CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 30 tháng 11, 2023

HIÊN CÚC VÀNG - TRẦN HŨU NGƯ

 



Tôi vừa được biết Nguyễn Đình Thư báo tin ba anh là nhà văn Nguyễn Đình Toàn vừa mới qua đời 28.11.2023 tại Mỹ (1936-2023).
Tôi thương tiếc ông vô cùng.
Thành kính phân ưu.
Thành kính chia buồn cùng tang quyến.
Tôi đăng lại bài này như một nén nhang tiễn đưa ông ra đi nhìn trùng xa cách!

HIÊN CÚC VÀNG

Tôi đắn đo mãi… và rồi, cuối cùng tôi quyết định viết về Nguyễn Đình Toàn. Tôi không có khả năng bình luận thơ văn của ông, nhưng với một sự cảm nhận, cùng nỗi đam mê âm nhạc, tôi, với vốn từ ngữ quá ít, nhưng cũng xin mạo muội viết mấy dòng về CD “Hiên cúc vàng” của ông.
Những ngày trước 1975, tôi đã từng đọc sách, thơ văn, đặc biệt những truyện ngắn như: Tro than, Mùa xuân trên sông… của ông và đọc ông, để rồi tôi đâm ra ngưỡng mộ ông lúc nào không hay! Ông có những những đoản văn khó mà ai viết sánh kịp, cho nên Đài Phát thanh Saigon đã từng chọn những bài của ông để đọc cho thính giả nghe. Đây là một hân hạnh mà không phải nhà văn nào cũng có được. Ông sinh năm 1936, tại Gia Lâm thuộc tỉnh Bắc Ninh và di cư vào Nam năm 1954.
Có lần trong bài viết của mình, tôi gởi xin phép xuất bản sách, tôi viết chữ “di cư” này mà các Biên tập viên kiểm duyệt đã gạch bỏ, hình như họ rất “dị ứng” chữ “di cư”. Tôi đặt câu hỏi: Những người miền Bắc vào Nam năm 1954 sinh sống thì không gọi là di cư thì gọi bằng cái gì? Tháo chạy, di tản, hay bỏ quê hương?
Phải công bằng mà nói, những văn nghệ sĩ miền Bắc di cư vào Nam đã đóng góp một phần rất lớn cho nền Văn học Nghệ thuật miền Nam trước 1975. Nói thế, cũng không có nghĩa là phụ lòng những văn nghệ sĩ đích thực miền Nam.
Sau 1975, Nguyễn Đình Toàn “di cư” ra nước ngoài. Đây là cuộc di cư lần thứ hai của ông, và là cuộc di cư cuối cùng, hay ông vẫn còn đau đáu một ngày nào đó ông sẽ hồi cư? Ông đã viết “Mai tôi đi”, rồi “Nếu mai ngày”, chứng tỏ rằng ông không bội bạc quê hương, không hờn giận cuộc đời.
Một người đã nổi tiếng viết văn, làm thơ, vậy mà Nguyễn Đình Toàn ra nước ngoài thêm một nghề nữa: Nhạc sĩ. Tôi biết ông qua CD “Hiên cúc vàng” (1999), “Tôi muốn nói với em” (2001), “Mưa trên cây Hoàng Lan” (2002) và năm 1970 ông đã đọc lời giới thiệu “Tình ca Việt Nam”.
Những tháng ngày lang thang trên đường Huỳnh Thúc Kháng vào những năm CD chép từ Trung Quốc bán tràn lan (từ những năm 1994)… Nơi đây tôi đã bắt gặp rất nhiều bài hát của những thời xa xưa. Và hình như ngày ấy, tôi “bất cần thân thể” có bao nhiêu tiền lao vào mua dĩa nhạc! Mê nhạc như tôi, khó có ai… theo kịp? Đem về chất đống, nghe dần, nghe dần… Cho đến một hôn, không còn dĩa nhạc cũ nào nữa để mà mua nữa. Có người trách tôi, nhạc trên mạng đầy, nuốn nghe bài nào cũng có, sao mua chi cho tốn tiền? Vâng, nghe nhạc còn phải nghe tiếng là Bass, Treble… nó mới ra nhạc chứ? Mặc dù ngày nay băng cối đã được “phục hồi”, nhưng cũng không thể bỏ CD được.
Trở lại Nguyễn Đình Toàn. Trong ba CD như đã nói ở trên, tôi chú ý để rồi mê CD “Hiên cúc vàng”, và tôi cũng đã làm một việc “không công” là giới thiệu nhiều người mua CD này. Lúc mua CD “Hiên cúc vàng” nhìn thấy tên Nguyễn Đình Toàn tôi không tin mấy, nhưng vì tò mò, cũng vì ông là nhà thơ nhà văn… sao lại chuyển sang sáng tác nhạc? Nhưng trong CD này Khánh Ly hát, thì (xin lỗi ông Nguyễn Đình Toàn) tôi tin. Và quả thật, “Hiên Cúc vàng”, một hiện tượng hiếm có trong những bài hát sáng tác ở nước ngoài nói riêng và trong nước sau 1975 nói chung. (Tôi có một người cháu suốt ngày nghe nhạc tào lao, vậy mà khi nghe “Hiên cúc vàng” nó bảo tôi chỉ chỗ nằng nặc đi mua ngay, sợ hết. Tôi gởi biếu cho ông bạn làm Bác sĩ, sau khi nghe, ông nhắn tôi mua giùm ông 20 dĩa nữa để biếu bạn bè! Vậy mà có nhà sản xuất âm nhạc than rằng làm CD dạo này ế quá, nhạc dở ế là phải!).
“Hiên cúc vàng”, nhạc không mới, nhưng ông dùng chữ quá mới và lạ, chính chỗ “dùng chữ quá mới, lạ” này mà nhạc ông kéo theo những cái mới, lạ khác, làm người nghe không thể bỏ qua CD này, tất nhiên nó không thể thiếu trong “gia tài” âm nhạc của những người đam mê âm nhạc.
Trước một đống nhạc trên kệ, tôi để “Hiên cúc vàng” chỗ dễ thấy nhất, để thỉnh thoảng tôi nghe lại. Mất chừng 70 phút, với 10 bài hát, đã cho tôi “thưởng thức” những đau thương, những chia lìa, những mất mát quá lớn, trong những ngày từ biệt quê hương. Nguyễn Đình Toàn sắp xếp như có chủ đích, bài đầu là “Mai tôi đi”, và kết thúc là “Nụ vàng”. Nghe 10 ca khúc với giọng ca Khánh Ly trong giai điệu Solow, có xen một vài bài Tango, tôi thấy ông là một phù thủy ngôn ngữ, và những nốt nhạc nằm trong trường canh đã được ông khéo léo ngắt đoạn như một nhạc sĩ có tay nghề, ngắt mà không dứt, những ca từ nằm trong “Syncope” làm người nghe không bị hụt hẫng mà chính điều này đã làm bài hát trở nên sinh động hơn.
Ngày trước, người ta thích Nguyễn Đình Toàn vì lối văn, cũng như cách dùng từ của ông. Ngày nay chuyển sang nhạc, cũng chính những con chữ ấy, ông khéo léo sắp vào khuôn trong dạng thức, dù không được tự do như lối hành văn, nhưng không vì thế mà nhạc ông bị gò bó.
“Hiên cúc vàng” là những trăn trở khôn nguôi, những nỗi đau tột cùng, những dằn xé vô biên, những tan rã khó mà hàn gắn, thấy đó mà chia lìa, nắm trong tay nhưng vụt mất, đi với những bước chân xiêu vẹo, hiểm nguy, nhưng cũng phải đi:
“… Mai tôi đi, tôi đi vào sương đen/ Sương rất độc tẩm vào người nỗi chết/ Quê hương ta sống chia dòng vĩnh biệt/ Chảy về đâu những nước mắt đưa tin/… Xin khấn nguyện cả mười phương tám hướng/ Cho quê hương u mê ngày thức tĩnh/ Để dù xa có chết cũng vui mừng/…” (Nhạc Mai tôi đi).
Xa quê hương là nỗi đau không chỉ của những người đã gắng bó với Saigon, mà hầu như những ai sống ở nông thôn, những thứ hằng ngày ít ai để ý nằm đâu đó ở quanh vườn, bờ ao gốc chuối… nhưng khi xa quê, đó là những cái nhớ đầu tiên, làm nhức nhối:
“… Nếu mai ngày những con sâu nằm trong mắt bão/ Anh sống sót trở về/ Em có còn hay em đã ra đi/ Anh cũng xin cám ơn em/ Cám ơn đời đã cho anh thấy lại những ngày tan thương biến đổi đầy vơi/ Áo trách không che hồn tơi tả/ Lối cũ đã thay nhiều cây lá/ Trời đất cũng bơ vơ/ Chiều nhớ vẫn tuôn mưa/ Dòng sông dài vẫn chảy xuôi đẩy đưa/ Khóm liễu bên hiên nhà nghiêng ngã/ Lối cũ đã thay nhiều cây lá/… Thôi nước mắt xin đừng rơi/ Gió rét xin ngừng lay/ Cho người về đã tả tơi này/ Còn một niềm tin cuối đường đắng cay/…” (Nhạc Nếu mai ngày).
Từ bỏ quê hương như xát muối vào lòng, có những người cắn răng chịu đựng, riêng Nguyễn Đình Toàn, ông được thanh thản hơn người khác ở chỗ ông dùng nhạc để giãi bày, đó là những khúc nhạc lòng, một “thú đau thương” và không thấy ông thù ghét ai…
“…Chim ơi chim bay/ Trăng ơi trăng soi/ Chim đau chim có bầy/ Trăng soi trăng có ngày nghỉ ngơi/ Riêng tôi vẫn nhớ (ư) người/…” (Dạ Khúc). “Mưa ơi mưa, mưa từng vực sâu/ Hay mưa rơi từ đỉnh trời đau/ Mưa có mong người sau/ Thương yêu nhau bền lâu/ Thì kiếp này còn gì nữa đâu/” (Mưa khuya). “Đời muôn hướng bơ vơ thôi còn gì mà nuôi ước mơ/ Tình như tháng năm xa đã một ngày chôn sâu lần nữa/ Này em nghe gì không, đêm nhiều khi tối tăm hãi hùng/ Chim bay, chim bay chừng/ Mây trôi, mây trôi dường/ Đỗ về một phương nhớ trong lòng/…” (Nhạc Đường đưa bước em đi).
Một nỗi nhớ quê hương đến xốn xang:
“… Đêm có mây sầu đưa/ Trăng giấu đi tuổi thơ/ Ven con sông dài/ Quê ta thiu ngủ/ Đêm nào đó, ta đứng trông xa ngọn đèn lu thắp trong sương mù dáng ai ngồi co ro/ Như quê hương thu nhỏ/ Để người viễn xứ mang cho vừa/… Trông ra nơi nào cũng thấy quê hương lượn quanh/ Một cơn gió lướt qua nghe lòng tha thiết/ Tưởng như mùi hương vườn cũ bay theo mình/… Thèm miếng khoai ngày đói/… Khi nao ta về tới/ Soi trong gương sầu ấy/ Có còn ta nữa hay là ai/…” (Nhạc Quê hương thu nhỏ).
Và Nguyễn Đình Toàn trong nhạc phẩm “Có bao giờ”, ông đã hỏi: “ …Có bao giờ em trở lại đây/ Đứng dưới trời cao ngửng trông mây/… Đêm thao thức mây đưa/ Đêm rưng rức sao thưa/ Nhìn quanh mình nghe đã lạ/ Ai xa đã xa chưa/ Ai quên đã quên chưa/ Thôi nặng lòng chi nữa/ Có tay nào che nổi trời mưa/…”.




Trong xuyên suốt 10 tình khúc của Nguyễn Đình Toàn, tôi bị ông mê hoặc bởi những đoản khúc mà tôi trích dịch ở trên. Bài kết là “Nụ vàng” như kết thúc một hành trình của một kiếp người:
“… Sớm nay trên cành/ Con chim đau bao ngày/ Chợt lên tiếng hót/ Tiếng chim véo von/ Tiếng chim héo hon/ Đã khâu liền vết thương/… Quê hương ta không còn hận ngăn ghét trói/ Đớn đau sẽ nguôi/ Đói no cũng vui/ Biết buông sầu oán vơi thương đầy/ Nhìn nhau ra người cũng một đời thôi/ Mà máu xương buồn vấy/ Chân em thơ dại và trên đường nơi em qua lại/ Sao lòng chắc không ai đã nằm chết nơi đây dưới mặt đất này/ Để dừng đạp trên mặt người ngủ yên/…”
Tôi không biết viết gì hơn trước những ca từ đẹp lộng lẫy ru từng nốt nhạc, trong cuộc hành trình từ biệt quê hương, mang nỗi đau sâu lắng, trầm tư của một người đi tìm cuộc đời đã mất!


TRẦN HỮU NGƯ
(Saigon, 02.4. 2017, Những ngày xa quê, nhớ quê)

Thứ Tư, 29 tháng 11, 2023

PHIẾM LUẬN VỀ BÀI BÌNH THƠ “TUỆ SĨ” CỦA BÙI GIÁNG - LA THUỴ

 

Tiếc thương Hòa thượng Thiền sư Thích Tuệ Sĩ viên tịch chiều 24.11.2023. Trong niềm suy niệm về Tuệ Sỹ khi Thầy vừa tạ thế, chúng ta hãy cùng thắp nén hương cầu nguyện cho linh thức của Người được siêu thoát.

 


PHIẾM LUẬN VỀ BÀI BÌNH THƠ “TUỆ SĨ” CỦA BÙI GIÁNG


Trong quyển “ĐI VÀO CÕI THƠ”, Bùi Giáng viết về Tuệ Sĩ:
 
“Tuệ Sỹ một vị sư. Ông viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u...
Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông:
 
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
 
Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt. Tôi đề nghị với ông nên nhờ Ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết:
 
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty
 
Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình.
 
Nhưng ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm? Một bài thơ “KHÔNG ĐỀ” của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ”

*
Có lẽ Bùi Giáng là người phát hiện và bình bài thơ KHÔNG ĐỀ này đầu tiên trong tập 1, ĐI VÀO CÕI THƠ.
Thế mà, bỗng dưng bài thơ biến cái tên thành KHUNG TRỜI CŨ và từ ngữ CUNG TRỜI trong bài thơ lại biến thành KHUNG TRỜI.
“Cung trời” như là một cõi trời, một cảnh giới còn “khung trời” chỉ là một không gian bị hạn chế, bị đóng khung…
 

CUNG TRỜI trong Phật giáo được biết qua sáu cõi, đó là:
 
1. Tứ thiên vương thiên.
2. Đao lợi thiên.
3. Dạ ma thiên.
4. Đâu Suất thiên.
5. Hóa Lạc thiên.
6. Tha hóa tự tại thiên.

“cung trời” đã nêu ở trên thuộc về Dục giới. Ngoài ra còn có Tam thanh thiên giới, Phạn Thiên giới, Vô sắc giới, Sắc giới nữa, gồm tất cả 36 cung trời.
 
Xin chỉ đề cập vài CUNG TRỜI nhiều người biết:
 
- Cung Trời Đao Lợi:
Đây là phẩm mở đầu của Kinh Địa Tạng. "Đao Lợi" là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là "tam thập tam", tức là chỉ cõi trời Ba Mươi Ba. Tuy gọi là cõi trời "Ba Mươi Ba", nhưng đó không phải do đếm từ dưới lên trên theo thứ tự, như tầng trời thứ nhất, tầng trời thứ hai, rồi đến tầng trời thứ ba,... cho tới tầng trời thứ ba mươi ba. Cõi trời Ba Mươi Ba này vốn nằm chính giữa, và ở bốn phía đông tây nam bắc của cõi trời này thì mỗi phía lại có tám cõi trời. Do đó, tổng cộng có ba mươi hai cõi trời phân bố chung quanh cõi trời Ba Mươi Ba.
Thiên chủ của cõi trời Ba Mươi Ba là Đế Thích. Trong Kinh A Di Đà có nói đến "Thích Đề Hoàn Nhân", tức là vị Đế Thích này vậy. Ngoài ra, trong Chú Lăng Nghiêm có câu "Nam Mô Nhân Đà La Da", thì Nhân Đà La Da cũng chính là Thiên Chủ Đế Thích. Ở cõi trời thì Đế Thích là một vị Thiên Chủ; còn trong Phật Giáo thì Ngài là một vị Hộ Pháp.
 
- Cung trời Dạ Ma:
Dạ Ma thiên (夜摩天)là tầng trời thứ ba trong sáu tầng trời cõi Dục. Cũng gọi Diệm ma thiên, Viêm ma thiên, Tu viêm thiên, Li tránh thiên, Tô dạ ma thiên (Phạm, Pàli: Suyàma), Tu dạ ma thiên.
Cung trời Dạ Ma là cõi trời này ánh sáng rực rỡ, không chia ngày đêm, người ở cõi trời này lúc nào cũng yên vui sung sướng không thể nghĩ bàn. Hơn nữa, theo luận Chương sở tri quyển thượng nói, thì tầng trời 33 (trời Đao lợi) thường đánh nhau với A tu la, nhưng cõi trời Dạ ma thì xa lìa sự tranh đấu, vì thế gọi là Li tránh thiên. Chúng sinh được sinh vào cõi trời này là nhờ đời trước thích tu các hạnh không giết hại, không trộm cướp, không gian dâm v.v..., tự mình giữ giới, lại khuyên người giữ giới, làm các việc lợi ích cho mình và người. Dạ ma là tầng trời đầu tiên (thấp nhất) trong các cõi trời ở trong hư không
 
- Cung trời Đâu Suất:
Đâu suất thiên  兜率天  thường gọi tắt là Đâu-suất, dịch ra Hán ngữ là Tri-túc thiên  có nghĩa là:
Tusita (skt)—Đâu Suất Đà—Tầng trời Đâu Suất, cõi trời Tri Túc hay cõi Tịnh Độ của Đức Di Lặc, nơi mà chư Bồ Tát tái sanh vào trước khi sanh vào cõi Phật
Cung trời Đâu Suất xuất hiện rất nhiều trong Kinh Quán Di Lặc Bồ tát thượng sanh Đâu Suất
Theo từ điển Phật học Hán Việt của nhà nghiên cứu Đoàn Trung Còn, từ Đâu Suất, Đâu Suất Đà có nghĩa là Tri Túc, Hỷ Túc, Diệu Túc, Thượng Túc.
Trước kia, Đức Thích Ca Mâu Ni chưa thành Phật, thì làm Bồ tát Hộ Minh ngự nơi Cung trời Đâu Suất. Chừng ngài từ giã cung Đâu Suất mà xuống trần làm Phật thì ngài phó chúc lại cho đức Di Lặc, dặn đức Do Lặc kế tiếp ngài nơi cung ấy mà giáo hóa chư Tiên và chư Bồ Tát.
 
- Cung Trời Hóa Lạc:
Hoá lạc thiên (化樂天) Phạm: Nirmàịarati-deva. Dịch âm: Ni ma la thiên, Duy na la nê thiên. Cũng gọi Hóa tự tại thiên, Hóa tự lạc thiên, Bất kiêu lạc thiên, Lạc vô mạn thiên, Vô cống cao thiên, Lạc biến hóa thiên. Tầng trời thứ 5 trong 6 tầng trời cõi Dục, tức là tầng trời ở dưới cõi trời Tha hóa tự tại và ở trên cõi trời Đâu suất. Vì người cõi trời này tự biến hóa ra 5 trần cảnh để vui chơi, cho nên gọi là Hóa tự lạc.
Cung Trời Hóa Lạc thiên cao hơn cung Trời Đâu Suất một bậc. Một ngày ở đây bằng 800 năm ở cõi người, chúng sinh ở đây có thọ mạng trung bình 8000 năm. Thân của chúng sinh ở đây phát sáng. Nam nữ ở đây cười với nhau là nữ thụ thai và trẻ con sinh ra trên đầu gối, nghĩa là hóa sinh, không phải thai sinh. Trẻ con vừa sinh ra đã bằng cỡ trẻ con loài người 12 tuổi.
 
Cung trời này cùng với các cung Dạ ma, Đâu suất, Tha hóa tự tại đều có 3 việc thù thắng hơn cõi Diêm phù đề là: sống lâu, xinh đẹp và vui thú.

*
Trong 2 câu thơ Bùi Giáng làm nối tiếp thơ Tuệ Sĩ:

“Phiêu bồng tâm sự, tân toan lệ,
Trí Hải đa tàm, trúc loạn ty.”

Cụm từ “Trí Hải đa tàm” được hiểu như thế nào đây?

 

- Cách hiểu thứ nhất:

 

“Đa”  nghĩa là “nhiều”

Tàm”  nghĩa là “con tằm / lông mày”

Đa tàm”   nghĩa là “nhiều lông mày”, “lông mày dày, rậm”

 

Trí Hải là tên ni cô được Bùi Giáng nhắc đến hai lần trong lời kể ở trên, nên cụm từ “Trí Hải đa tàm” có thể hiểu là “Trí Hải nhiều lông mày, lông mày Trí Hải dày, đẹp”

 

Đây chỉ là lời đùa cợt cho vui của Bùi Giáng. Mà Bùi Giáng đã từng đùa gọi ni cô Trí Hải là “mẫu thân Phùng Khánh” đó thôi:

“Trí Hải Ni Cô vừa rời bỏ Vạn Hạnh đi tu tiên ở trên núi. Nguyên nhân là: các vị sư ở Vạn Hạnh chế ni cô đã đẻ ra Bùi Giáng già nua, ni cô bẽn lẽn bèn giũ áo ra đi.

Sự tình nông nỗi ấy, Thích Minh Châu phải chịu trách nhiệm một phần lớn.

Phùng Khánh là bà mẹ loài người. Tôi là con người. Vậy Phùng Khánh là mẹ của tôi. Nếu tôi không phải là con của Phùng Khánh, thì chẳng ra tôi chẳng phải con người? Chẳng ra tôi là con vật?

Phân tích nghiêm mật luận lý học ra như thế, rành rành Phùng Khánh là mẹ của tôi.

Huống nữa là: trong cõi mộng mơ chiêm bao tại bình diện thi nhạc phiêu bồng, Phùng Khánh đích nhiên cũng lại là mẹ của tôi nốt. Tôi vốn là Trung Niên Thy Sỹ.

Ai đâu có ngờ rằng những bài thơ bất tử tôi làm ra là do Phùng Khánh cả đấy?

Mỗi phen tôi mơ màng nghĩ tới dung nhan diễm lệ Phùng Khánh thì giòng thơ bát ngát lại tuôn ra ào ào. Vậy thì hiển nhiên như nhiên thiên tài của tôi là do liên tồn Phùng Khánh đẻ ra vậy.

Tôi suy ngẫm suốt bao nhiêu năm trời, nhận ra sự tình cố kỳ nhiên đó, mới dám mạo muội mạnh bạo gọi Phùng Khánh bằng một tiếng Mẫu Thân. Há đâu dám bốc đồng mà gọi bướng!”

                        (Trích: Bùi Giáng Thi Ca Tư Tưởng - Saigon 1969)


Cho nên, 2 câu thơ
“Phiêu bồng tâm sự, tân toan lệ,
Trí Hải đa tàm, trúc loạn ty.”

Trí Hải viết hoa, tức là ám chỉ tên của ni cô.

 

Có thể hiểu là:

“Nỗi lòng xôn xao nước mắt chua cay rơi
Nhìn đôi mày đẹp của Trí Hải làm tâm hồn rối như tơ.”
Tâm sự lâng lâng, dòng lệ chua cay
Trí Hải mày tằm, trúc rối như tơ

Phải chăng “Trí Hải đa tàm”, Trí Hải mày tằm với nhan sắc như thế đã lắm phen làm Bùi Giáng “mơ màng nghĩ tới dung nhan diễm lệ Phùng Khánh thì giòng thơ bát ngát lại tuôn ra ào ào”.

 

 - Cách hiểu thứ hai:

TÀM  nghĩa là hổ thẹn

Trí hải 智海 nghĩa là “biển trí”

Đa tàm多慚  nghĩa là hổ thẹn nhiều (trước, với)

“Trí hải đa tàm” nghĩa là “hổ thẹn nhiều trước biển trí”

 

Câu “trí hải đa tàm trúc loạn ty” có thể hiểu là “Biển học mông mênh (trí hải) làm thẹn lòng rất nhiều vì đầu óc mình không minh mẫn (rối loạn)”

 

Trở lại 2 câu thơ đầu của Tuệ Sĩ

“Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
 Hiện tiền vi liễu lạc hoa phi”
Tuệ Sĩ đang nói về triết lý Nghiệp / Karma. Nghiệp thiện ác đã gieo, bây giờ (hiện tiền) tác giả bâng khuâng với “bóng nghiệp” nên trước mắt còn thấy liễu rớt hoa bay.
 
Nên hai câu thơ:

“Phiêu bồng tâm sự, tân toan lệ,

Trí hải đa tàm, trúc loạn ty.”

Có nghĩa:
 
Tâm sự bâng khuâng, dòng lệ chua cay
Hổ thẹn với ‘biển trí’ (vì chưa ngộ được), rừng trúc rối như tơ.

Hiểu như vậy thì bài tứ tuyệt “Vô đề” ý mới liền mạch được.
Quý bạn nghiêng về cách giải thích nào nhỉ!

*
Xin dẫn những bài thơ có dùng chữ Đa tàm 多慚  (nghĩa là hổ thẹn nhiều)
 
Thơ Trần Tung:

Đa tàm thân trọc phùng thời trọc,

Tiểu tại tâm thanh ngộ quốc thanh.

                           (Thoái cư-Ẩn cư) 

Dịch:

Thân đục thẹn sinh thời buổi đục,

Lòng trong may gặp nước nhà trong.

Thơ Kiều Nguyên Lãng:

Thượng quốc ân thâm tình dị cảm,

Tiểu bang tục bạc lễ đa tàm.

               (Tống Bắc sứ Ma Hợp)

 Có nghĩa:

Ơn thượng quốc sâu sắc dễ cảm tình người,

Phong tục nước nhỏ đơn giản, thẹn lễ nghi có phần sơ suất. 

Thơ Trần Nhân Tông:

Nhất thị đồng nhân thiên tử đức.
Sinh vô bổ thế trượng phu tàm.
(Họa Kiều Nguyên Lãng Vận)

Có nghĩa:

Thương yêu mọi người như nhau là đức của Vua,
Sống mà không giúp ích gì cho đời là điều đáng thẹn của kẻ trượng phu.
 
Bùi Giáng viết nhiều tùy bút văn học, đặc biệt là tùy bút về thi ca.
Thơ của các thi sĩ được Bùi Giáng cảm nhận theo một phong cách riêng “rất Bùi Giáng” thật dí dõm. Tuệ Sĩ là nhà thơ đầu tiên được Bùi Giáng bình thơ trong tập ĐI VÀO CÕI THƠ. Bùi Giáng viết cảm nhận thơ như người bạn tri âm đồng điệu và bài TUỆ SĨ của ông để lại những “dư vang nghệ thuật” trong lòng người đọc.


                           LA THUỴ

                                                                                    

Thứ Ba, 28 tháng 11, 2023

TIỄN NGƯỜI - THƠ TỪ KẾ TƯỜNG, NHẠC NHÃ THANH



                         



TIỄN NGƯỜI
Người nhẹ không như lá
Bay vào cõi sương sầu
Một ngày mây trắng quá
Vô ảnh đến ngàn sau
Áo chân như tan biến
Lời kệ đẵm vào thơ
Đường không đi không đến
Tâm hướng vọng vô bờ
Hôm qua đài sen trắng
Còn thả bóng mỏng manh
Chuông ngân vào nguyệt lạnh
Gửi nhân gian thơm lành
Ôi tiếng đàn mộng ảo
Bản sô nát ánh trăng
Như bước người đi dạo
Bỏ lại một lần chăng?
Tiễn người về xanh thẳm
Rừng núi lộng mây ngàn
Tay phù hư cõi tạm
Ta che nắng mưa tan


(Bến Lặng 24-11-2023)
TỪ KẾ TƯỜNG