ngon nhất là chuột no lúa mùa từ tháng mười đến tháng chạp hàng năm), đào hang bắt chúng về làm sạch, để ráo nước, rồi đem bằm thật nhuyễn. Hái đọt bần non rửa sạch, để ráo nước xắt sơ qua. Bắc chảo lên bếp cho nóng, phi tỏi mỡ cho thịt chuột đã băm nhuyễn vào xào cho thịt chín đều thịt có màu trắng đục, rồi tiếp tục cho đọt bần vào. Khi đọt bần đã chín, cho chút gia vị bột ngọt, đường, nước mắm, ớt bằm nhỏ, trộn đều cho thấm. Nhắc xuống ăn nóng, chấm với nước mắm tỏi, ớt ...
Vị chua chua, chan chát của đọt bần, trộn lẫn cùng vị béo ngọt của thịt chuột làm thành món ăn độc đáo miền quê.
                                                                  (Theo Trần Minh Phương)

-- Trong dân gian, người ta thường dùng cây bần như một vị thuốc nam
Bần chua và bần ổi để cầm máu (dùng vỏ và lá),
Làm tan các vết bầm tím do đụng dập (dùng lá)
Tiêu viêm, giải nhiệt, giảm đau (dùng quả)
Điều trị nhức mỏi (dùng rễ và thân)
Ngăn chặn xuất huyết (lên men dịch quả để làm thuốc)
Điều trị ung thư vòm họng (dùng trái bần non)
Điều trị sỏi thận (rễ bần sao thủy thổ)

-- Bần đã đi vào địa danh như Rạch Bần (Cần Thơ), Cây Bần (Bạc Liêu, Sóc Trăng), Ngã Ba Bần Quỳ (Long An) ...

Bần là loài cây tạp ít giá trị kinh tế nhưng chức năng giữ đất trước sự xâm lấn của sóng biển thì thật đáng nể. Bần mọc đến đâu đất dai bền vững đến đó. Có được điều này vì bộ rễ của nó phát triển khá vững chắc và chiếm một không gian rộng lớn ...
Câu thành ngữ “Cặc bần nhét nút chai” quá quen thuộc đối với người dân miền Tây sông nước. Nội dung của nó liên quan trực tiếp đến rễ của cây bần. (Các nút chai đựng rượu thường được làm từ cặc bần) Rễ bần có hai phần:  Phần ẩn dưới đất và phần mọc từ dưới bùn chĩa lên trời để hút dưỡng khí.  Rễ khí này lớn hơn ngón tay cái, dân miền Tây Nam Bộ thường gọi nó một tên rất đặc biệt: "Cặc bần".
 Theo Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức – Lê Ngọc Trục, Khai Trí, Sài Gòn in năm 1970) giải thích, Cặc bần (danh từ, thực vật) : Rễ cây bần, rễ cứng đuôi nhọn đâm ngược và ngay lên chôm chổm khỏi mặt đất từ 20 đến 40 cm .
Theo dân gian, cặc bần còn được chặt nhỏ phơi khô nấu nước uống để chữa một số bệnh của phụ nữ.
Thân cây bần to có thể cưa ván, nhưng đây chỉ là ván tạp, không chắc, xài chỉ được đôi ba năm. Người nghèo dùng ván bần để làm ngựa (một loại phản, kê để ngồi) xài trong nhà. Người nghèo chết thì chôn hòm bằng ván bần... Các loại nhánh, thâ ... còn dùng làm củi nấu ăn ...
                                                                 (Theo Trần Minh Phương)

Cây bần trong ca dao

Xin ghi ra đây vài câu ca dao có liên quan đến cây bần:
--  Mở đầu bằng một câu ca dao lịch sử :

Bần gie đóm đậu sáng ngời
Rạch Gầm Xoài Mút muôn đời oai linh

- Rạch Gầm - Xoài Mút
Câu ca dao này gắn liền với trận thủy chiến Rạch Gầm - Xoài Mút của Đại tướng quân Nguyễn Huệ, ông phá tan quân Xiêm xâm lược nước ta năm 1785. tại Rạch Gầm - Xoài Mút, Khúc sông Mỹ Tho, cách Mỹ Tho khoảng 12 km
Để hun đúc tinh thần yêu nước, chống ngoại xâm, tôi xin trich ra đây diễn tiến của trận đánh:

[ ... Theo hầu hết các tài liệu sử Việt thì sau khi nhận lời giúp Nguyễn Ánh, tháng 4 năm 1784 vua Xiêm Rama I sai cháu là Chiêu Tăng làm chủ tướng và Chiêu Sương, làm tướng tiên phong, thống lĩnh 2 vạn quân thủy và 300 chiến thuyền, từ Vọng Các vượt vịnh Xiêm La, qua ngả Kiên Giang sang giúp. Ước tính lực lượng liên quân Xiêm - quân Chúa Nguyễn - quân Chân Lạp (gồm 5.000 quân của Chao Phraya Abhaya Bhubet -sử Việt chép là Chiêu Thùy Biện - một người Chân Lạp làm quan cho Xiêm) tổng cộng quân số khoảng hơn 2 vạn.
Quân Xiêm tự do cướp giật, cưỡng hiếp phụ nữ, cướp bóc tài sản, giết bừa không tha già trẻ Việt Nam
Sau khi bí mật cho quân và tàu chiến ẩn náu ở các nơi hiểm yếu, Nguyễn Huệ lệnh cho quân đến khiêu khích. Lập tức, Chiêu Tăng giao Sạ Uyển ở lại giữ đại bản doanh, cử Lục Cổn dẫn bộ binh men theo tả ngạn sông Tiền để cùng phối hợp; còn ông cùng với tướng tiên phong là Chiêu Sương, dẫn hàng trăm thuyền chiến tiến xuống Mỹ Tho, nơi đặt đại bản doanh của Tây Sơn.
Đêm ngày 18 tháng 1 năm 1785 (ngày 8 tháng Chạp năm Giáp Thìn), lợi dụng con nước đang xuôi, cả hai đạo thủy bộ quân Xiêm cùng rầm rộ tấn công.
Đến khoảng đầu canh năm ngày 19 tháng 1 năm 1785, đoàn thuyền chiến của địch lọt vào trận địa mai phục của quân Tây Sơn ở Rạch Gầm-Xoài Mút, tức thì pháo lệnh tấn công của Tây Sơn nổ vang. Mở đầu trận đánh, hai đội thủy binh Tây Sơn từ Rạch Gầm, Xoài Mút bất ngờ lao ra, chặn đánh hai đầu, dồn quân địch vào vòng vây đã bố trí sẵn. Đồng thời, từ hai bờ sông Tiền (đoạn Rạch Gầm-Xoài Mút) và dọc bờ cù lao Thới Sơn, bãi Tôn, cồn Bà Kiểu, Rừng Dừa... các đại bác cùng pháo hỏa hổ của bộ binh Tây Sơn bắn ra dữ dội vào khúc giữa đoàn thuyền địch lúc bây giờ đang bị ùn lại.
Đồng loạt, đoàn thuyền Tây Sơn từ Rạch Gầm, Xoài Mút, trong những nhánh rạch nhỏ chảy quanh các cồn bãi, nhanh chóng kéo ra chặn đánh đầu. Một đoàn thuyền Tây Sơn khác ẩn náu sau cù lao Thới Sơn, xông ra đánh mạnh vào hông (nhằm chia cắt đội hình) và đánh chặn đường lui, dồn đoàn thuyền của đối phương vào thế tiến thoái lưỡng nan. Cùng lúc ấy, quân Tây Sơn, cho những thuyền nhẹ chở đầy những vật liệu dễ cháy đâm thẳng vào những chiến thuyền đang rối loạn làm cho số bị chìm, số bị cháy...
Quân Tây Sơn, thủy bộ phối hợp với nhau, khép chặt vòng vây, tiêu diệt quân địch hết mảng này đến mảng khác. Dưới sự chỉ huy và đốc chiến của Nguyễn Huệ, quân Tây Sơn lao vào cuộc chiến đấu quyết liệt. Một viên tướng quân Nguyễn về Long Hồ kể cho Mạc Tử Sinh biết: "Nguyễn Huệ đốc chiến ở phía sau, ra lệnh liều chết đánh, quân sĩ nào không quyết chiến thì chém ngay để làm răn. Vì thế các tướng sĩ đều liều, không nghĩ gì đến tính mệnh... tiến công rất là mãnh liệt"
Trời vừa rạng sáng, thì chiến cuộc cũng vừa dứt. Kết quả là 300 chiến thuyền và 2 vạn thủy binh của Xiêm cùng một số quân của chúa Nguyễn, không đầy một ngày, đã bị quân Tây Sơn phá tan. Hai tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương chạy trốn về Sa Đéc, bị truy kích, lại hối hả cùng Sa Uyển dẫn vài nghìn tàn quân chạy bộ sang Chân Lạp rồi về Xiêm...]
                   (Trận Rạch Gầm – Xoài Mút năm 1785 - Người Kể Sử)

Diễn tiến trận ta thấy giống y như trận Xích Bích, quân Đông Ngô của Chu Du đốt cháy toàn bộ chiến thuyền của Tào Tháo thời Tam Quốc.

- Bần gie đóm đậu

Tôi xin nói thêm vài hàng về "Bần gie đóm đậu", "Đóm đeo thủy liễu", về ánh sáng nhấp nháy của đom đóm :
Đối diện giữa sông Hậu, nhìn từ Đại Ngãi/ Vàm Tấn quê tôi,  bên phải là cù lao Dung chạy dài ra tới cửa biển Đông, bên trái là nhiều cồn nhỏ nổi song song nhau với những bờ cây bần chạy dọc theo bãi bùn, giữa là khe nước chảy êm đềm (Dải đất nổi giữa dòng sông, lớn gọi là Cù Lao, nhỏ gọi là Cồn). Những đêm không trăng, trời mờ ảo, triệu triệu đóm sáng nhấp nháy, chớp tắt nhịp nhàng của đom đóm cái gọi tình trong đêm, trên những hàng bần rũ. Thả thuyền xuôi giòng, trong khe nước giữa hai hàng bần; cùng bạn tri âm, tri kỷ nâng ly lặng ngắm cảnh trời. Dường như thuyền lạc vào cõi thiên thai! Vẳng đâu đây tiếng cá đớp bông, trái bần chín rụng.
Chỉ có đom đóm cái mới nhấp nháy ánh sáng gọi tình, đom đóm đực thì không. Xin được dẫn ra đây những điều lý thú về đom đóm cái:
Trong cuốn sách nói về đom đóm "Fireflies", tác giả Walker đã giải thích về sự nhấp nháy ánh sáng tình ái đó như sau: Trong bóng đêm, những con đom đóm đực thường bay ở trên chập chờn như ma trơi. Trong lúc đó thì những con đom đóm cái đậu trên lá cây ngọn cỏ chờ đom đóm đực. Đom đóm cái phải quan sát rất kỹ xem con đom đóm đực có phải cùng loại không (có khoảng 2000 loại đom đóm khác nhau). Nếu thấy là cùng loại, thì đom đóm cái sẽ nháy đèn ánh sáng tình ái, làm hiệu cho đom đóm đực biết để bay xuống làm tình! Điều thú vị là đom đóm cái có thể bắt chước điệu nhấp nháy của những đom đóm cái không cùng loại khác. Khi đom đóm đực không cùng loại xà xuống tưởng sẽ được làm tình, "chàng" sẽ bị đom đóm cái ăn tươi nuốt sống. Thế là đom đóm đực đã bị giống cái lừa một cách thảm thương. Đây có thể gọi là một thứ quyến rũ chết người.
                                     (Câu Chuyện Hai Dòng Sông - Nguyên Lạc)
       
                            (Bần- Hoa)

-- Vài câu ca dao hài hước có liên quan đến cây bần:

Tuổi thân con khỉ ăn bần
Chuyền cây hái trái lọt ùm xuống sông.

Cây bần gie cây bần ngả cây bần quỳ
Cảm thương con khỉ đột lấy gì mà ăn.

Anh kia trốn bụi bần non
Không lo chài lưới, lo dòm các cô

Phụ mẫu đánh anh quặt quà quặt quại,
Đem anh treo tại nhánh bần
Rủi đứt dây mà rớt xuống,
Anh cũng lần mò kiếm em.

Hổng thương em hổng có cần
Trầm hương khó kiếm chớ đước, bần thiếu chi

Trèo lên chót vót cây bần
Vái anh đi cưới vợ, cho sóng thần nhận ghe

Ba bốn nơi sang cả, phụ mẫu em muốn gả
Em chấp tay : khoan đã, chưa tới duyên phần
Phụ mẫu nói em bất tôn giáo hoá
Em trèo lên cây bần cho kiến nó bu

-- Truyện tiếu lâm về cây bần:

Danh ngôn Hán Việt có câu:

Bần cư náo thị vô nhân vấn
Phú tại thâm sơn hữu viễn thân (khách tầm)

        (Nghèo ở chợ đông không đứa hỏi
        Giàu nơi núi thẳm lắm người thăm)

Trong các tiệc rượu được các "ông thần ve chai" sửa lại như sau:

Bần cưa ván ngựa đen như sắn
Mọc cặp mé sông đứng chết trân

Hay:
Bần cưa khúc bự vô phương vác
Cú tại màng tang đứng chết trân

- Đúng là ông này ngớ ngẩn, cưa thành nhiều khúc nhỏ thì vác được chứ gì, phải không?

Hoặc:

Bần cưa ván ngựa vô phương đóng
Cú tại màng tang đứng chết trân"

- Câu này được giải thích lý thú như sau:
"Bần cưa ván ngựa vô phương đóng": Chúng ta ai cũng biết bần là loại cây sống trong môi trường bùn nước, có rễ phụ mọc nhô lên, có chức năng giữ đất rất tốt. Theo kinh nghiệm dân gian thì thân cây bần to có thể cưa ván, nhưng đây chỉ là ván tạp, không chắc, xài chỉ được đôi ba năm. Gỗ bỡ nên ván bần chỉ dùng đóng những đồ dùng nhỏ xài trong nhà như ngựa, phản. Chỉ người nghèo mới dùng ván bần làm hòm. Bột gỗ bần chế biến theo phương pháp sulphat hóa, có thể dùng làm nguyên liệu chế tạo giấy thô. Cành bần khô dùng chất chà nhử cá và làm củi đun. Gỗ bần dùng làm củi đốt, tuy tạo nhiệt lượng cao nhưng nhiều tro và muối. Rễ có tên bình dân là c... bần dùng làm nút chai và làm phao cho lưới đánh cá.
Gỗ bần chống được hà và sâu bọ nên có thể dùng làm ván thuyền, vật liệu xây dựng, cột nhà; tuy nhiên lại ăn mòn các kim loại khác do chứa lượng muối khoáng cao nên khi cưa bần, xẻ ván để đóng đồ dùng, nguời ta chỉ dùng mộng gỗ để ghép mà không đóng đinh.
                                                          [Theo Blog Tống Phước Hiệp ]


5. Cây Mù U

Quê hương tôi không có mùa thu
Biết lấy chi mơ thu sương mù?
Dòng Hậu giang lặng lờ soi bóng
Đưa tiễn người. rụng trái mù u!
       (Quê Hương Tôi Không Có Mùa Thu - Nguyên Lạc )

       
                             (Hình cây mù u-trái)

Cây mù u tên khoa-học là  Balsamia Inophyllum Loureillo, còn gọi là cây Hồ đồng.Theo tài liệu Cây cỏ rừng ngập mặn của  chuyên gia lâm-học xứ Cà Mau. Cây mù u có thân gổ lớn, có thể cao đến 20m, và đường kính 80cm, dáng đẹp và tàng xanh lục, có mủ (oleoresin) xanh dợt. VN  có 2 loại mù u tía và mù u trắng. Lá đơn, mọc đối, phiến nguyên, hình trứng, láng và dầy. Hoa trắng pha vàng cam, thơm, tạo thành chùm 6-10 hoa, ở nách lá, đầu cành.
Trái có nhân cứng, tròn, đường kính 2,5cm,1 hột, có mầm lớn, chứa nhiều dầu, không phôi nhủ. Ở VN,cây mọc những vùng ven biển từ Kiến-An, Quảng-Ninh, đến Quảng-Bình, Huế, Đồng-Nai, Miền tây,.Tại U-Minh, cây trồng 55 năm , đường kính thân đến 55cm.
Trong dân gian cây mù u được nhắc nhiều trong ca dao, tiếng hò, tiếng ru, hay  câu đùa  dí  dỏm:

Cây mù u lá mù u
Vợ chồng cắng đắng thằng cu làm hòa.

Hay:

Chày mù u cối mù
Vợ chồng oánh lộn thằng cu giảng hòa

Trận chiến mù u

-- Có giai thoại về "Trận chiến mù u" liên quan đến trái mù u như sau:
Dưới thời vua Tự Ðức để lại chiến công hiển hách, quân Pháp từ Thuận An tiến về Kinh thành Huế, bị quân triều đình mai phục bất thình lình đổ trái mù u ra mặt đường, giặc Pháp bị bất ngờ đạp trên trái mù u té, phục quân đổ ra đánh chém, giặc Pháp thua chạy dài, các hàng cây mù u xanh tươi của Xã Tắc còn đó, gợi lại niềm tự hào dân tộc đã chiến thắng quân xâm lược.

           Văn Thánh trồng thông
           Võ Thánh trồng bàng
           Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù u.

-- Theo ông Võ Quang Yến thật sự như sau:

"Người Huế hay tự hào về một chuyện đánh thắng Tây thời Tự Đức. Thấy quân Pháp, trong các cuộc duyệt binh, khi bước không co chân, tưởng họ không có đầu gối, vậy chỉ việc kiếm cách đánh ngã xuống đất thì họ không đứng lên lại được! Cũng như ta đã tưởng nước miếng của họ có hồ vì chỉ liếm vào là dán được tem. Nhà học giả Đông phương Thái Văn Kiểm dựa lên truyến thuyết kể chiến thắng nầy :"Khi quân Pháp đổ bộ lên cửa Thuận An, kéo binh vào thành Huế, quân ta mai phục hai bên đường vào đàn Xã tắc, bèn lấy trái mù u, đổ ra đầy đường. Quân Pháp đi giày da, đạp lên mù u, nhào té đảo điên. Quân ta thừa thế nhảy ra đánh áp la cà làm cho quân Pháp phải chạy tán loạn. Vì vậy mới gọi là trận giặc mù u. Ngày nay, hai bên đường Xã tắc, còn hai hàng mù u cao ngất nghễu thỉnh thoảng rụng trái trên vai người đi đường, như để nhắc nhở một trang sử oanh liệt." . Một người quê gốc Huế, anh Võ Hương An, rất am hiểu những sự tích ở chốn Thần kinh, tìm hiểu sâu rộng thì nhận ra chuyện vậy mà không phải vậy (4a). Tối hôm 22 tháng 5 năm Ất Dậu tức là ngày 04.07.1885, hai vị đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết thật muốn tấn công quân Pháp ở Trấn Bình Đài tức Mang Cá, không quên cho rải trước đồn những trái bàng và mù u. Suốt đêm, trước pháo đạn của ta, quân Pháp bình tĩnh thế thủ trong hầm, đợi đến rạng ngày 23 mới phản công. Quân ta ít thuốc đạn, thiếu tổ chức, tán loạn bỏ chạy, đạp lên các trái bàng và mù u, té ngã, chà đạp lên nhau, rất nhiều người chết. Thì ra gậy ông đập lại lưng ông! Và không có chuyện đánh thắng Tây, cũng không phải ở đàn Xã tắc. Theo nhà văn Pierre Loti, tức trung úy hải quân Julien Viaud, thì quân Pháp chỉ đánh chiếm Thuận An rồi thương thuyết để đặt nền bảo hộ lên nước ta nên không có chuyện quân Pháp từ Thuận An lên đánh thành Huế."
                                                   (Trận chiến mù u - Võ Quang Yến)

       
                           (Cây mù u-hoa)

Vài câu Lý, ca dao liên quan đến mù u:

“Trăng đã lên chơi vơi rường ơ
Mù u đã chín ơ
Soi bóng trong khoang ghe rường ơ
Mù u đã rơi…. “
(Lý Mù U)

“Bướm vàng đã đậu cây mù u rồi
Lấy chồng sớm làm gì, để lời ru thêm buồn “
(Sao Em Nỡ Vội Lấy Chồng)


Công dụng cây Mù U

Ở thôn quê, mù u thường mọc theo bờ sông, rạch. Có lẽ từ một bờ rạch nào đó một trái mù u rụng xuống nước rồi theo dòng sông trôi đến đây nẩy mầm, mọc rễ.
Thân cây mù u cũng chứa nhiều mủ màu xanh thường thấy rịn ra ở vỏ. cũng nhờ thân cây mù u có nhiều dầu nên gỗ mù u khó thấm nước và do đó được dùng để đóng ghe, xuồng.
Ngoài ra trái mù u còn để làm một món đồ thực dụng: cái gáo nhỏ dùng để múc nước, múc nước mắm... Gáo mù u giống hệt gáo dừa thường dùng để múc nước nhưng nhỏ xíu trông rất dễ thương.
Ngoài công dụng làm đồ chơi và gáo, mù u rất thông dụng ở nhà quê vì người ta dùng dầu mù u để thắp đèn (đèn dầu mù u). Muốn lấy dầu mù u người ta phải phơi mù u khô rồi đập lấy ruột ép để lấy dầu bằng hai khúc gỗ. Cây đèn dầu mù u rất giản dị: Một cái chén hay một cái dĩa đựng dầu có cọng tim nằm vắt thòng ra vành miệng để đốt. Cây đèn mù u có khói xanh bốc lên bay khắp nơi làm không khí đục mờ, trông rất nghèo khổ. Ngoài cách đốt dièn bằng dầu, người ta còn có thể làm những cây rọi để đốt (đuốc). Mù u ép xong, lấy xác còn lại trộn với bông gòn, tẩm vào một chút dầu mù u rồi quấn quanh cọng tre như một cây nhang lớn, thế là được một cây rọi. Đèn dầu mù u sạch sẽ hơn cây rọi, nhưng đốt cây rọi người ta được một mùi thơm nhè nhẹ dễ chịu của trái mù u.
Song song với việc dùng để đốt lấy ánh sáng, dầu mù u còn được dùng để xức các loại ghẻ, nhọt, mụn u. Đốt trái mù u cho cháy thành than, xong tán thanh cho nhuyễn và trộn vào một chút dầu mù u là có được một thứ thuốc xức ghẻ hay tuyệt. Nhựa mù u có thể dùng để làm thuốc cầm máu vết thương rất hay và thông dụng.

- Đây là ký ức tuổi thở của Nguyên Hạnh:

[... Ngoại tôi thì hàng ngày lấy rổ ra những con khém, con rạch vớt mù u về đem làm rọi thắp sáng thay đèn dầu.
Mù u vớt về phơi khô rồi đập phần vỏ lấy nhân đem ủ trong các lu, khạp sành khoảng 4- 5 ngày, sau đó đem ra quết chung với bông gòn rồi nắn vào cọng trúc, cọng tre vót nhỏ dài khoảng 5 tấc, phía dưới chừa khoảng 1 tấc để cắm.
Sau khi nắn xong đem phới 2- 3 nắng là khô đốt cháy rất bền bỉ đến khi hết mới thôi. Để làm đồ cắm rọi, ngoại tôi nắn cục đất khối vuông, hình chữ nhật, hình thang có chứa lỗ ở giữa.
Mỗi đêm chỉ cần khoảng 10 cây là đủ cho cả nhà xài. Lúc còn nhỏ, chị em chúng tôi đêm đêm học bài cũng nhờ ánh sáng từ những cây rọi mù u của ngoại.
Đó là trò chơi các trẻ nhỏ nông thôn. Nhựa cây mù u thì chúng tôi làm dụng cụ bắt ve sầu. Lấy nhựa cây mù u rất đơn giản, chỉ cần dùng dao chặt một vết phần phần da cây, chờ khoảng 10 phút, nhựa chảy ra, dùng cọng lá dừa quẹt một chút nhựa, gắn cọng dừa vào dầu cây trúc, vậy là đã được dụng cụ bắt ve. Những chú ve sầu mãi kêu gọi bạn, chúng tôi nhè nhẹ chấm đầu cọng dừa có nhựa mù u vào cánh ve, thế là chúng khó thoát...]
                                         [Cây mù u và tuổi thơ tôi - Nguyên Hạnh]

- Hồi nhỏ thì tôi dùng nhựa mù u, để chấm bắt chuồn chuồn, rồi dùng chuồn chuồn cắn rún mình để cho biết bơi vì bị người lớn "dụ" rằng cho nó cắn rún thì sẽ bơi được. Ôi đau và bị uống nước!

Thò tay ngắt trái mồng tơi
Bậu thoa môi tím nhìn tôi bậu cười
Chuồn chuồn cắn rún tập bơi
Trên bờ dừa nước bậu cười dòn tan
 (Môi Tím Mồng Tơi - Nguyên Lạc)

6. Cây Sứ cùi

Trong bài thơ TRUYỆN TÌNH VÙNG U MINH ở dưới có nói cô gái nép dựa  bên cây Sứ cùi, nên xin giải thích sư lược về cây hoa này.
Đại cương :
Cây sứ cùi thuộc họ trúc đào Apocynacesae, có tên khoa học là Plumeria, cây có nguồn gốc từ Mehico, Trung Mỹ.
Cây Sứ cùi: tiếng Anh Frangipani, Pháp gọi Frangipanier tên khoa học Plumeria rubra, họ Apocynaceae (Trúc Đào) đã trở nên là một cây ở tư gia của Châu Mỹ nhiệt đới và Châu Phi Trồng để trang trí vì có hoa đẹp, có lá xanh tươi gần như quanh năm.
Theo Giáo sư Phạm Hoàng Hộ (1993), ở Việt Nam có 3 loài thuộc chi Plumeria được gây trồng nhiều nơi. Đó là loài Plumeria alba – Sứ cùi, Đại trắng; loài Plumeria obtusa – Sứ (Đại) lá tù; và Plumeria rubra – Sứ (Đại) đỏ. Trong số đó, Plumeria rubra có 4 dạng khác nhau: (1) dạng hoa trắng tâm vàng, đôi khi phớt hồng – P. rubra form. acutifolia, (2) dạng hoa vàng, đôi khi phớt hồng – P. rubra form. lutea, (3) dạng hoa đỏ, tâm vàng – P. rubra form. rubra và dạng hoa trắng, bìa hồng, tâm vàng – P. rubra form. tricolor.
Cây Sứ Frangipani - Plumeria rubra L.cv. Acutifolia gồm nhiều loại như là cây màu trắng, màu đỏ. Loài Sứ, phát triển lan rộng nhờ hệ thống cây trồng. Đồng thời cũng là nguồn gốc của nhiều giống lai và giống trồng. Cây Sứ Cùi còn có tên gọi khác là Cây Sứ Đại, Cây Sứ Ấn Độ...
Lá tập trung ở đầu cành, lá rụng hết vào mùa đông, để lại nhiều sẹo to, trên đều cành trụi lũi giống như bàn tay cùi nên được gọi là sứ cùi, có người cho là xấu nên được gọi là cây đại. Cây sứ rất siêng hoa, nở gần như quanh năm. Cành hoa trên một cuống mập dài, thân ra nhiều nhánh hoa nhỏ. Hoa tập trung ở đỉnh, màu đỏ tím. Vào mùa đông, lá rụng hết, trên cây còn lại toàn hoa nở đầy cành đỏ rực, làm cảnh hay trang trí rất đẹp.
Cây rất dễ trồng bằng giâm cành, ít tưới nước, úng nước cây sẽ thối chết, nhưng khi sống mạnh cây cần nhiều nước.  Cây được biết đến nhờ sự chịu đựng một thời gian dài hạn hán. Một cây thiếu nước sẽ rụng lá, thân cây nhăn nhún nhưng cây vẫn tiếp tục sống và trở lại bình thường nếu được tưới ở lần đầu.

     
                             (Hình Sứ vàng)

Tại sao gọi là Sứ cùi?

Tại Việt Nam, tên gọi cây Sứ cùi, theo hình dạng của cây, giống như tay chân của người bị bệnh cùi, và cũng để phân biệt với những giống cây Sứ khác như Sứ ngọc lan, Sứ chúa 
Vì cây Sứ cùi mỗi lần rụng lá đổi mùa, các cành cây hình trụ đầu tròn, chu chú vài chồi lá nhỏ trông tựa ngón tay của người mắc bệnh phong hủi (bệnh cùi). Cách gọi này là một lối so sánh đối chứng, xem đây là một loài cây có hoa thơm như hoa Sứ (Michelia champaca) nhưng cành nhánh bị cùi hủi. Cách đặt tên kiểu này cũng tương tự như cách đặt tên của người Australia , họ gọi cây Sứ cùi là “dead man’s fingers tree” (cây ngón tay người chết).
                                                                                                 
Thực vật và môi trường :

Cây Sứ Frangipanier là một cây tiểu mộc nhỏ, lá rụng, khoảng 3 đến 7 m chiều cao, thân cây cong queo, bên ngoài thân láng và bóng, thân thịt mềm , với những chất dính dồi dào, có mủ trắng.
Thân cây tròn mập, phân cành nhánh nhiều, dài, khẳng khiu cong queo, xù xì. Ví thế, Tán cây Sứ Cùi rộng và dày. Vỏ cây có màu trắng xám và có nhiều sẹo trên thân do rụng lá để lại, cây có nhựa mủ.Gổ trắng ngà hơi vàng và mềm.
Những nhánh rậm nhiều, dày thịt, phù lên và ửng màu xanh lá cây ở những điểm.
Lá cây Sứ Cùi thuôn dài có hình bầu dục, rộng ở giữa và hẹp lại ở cả 2 đầu. Lá có màu xanh bóng, nhẵn ở mặt trên, lớp lông mịn cùng với gân chính màu trắng nằm ở mặt và các gân viền ở mép nổi rõ ở mặt dưới lá. Lá xếp sát nhau thành vòng ở ngọn cành, khi rụng để lại sẹo lớn ở cành.
Cây sứ cùi là cây bóng mát có hoa đẹp. Cây sứ cùi có nhiều loại khác nhau; tuy nhiên những loại đang được ưa chuộng hiện nay bao gồm: cây sứ hoa trắng; cây sứ hoa vàng; cây sứ hoa hồng.
Cây có lá to và tán lá rộng. Vì thế thường trồng làm cây bóng mát, tạo cảnh quan cho đô thị, các khu công nghiệp, công viên cây xanh, các khu di tích.Không chỉ vậy, cây sứ đại còn có hoa đẹp và có mùi thơm dịu nên được nhiều người chọn trồng để tạo cảnh quan sân vườn đem lại cho con người ta cảm giác an nhiên.Bởi vì hình dáng cây độc đáo, có nhiều cành nhánh tạo vẻ cổ kính nên cây sứ đại được trồng khá nhiều trong các đình, đền, lăng, tẩm để tăng thêm vẻ trang nghiêm cho những nơi này.

Công dụng
-- Sứ cùi thường được trồng ở các đền đài, và dùng hoa của nó để thờ cúng. Nicaragua và Lào là hai nước lấy cây Sứ cùi làm quốc hoa, ở đó nó được gọi với cái tên là Sacuajoche ( Nicaragua ) và Champa (Lào). Sứ cùi có tên tiếng Anh là frangipani, xuất phát từ tên dòng họ Frangipani của một gia đình hầu tước đã nghĩ ra cách tạo một loại nước hoa có mùi của hoa Sứ cùi.
-- Cây sứ cùi còn có tác dụng chữa bệnh như một cây thuốc thảo dược, theo y học dân gian, điều trị nhiều bệnh như:  Nhuận tràng, xổ ra giun. Hoa của cây sứ đại có thể trị sốt, chữa ho và tiêu đờm. Lá của cây sứ đại còn có thể nấu thành cao, đắp vào chỗ da bị trầy chảy máu sẽ giúp cầm máu và vết thương sẽ mau lành.
Hoa của các loài trong chi Plumeria thường được dùng trong các trường hợp:  Phòng say nóng; Chữa viêm ruột, lỵ; Trị chứng khó tiêu, kém hấp thu ở trẻ em;  Chữa nhiểm khuẩn viêm gan; Chữa viêm phế quản, ho…
Nhựa cũng được dùng như vỏ, chữa chai chân, sưng tấy, mụt nhọt. Lá cũng được dùng chữa bong gân, sai khớp, mụn nhọt. Nhiều người còn dùng vỏ cây ngâm rượu để ngậm chữa chứng nhức răng do viêm lợi.
                                                                         (Theo Đỗ Xuân Cẩm)

(Còn tiếp phần II: Chuyện Tình)
                                                                                         NGUYÊN LẠC