CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 30 tháng 6, 2023

ĐẪM GIỌT THU - THƠ THY LỆ TRANG

 




ĐẪM GIỌT THU
Thể Thuận Nghịch Độc

Đọc Thuận
Sân ngập lá vàng trăng nhớ thu
Dáng mờ xa khuất đỉnh sương mù
Vân du mộng huyễn tình say đắm
Điện vỡ đêm tàn Nguyệt nhạt lu
Ngân khẽ tiêu xưa hồn lắng đọng
Thả thầm thơ cũ điệu buồn ru
Nhân tâm biến loạn đời dâu bể
Chân vướng thêm sầu đẫm giọt thu!


Đọc Nghịch
Thu giọt đẫm sẩu thêm vướng chân!
Bể dâu đời loạn biến nhân tâm
Ru buồn điệu cũ thơ thầm thả
Đọng lắng hồn xưa tiêu khẽ ngân
Lu nhạt Nguyệt tàn đêm vỡ điện
Đắm say tình huyễn mộng du vân
Mù sương đỉnh khuất xa mờ dáng
Thu nhớ trăng vàng lá ngập sân


THY LỆ TRANG


Thứ Năm, 29 tháng 6, 2023

TẠP GHI & PHIẾM LUẬN : CHỮ AN - ĐỖ CHIÊU ĐỨC




Tạp Ghi và Phiếm Luận :  
                                       
                                     Chữ   AN 
                        

        AN 安 là YÊN, YÊN là Yên Ổn, Yên Bình mà ta thường nói thành Bình Yên, mà Bình Yên là do chữ Nho BÌNH AN 平安 mà ra. Theo "CHỮ NHO...  DỄ HỌC" thì AN thuộc dạng chữ Hội Ý, có diễn tiến của chữ viết như sau :

               Giáp Cốt Văn     Kim Văn        Đại Triện        Tiểu Triện        Lệ Thư



Ta thấy :
            Chữ AN 安 có bộ MIÊN 宀 là cái nóc nhà có hai mái đàng hoàng ở phía trên, bên dưới là chữ NỮ 女 là cô con gái; với Hội ý là "Cô gái mà ngồi ở trong nhà thìsẽ không bị bắt nạt, là biểu thị của sự an toàn, yên ổn. Nên AN có nghĩa gốc là YÊN, và các nghĩa phát sinh như sau :

     * AN 安 là Yên. Như : An Tâm 安心, An Nhàn 安閒, An Toàn 安全, An Thân 安身...
     * AN 安 là Làm cho yên. Như : An Ủy 安慰 (An Ủi), An Dân 安民 là làm cho dân chúng sống được yên ổn.
     * AN 安 là cảm thấy yên. Như : Tâm An 心安 là Trong lòng yên ổn, không lo sợ; An Cư 安居 là Sống Yên ổn không lo lắng...
     * AN 安 là không nguy hiễm. Như : Bình An 平安, Chuyển Nguy Thành An 轉危為安 là Xoay chuyển cho từ nguy hiễm đến an toàn. Ta còn có thành ngữ : CƯ AN TƯ NGUY 居安思危 Có nghĩa : Ở nơi An toàn luôn phải nghĩ đến lúc có Nguy hiễm, chớ không được ỷ y  xem thường . Đây cũng là bốn chữ hiện diện trên phù hiệu của trường Võ Bị Thủ Đức để cảnh giác "Lúc cảm thấy  an toàn nhất cũng phải đề phòng sự nguy hiễm đang rình rập đâu đây. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ : Tả truyện 左傳: "Cư an tư nguy, tư tắc hữu bị, hữu bị vô hoạn 居安思危, 思則有備, 有備無患 (Tương Công thập nhất niên 襄公十一年). Có nghĩa : Đương lúc ở yên thì phải nghĩ đến lúc nguy cấp, nghĩ thì phải có phòng bị, mà có phòng bị thì sẽ không lo lắng.



     * AN 安 là đặt để. Như : An Trí 安置; An Táng 安葬...
     * AN 安 là sắp xếp sẵn . Như : An Bài 安排; An Vị 安位 ...
     * AN 安 là Nghi vấn tự. Như : An Năng 安能? là Làm sao có thể ?... An Tại 安在? là Ở đâu?... An Đắc 安得 ?  Làm sao để có được ?...
       Bài thơ thất ngôn cổ thi Tẩy Binh Mã 洗兵馬 (Rửa khí giới quân đội) của Thi Thánh Đỗ Phủ có 2 câu kết là : 

               安得壯士挽天河,     AN ĐẮC tráng sĩ vãn thiên hà;
               淨洗甲兵長不用.     Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng. 
Có nghĩa :
        - Làm Sao Để Có Được một tráng sĩ kéo nước trên sông Ngân Hà xuống, để...
        - Rửa sạch hết các giáp binh khí giới rồi vĩnh viễn không dùng tới nữa !

      Hai câu thơ trên của Đỗ Phủ đã được danh tướng Đặng Dung 鄧 容 đời Trần của ta mượn ý trong bài thơ THUẬT HOÀI 述懷 rất nổi tiếng của ông là :

               世事悠悠奈老何      Thế sự du du nại lão hà !
               無窮天地入酣歌      Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
               時來屠釣成功易      Thời lai đồ điếu thành công dị,
               運去英雄飲恨多      Vận khứ anh hùng ẩm hận đa. 
               致主有懷扶地軸      Trí chúa hữu hoài phù địa trục,
               洗兵無路挽天河      Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.        
               國讎未報頭先白      Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
               幾度龍泉戴月磨      Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma !              
Có nghĩa :
                 Thế sự dằng dai đã lão rồi,
                 Đất trời say khước hát ca chơi.
                 Có thời câu cá thành công dễ,
                 Hết vận anh hùng nuốt hận thôi.
                 Giúp chúa những mong xoay đại cuộc,
                 Bãi binh còn muốn kéo sông trời.
                 Quốc thù chưa báo đầu đà bạc,
                 Mài mãi Long Tuyền dạ chẳng nguôi !  
 
 Hai câu 5 và 6 có nghĩa :           
        - Giúp chúa lòng những muốn xoay lại trục của trái đất (xoay lại đại cuộc),
        - Muốn rửa sạch giáp binh (muốn chấm dứt chiến tranh) nhưng không có đường để kéo nước trên sông Ngân Hà xuống (ý nói Đành bất lực!).    



      Sống trên đời, trước tiên là ai cũng muốn được yên thân, vì thân có yên thì tâm mới yên; Thân An tâm tắc An, mà TÂM AN thì LÝ ĐẮC. TÂM AN LÝ ĐẮC 心安理得 là thành ngữ chỉ : Lòng có yên, có bình thản, thì lý lẽ cũng sẽ vững vàng chắc chắn hơn ! Cho nên, gặp bất cứ việc gì trước tiên là phải giữ cho lòng được yên tĩnh rồi mới tính chuyện giải quyết sau.

     Chữ AN là YÊN, nghe như đơn giản, nhưng lại hiện diện trong tất cả các mặt của đời sống con người, kể cả những người bình dị, chất phác nhất, cho đến các hiền nhân quân tử, anh hùng hảo hán, chí đến những vua chúa đế vương... đều không thể xa rời chữ AN được !

      Người bình dân chất phác thì chỉ cầu mong cho có được một cuộc sống an bình yên vui, theo như câu nói của ông bà xưa để lại :

                  隨感而應, Tùy cảm nhi ứng,
                  隨遇而安.   Tùy ngộ nhi AN.
Có nghĩa :
          - Tùy theo cái cảm xúc của mình mà ứng tiếng hành xử, và...
          - Tùy theo cái hoàn cảnh mà mình đang có để sống cho yên thân. Ý là ...

      Sống tự nhiên vui vẻ theo cảnh ngô trước mắt, không đòi hỏi cao xa, không ước mơ những điều qúa tầm tay với  của mình theo như câu thành ngữ :

                  安份守常   AN phận thủ thường,
Có nghĩa :
         - Phải biết sống yên ổn với cái thân phận vốn có của mình mà giữ lấy cái nếp sống bình thường nầy. 
      Ta gọi là AN PHẬN THỦ THƯỜNG chớ người Hoa gọi là AN PHẬN THỦ KỶ 安份守己. Đây là Tập quán Ngôn ngữ, là thói quen của mọi tiếng nói, Tuy có khác nhau một chữ nhưng tựu trung thì ý nghĩa cũng "xem-xem" như nhau mà thôi. AN PHẬN THỦ KỶ là giữ lấy cái thân phận của mình mà sống, và có như thế thì mới AN CƯ LẠC NGHIỆP 安居樂業 được !
        AN CƯ LẠC NGHIỆP là sống yên ổn và vui với cái nghề nghiệp vốn có của mình ! Không đứng núi nầy trông núi nọ, không so bì với người khác, không cầu mong có được những của hoạnh tài như cờ bạc, trúng đề, trúng số...             
                  
       Nếu biết sống AN CƯ LẠC NGHIỆP thì khi về già sẽ có cuộc sống AN NHÀN TỰ TẠI 安閒自在. AN NHÀN là Yên ổn nhàn nhã; TỰ TẠI là Tự do tự tại,không bị gò bó trói buộc gì cả ! Đây là đời sống của những người hưu trí thảnh thơi, không còn biết đến tranh danh đoạt lợi gì nữa cả ! Như đời sống của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm vậy :

                    Một mai một cuốc một cần câu,
                    Thơ thẩn vào ra vui thú nào.
                    Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
                    Người khôn người đến chốn lao xao !...


       
       "Đến chốn lao xao" là đến chỗ đông người, đến những nơi thị thành chợ búa đông đảo để bon chen, để tìm lợi danh tiền bạc như người đời thường nói :

                  鬧裡有錢,  Náo lí hữu tiền,
                  靜處安身。  Tịnh xứ an thân.
      Có nghĩa :
               - Ở nơi náo nhiệt nhộn nhịp thì có tiền, còn...
               - Ở nơi vắng vẻ yên tịnh thì được yên thân.

       Nhưng trước khi muốn yên thân thì con người ta thường phải bươn chải để kiếm sống, để làm giàu, nên vẫn thích ở nơi thị thành náo nhiệt hơn. Vì ai cũng có tính háo thắng, cũng muốn tranh danh đoạt lợi, thậm chí tranh quyền đoạt vị, mưu cầu quan tước, và nếu thời cơ thuận lợi đưa đẩy còn có thể tranh bá đồ vương để thi thố tài năng AN BANG TẾ THẾ 安邦濟世.
      AN BANG TẾ THẾ hay TẾ THẾ AN BANG 濟世安邦 có xuất xứ từ "Cửu Thế Đồng Đường" của Vô Danh Thị đời nhà Nguyên 元·無名氏《九世同堂》:...Tế thế an bang sách, án lục thao tam lược thư 濟世安邦策,按六韜三略書。Có nghĩa :... cứu giúp người đời và làm cho nước nhà ổn định, theo sách nói về Lục Thao Tam Lược". Nên muốn AN BANG TẾ THẾ thì phải là người có tài thao lược, có tài trị nước an dân, phải là những bậc vua chúa ngày xưa hay là những Thủ Tướng, Tổng Thống, Chủ Tịch nước... của ngày hôm nay mới có tài AN BANG ĐỊNH QUỐC 安邦定國 là giúp cho đất nước được yên ổn vững vàng.



       Người có tài AN BANG ĐỊNH QUỐC cũng là người có tài làm cho người khác được AN CƯ LẠC NGHIỆP. Theo chương Công Dã Tràng trong sách Luận Ngữ 《論語·公冶長》, Khi Thầy Tử Lộ hỏi về chính sách an dân thì... Tử viết : "Lão giả an chi, bằng hữu tín chi, thiếu giả hoài chi 子曰:老者安之,朋友信之,少者怀之。" Có nghĩa : Khổng Tử nói rằng :"Người già thì được sống an nhàn, bạn bè thì tin tưởng nhau, còn trẻ nhỏ thì được quan tâm chăm sóc". Câu nói trên chứng tỏ chí hướng của Khổng Tử rất cao xa và rộng mở, luôn lấy Nhân Từ và Tín Nghĩa làm đầu; Đây cũng là mục tiêu phấn đấu tu dưỡng của người quân tử trong đạo Nho và cũng là chính sách nhân từ đòi hỏi phải có của các bậc vương hầu, là giai cấp thống trị ngày xưa. 
      Ta thấy câu nói trên đây của Khổng Tử đã hơn hai ngàn năm trước, nhưng có hơi hám của "Xã Hội Chủ Nghĩa" là :"...Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng... Người già và trẻ nhỏ không làm nhưng cũng được hưởng...". Nhưng, "Xã Hội Chủ Nghĩa" không làm được những điều đã nói. Trái lại, chính sách về "AN SINH XÃ HỘI" của Mỹ lại làm rất tốt vấn đề xã hội nầy. AN SINH 安生 là Sống một cách An Ổn Yên Lành. Trẻ nhỏ được hưởng chính sách giáo dục miễn phí cho 2 bậc Tiểu học và Trung học, còn có xe đưa đón và trợ cấp ăn trưa trong trường học nữa. Người già thì ngoài tiền hưu trí ra, còn có tiền An Sinh Xã Hội (SSI), tiền trợ cấp thực phẩm (Food stamps), tiền trợ cấp y phí (Medicare)...

      Tăng Quảng Hiền Văn có câu :

                  黃金未為貴,   Hoàng kim vị vi qúy,
                  安樂值錢多。   AN LẠC trị tiền đa.
Có nghĩa :
              - Vàng ròng chưa chắc đã là qúy giá, chớ...
              - Sự YÊN VUI mới đáng giá nhiều tiền... 
 Ý là :
          Có nhiều vàng nhiều tiền, giàu sang phú qúy chưa chắc đã là qúy giá; Sống yên vui hạnh phúc, không bệnh tật lo lắng mới đáng giá ngàn vàng. Vì thế, nên lại có câu khuyên ta rằng :

                 君子安貧,   Quân Tử An Bần,
                 達人知命。   Đạt nhân tri mệnh.
Có nghĩa :
            - Người quân tử sống yên thân với cái nghèo của mình, cũng như...
            - Người thành đạt thì nên biết mạng trời (mà không đòi hỏi gì thêm nữa!)


      Câu nói trên đây có xuất xứ từ bài "Đằng Vương Các Tự 滕王閣序" nổi tiếng của người đứng đầu "Sơ Đường Tứ Kiệt" là Vương Bột 王勃. Câu ĐẠT NHÂN TRI MỆNH 達人知命 còn có nghĩa là : Người thông tình đạt lý là người hiểu rõ mệnh trời, nên không oán trách và đòi hỏi gì thêm nữa mà phải biết yên thân, như câu :

               富貴定要安本分,  Phú qúy định yếu an bổn phận,
               貧窮不必枉思量。  Bần cùng bất tất uổng tư lương.
Có nghĩa :
        - Đã giàu sang phú qúy rồi thì nên yên với cái phước phần vốn có của mình đi; Còn bần cùng nghèo khổ thì cũng phải biết thân biết phận của mình mà đừng có lo buồn nghĩ ngợi làm gì cho vô ích !
       Nói thì nói thế, chớ nghèo khổ thì ai mà chịu chấp nhận bao giờ; phải "tận nhân lực 盡人力" rồi mới "tri thiên mệnh 知天命" chớ. Tức là : Phải cố gắng làm hết sức mình rồi mới biết mệnh trời ra sao !
     Nói chung, 
         Chữ AN là YÊN; nhưng cũng tùy theo năng lực và khả năng mà YÊN ở mức độ nào. Nếu người tài trí bình thường thì cứ AN PHẬN THỦ THƯỜNG mà sống đời sống AN CƯ LẠC NGHIỆP hay AN BẦN LẠC ĐẠO; còn nếu có chí lớn để giúp đời hoặc làm nên sự nghiệp lớn để TẾ THẾ AN BANG hay lớn hơn nữa là AN BANG ĐỊNH QUỐC thì cứ mặc tình mà thi thố tài năng để tạo phước cho muôn người.

       Trở lại với chữ AN là Nghi Vấn Tự. Ta có AN NĂNG 安能 ? Có nghĩa là : Làm sao đươc? Làm sao có thể ? Mời nghe một giai thoại về "Liễn Khống" rất thú vị sau đây :

       Đời nhà Minh, đất Giang nam có bốn người tài tử nổi tiếng được xưng tụng là GIANG NAM TỨ ĐẠI TÀI TỬ 江南四大才子; đứng đầu nổi tiếng nhất là Đường Bá Hổ 唐伯虎, kế đến là Chúc Chi Sơn 祝枝山, Văn Trưng Minh 文徵明 và Châu Văn Tân 周文賓. Ta chỉ nhắc đến thư pháp của Chúc Chi Sơn dưới đây thôi. Truyện kể...


                       Chúc Chi Sơn và Giang Nam Tứ Đại Tài Tử qua điện ảnh

       Chúc Chi Sơn 祝枝山 (1460 - 1526), tên là DOÃN MINH, tự là HY TRIẾT, vì bàn tay phải dư ra một ngón nên mới có biệt hiệu là CHI CHỈ SANH 枝指生 (nghĩa là : Ngón tay mọc thêm ), gọi mãi thành CHI SANH, rồi gọi trại thành CHI SƠN và chết tên luôn là CHÚC CHI SƠN 祝枝山. Ông người xứ Trường Châu tỉnh Giang Tô (Tô Châu). Xuất thân từ một gia đình danh nho vọng tộc, rất giỏi về thư pháp, ông viết được nhiều kiểu chữ và viết rất đẹp, nhất là chữ Thảo. Người đương thời thường xưng tụng : Họa thì có Đường Bá Hổ, Thư pháp thì có Chúc Chi Sơn....
       Có một lần, ông đến thăm Đường Bá Hổ ở Hàng Châu, nhưng lại ở trọ nhà của Châu Văn Tân, nấn ná lần lừa mà đã đến giao thừa lúc nào không hay. Dân chúng ở Hàng Châu có tục lệ là chỉ dán liễn KHỐNG không có chữ, lấy ý là : suốt năm được Bình An Vô Sự. Trong cơn tửu hứng cuối năm, Chúc Chi Sơn cười bảo rằng : Họ muốn bình an vô sự, năm nay ta phải cho họ "hữu sự" mới được !. Bèn bảo gia đồng của mình chuẩn bị mực viết và mượn thêm một thư đồng của Châu Văn Tân để xách lồng đèn dẫn đường....
      Sau khi cúng Giao thừa, mọi nhà đều đóng cửa đi ngủ, nhà nào cũng dán sẵn một đôi liễn đỏ không có chữ gì cả. Khi đến một nhà lớn xây mặt về hướng đông, thư đồng bảo rằng đây là nhà của một đại thiện nhân (nhà hảo tâm hay làm việc thiện) ở địa phương, Chúc bèn dừng lại, viết đôi câu đối sau : 

              向陽門第春常在,   Hướng dương môn đệ xuân thường tại,       
              積善人家樂有餘.   Tích thiện nhân gia lạc hữu dư.                 
Có nghĩa :
         - Nhà xây về hướng mặt trời, nên mùa Xuân thường ngự nơi đó.
         - Người trong nhà hay làm việc thiện, nên niềm vui luôn có thừa. 

     Khi đến một căn nhà nhỏ, nhưng cũng khá khang trang, thư đồng bảo rằng :
     - Lúc ban chiều, khi người chồng đi làm xa về, vợ lục lọi trong tay nải, thấy không có đem tiền gì về ăn Tết cả, nên không cho ăn cơm đoàn viên chiều 30 Tết, đến khi phát hiện trong túi quần của chồng có đến mấy chiếc nhẫn vàng, chị vợ mới dịu giọng cho ăn cơm và thân cận, bây giờ thì họ đã ngủ yên rồi ! Chúc Chi Sơn bèn cả cười và cất bút đề rằng :

               Nang nội vô tiền, hưu tưởng ẩm thực nam nữ ,
               囊 内 無 錢, 休 想 飲 食 男 女. 
               Đại trung hữu vật, tiện thành sài mễ phu thê.
               袋 中 有 物,便 成 柴 米 夫 妻.
 Có nghĩa :
             - Túi xách không tiền, đừng hòng gái trai ăn uống,
             - Trong lưng có bạc, mới mong chồng vợ cháo cơm .


               Sài Mễ Phu Thê ân ái đa (Vợ chồng tấm mẳn thương nhau lắm)
      
        Cứ thế, họ đi hết dãy nầy đến dãy khác.....

        Khi đi đến một tòa nhà cao cửa rộng, sơn son thếp vàng, thư đồng bảo Chúc Chi Sơn đừng viết liễn ở cửa nầy, vì đây là nhà của một ác bá nổi tiếng của xứ nầy, Chúc bảo thế thì càng cần phải viết, thấy có 2 lớp cửa, cửa lớn ở ngoài dán đôi liễn trống thếp vàng, Chúc bèn viết đôi câu đối như vầy :

            明日逢春,好不晦氣,   Minh nhật phùng xuân, hảo bất hối khí,   
            终年倒運,少有馀财.   Chung niên đão vận, thiểu hữu dư tài.    
Có nghĩa :
            Ngày mai đón xuân, chẳng xui xẻo lắm sao,
            Suốt năm lận đận, ít có tiền tài dư dã. 

          Cửa trong , nhỏ hơn, dán đôi liễn trống màu đỏ, Chúc bèn viết :

                 此地 安能 居住,    Thử địa  an năng  cư trú,             
                 其人 好不 悲傷.    Kỳ nhân  hảo bất  bi thương.      
Có nghĩa :
              - Nơi nầy làm sao mà ở được !
              - Người ở đây sao khỏi buồn thương !

      Viết xong, ông lại ký tên đàng hoàng là : Tô Châu Giải Nguyên Chúc Chi Sơn thư. làm cho 2 đứa thư đồng đều hoảng sợ, lo lắng...... 

      Sáng sớm hôm sau, Mùng Một Tết, Cả thành Hàng Châu xôn xao hẵn lên, vì tất cả liễn khống đều đã được ai đó viết chữ lên....Dĩ nhiên, có người rất hoan hỉ, vui vẻ vì những lời chúc Tết tốt đẹp ở trên đó, như Nhà Hảo tâm làm việc thiện kia vậy, có người cũng lỡ khóc lỡ cười như 2 vợ chồng nhà nghèo nọ, nhưng...cũng có người giận dữ và thưa lên Quan Phủ, như nhà Ác bá kia... Chúc Chi Sơn đã chuẩn bị tư thế sẵn sàng đi hầu quan từ sáng sớm, nên khi được mời là ông lập tức đến ngay. Quan Phủ kính trọng ông vì ông là một Giải Nguyên, lại là Tài Tử nổi tiếng của xứ Giang Nam, nên chỉ hỏi ông, vì sao viết những lời xui xẻo, xấu xa cho nhà ác bá kia?. Ông cười và trả lời rằng : Đó toàn là những lời chúc tốt đẹp cả mà !. Tên Ác bá cải lại rằng : Ông có chắc là những lời tốt đẹp không ?. Chúc bảo : Thư pháp của ta, một chữ giá đáng ngàn vàng (Nhất tự trị thiên kim  一字值千金), ông không trả công cho ta còn thưa gởi lôi thôi !. Tên Ác bá cải : Nếu quả thực là những lời tốt đẹp, ta sẽ sẵn sàng trả cho ông một ngàn lượng bạc, bằng ngược lại thì ông tính sao đây?. Chúc đáp là mình sẽ chịu mọi hình phạt do quan xử. Được lời của hai bên, Quan Phủ bèn cho sai nha đến nhà của tên Ác bá gở hai đôi liễn xuống, mang đến công đường. Tên Ác bá dương dương tự đắc, phen nầy cho nhà ngươi hết chạy tội, còn Quan Phủ thì lo ra mặt, vì thấy đôi câu đối xấu quá, không biết phải xử sao cho phải. Chỉ có Chúc Chi Sơn là tươi cười giải thích rằng : Vì suốt đêm bận viết liễn, nên khi viết đến nhà của tên Ác bá ông đã quên chưa kịp chấm câu, và ông bèn mượn cây bút trên bàn của Quan Phủ, chấm lại đôi câu đối như sau :

Câu 1:
            Minh nhựt phùng xuân hảo,  bất hối khí,   明日逢春好, 不晦氣,
            Chung niên đão vận thiểu,  hữu dư tài.     终年倒運少, 有馀财.
Có nghĩa :
            Ngày mai đón xuân tốt đẹp, không có gì xui xẻo,
            Suốt năm vận xui rất ít, có tiền bạc dư dã.

Câu 2 :
            Thử địa an,  năng cư trú,
            Kỳ nhân hảo,  bất bi thương.
 Có nghĩa :
            Nơi đây yên lành, có thể ở được,
            Người ở đây tốt, không có chuyện buồn thương.

      Kết quả như thế nào thì chắc các Bạn cũng đoán được rồi... Chỉ biết là sau đó, Chúc Chi Sơn về lại nhà của Châu Văn Tân, mời cả Đường Bá Hổ cùng đến, anh em cùng Ăn Tết và cùng nhậu...mút mùa cũng không hết một ngàn lượng bạc...





      AN 安 là Yên ổn; KHANG 康 là Mạnh khỏe; THỊNH 盛 là có nhiều và đầy đủ, VƯỢNG 旺 là Dồi dào rực rỡ; nên AN KHANH THỊNH VƯỢNG 安康盛旺 là vừa Mạnh khỏe yên vui, lại vừa Phát đạt dồi dào đầy đủ. Vì thế mà ai cũng ao ước và ai cũng chúc nhau trong dịp đầu xuân, vì ai cũng muốn cho gia đình mình và thân nhân bè bạn, tất cả mọi người đều được : AN KHANG THỊNH VƯỢNG 安康盛旺 !



      Mong ước lắm thay !

                                                                                                杜紹德
                                                                                  ĐỖ CHIÊU ĐỨC


Thứ Tư, 28 tháng 6, 2023

HÀNG PHƯỢNG VỸ - TRUYỆN NGẮN CỦA KHÊ KINH KHA

 



                  HÀNG PHƯỢNG VỸ

 

– Mưa lớn quá, làm sao em về lại trường được, chắc em …

– Không sao em. Tôi cắt ngang câu nói của nàng. Anh sẽ đưa em về, và bảo đảm, em sẽ về đến nơi đến chốn an toàn, không bị xứt mẻ gì cả.

– Sao anh lúc nào cũng đùa được. Năm giờ rưởi Bác em đến đón mà không thấy em…

Nàng bỏ lững câu nói của mình, nhìn lên chiếc đồng hồ treo trên tường, gần quày trả tiền.

– Chỉ mới hai giờ thôi, còn hơn ba giờ nữa. Em không trể đâu.

Tôi nói để trấn an nàng.

Ngoài trời mưa vẫn rơi. Sài Gòn có những cơn mưa bất chợt. Mưa đến không báo trước, đổ xuống xối xả, nước lênh láng khắp nơi. Nhưng có khi ngừng vội vả như lúc đến, nắng chang hòa trở lại, bầu trời dịu mát hơn.

 

Tôi quen nàng thật là tình cờ và “duyên nợ”. Một hôm đi cùng thằng bạn thân, tên Thành, đến đón bồ của hắn tại trường nử trung học ở góc đường Võ Tánh. Ngôi trường nằm bên cạnh một nhà thờ lớn, trông rất nghiêm trang và kín đáo. Trường thật kín cổng cao tường, cứ như một tu viện cố xa lánh người đời, mà cũng hơi giống như một nhà tù nào đó. Trường bao bọc bởi một bức tường bằng bê tông cốt sắt, cao gấp hai đầu người, che kín không thấy gì bên trong sân trường cả. Trên đầu bờ tường có gắng đầy những mảnh ve chai nhọn. Có lẽ nhiều cô nữ sinh leo tường trốn học lắm đây? Tôi thầm nghĩ rồi mỉm cười bâng quơ .

Cổng trường còn đóng kín mít. Chưa đến gìơ tan trường mà trước cổng đã đầy bao chàng cây si. Cây mập, cây ốm, cây cao, cây lùn, và chắc chắn cũng có nhiều cây trốn lính trong đó lắm. Nhìn vẻ mặt lấm la lấm lét mỗi khi có xe cảnh sát chạy ngang là tôi biết rồi. Nếu tôi là cảnh sát, chỉ cần đến những nơi như thế này thì thế nào cũng thâu quả được nhiều thành công hơn là chặn khám giấy tờ giữa đường.

Khi cổng trường mở ra, bao tà áo trắng như giòng nước chảy túa ra, những cây si ngưỡng cổ tìm hình dáng người mơ. Tôi cũng nhìn theo những mái tóc dài, tóc ngắn, tóc quăn; những ánh mắt lánh đen, những ánh mắt lơ láo, và những ánh mắt nhìn quanh xem có cây si nào đang chú ý đến mình không? Những vòng eo thon, và eo không thon.

– Hôm nay gío nào đưa anh Hùng đến làm cây si ở đây vậy nhỉ?

Loan, người yêu của Thành, vưà nói vừa cười.

– Người ta còn cô đơn vui tính mà. Thành hùa theo. Em có cô bạn nào hiền như ma sơ, hay sư tử Hà Đông cũng được, giới thiệu cho hắn đi.

Thành vừa nói vưà cười vừa vổ tay lên vai tôi như để an ủi sự “cô đơn” của tôi. Tôi chỉ biết cười trừ thôi. Vì tôi biết nếu mà cố đính chính hay bào chửa thì còn bị nhiều câu chọc quê khác nữa. Thành và Loan là số dách trong chiến trường chọc quê này. Hai người ăn rơ với nhau khủng khiếp, cứ như một đại ban nhạc hoà tấu, từng tiếng kèn, tiếng trống, tiếng đàn, rất ăn rơ và đúng cung vận. Lần nào chọc quê nhau, cuối cùng tôi cũng là người phải chịu thua cuộc và cười trừ. Chắc vì vậy mà tôi “luyện” được chiêu chưởng cười trừ chăng. Với lại ông bà mình hay có câu nói đại khái là cườì một tiếng, mọi việc tà tà ngay, nên tôi cứ thế mà áp dụng. Hôm đó thật sự Loan đã giới thiệu tôi với Phượng, bạn cùng lớp với Loan.

– Anh Hùng, đây là Diễm Phượng, bạn thân cùng lớp của em. Cũng còn cô đơn và vui tính như anh. Chúc hai người trăm năm hạnh phúc nhé.

Nói xong Loan cười khanh khách, rồi nhảy lên yên xe honda của Thành đi mất. Lúc ấy tôi như người mất hồn. Tôi đã bị thu hút bởi đôi mắt đen tuyền của Phượng. Mắt của Phượng lánh đen và đẹp hơn mắt bồ câu. Mặc dù tôi chưa bao giờ bắt chim bồ câu để ngắm đôi mắt cuả chúng đẹp như thế nào, tôi chỉ có nhậu bồ câu rô-ti thôi. Tôi thật sự đã mê đôi mắt đó từ giây phút đâu tiên khi gặp nàng. Nàng còn có thêm mái tóc dài phủ cả bờ vai nhỏ bé. Tóc nàng không chẻ giữa như phần đông nhưng được cắt ngang vừa phủ trán, dài đủ chấm đến hàng chân mày đậm, làm cho đôi mắt to của nàng lại càng thấy to hơn.

Chiếc áo dài trắng nàng đang mặc ai cắt may mà dể thương không chịu nổi, nó ôm sát bờ vai và cánh tay nhỏ nhắn của nàng. Nơi vòng eo thì không thắt sát sợ quá lộ liễu, không buông thả quá sợ người chê, chỉ ôm vừa đủ để khoe vòng eo thon một cách duyên dáng lẫn tí thẹn thùng, như ngập ngừng nửa khoe nữa dấu vậy. Phượng có một làn da trắng như hoa lan. Với cái nắng Sàigòn mà có được một làn da như thế thì phải là người chỉ ở trong nhà suốt ngày hay nếu có đi ra ngoài thì trùm đầu trùm cổ kín mít như Ấn Độ. Có lần tôi khen da nàng trắng đẹp như da của những người ở tù lâu năm. Phượng đã giận tôi hơn hai thế kỷ. Thật sự thì hơn hai tuần nhưng tôi tưởng như hơn hai thế kỷ. Nàng có vẻ thích thú trên sự đau khổ này của tôi khi tôi thú thật với nàng sau này. Thật tôi không hiểu nổi cô gái Hà Nội này, nàng chỉ vui và thích thú trên sự đau khổ của tôi thôi. Đôi khi muốn nàng vui và cười tươi để tôi có dịp ngắm cái đồng tiền với chiếc răng nghiêng của nàng, tôi phải tìm cách chọc cho nàng giận, rồi than thở đau khổ nỉ non để được nàng cười. Có lần Phượng giận tôi hơn bốn thế kỷ. Tôi cứ như người mất trí. Ngồi đứng không yên. Bạn bè rũ đi uống cà phê cũng không màn. Thành với Loan được thế tha hồ chọc quê. Và dĩ nhiên trước cổng trường nử sinh này đã có thêm một cây si hoa lá um tùm. Cuối cùng tôi phải năng nỉ Loan giúp một tay thì mới thấy lại được nụ cười của Phượng. Một lần tôi hỏi Mẹ tôi tại sao gái Hà Nội ác thế, có thể giết người một cách dể dàng mà không cần súng ống. Mẹ tôi biết ngay là tôi đang bị một cô Bắc kỳ nào đây quay vòng vòng như con vụ, nên bà nói ngày: “ Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Nha Trang, Sài Gòn, Long An, Vũng Tàu gì gì cũng vậy thôi, con mà gần lửa thì có ngày sẽ bị cháy đấy con ơi”. Bà dừng lại để lấy hơi, châm điếu thuốc, vẻ suy nghĩ rồi tiếp: “ Con nhớ đừng quên học, con phải thi đậu, nếu không thì bị đi nhập ngủ đánh gìặc.” 

 Lửa Phượng lại có một nụ cười duyên dáng không thể tưởng tuợng nổi. Tôi không biết Tây Thi ngày xưa như thế nào, nhưng đối với tôi chắc chắn Tây Thi không thể nào có được nụ cười duyên dáng bằng Phượng. Mỗi khi cười, nàng có thêm một đồng tiền. Đồng tiền của nàng không ở giữa má mà ở bên cạnh bờ môi trái. Nó chỉ lún vào vừa đủ để mọi người nhận ra cái sắc sảo của nó. Rất nhiều lần tôi muốn hôn vào cái đồng tiền đó nhưng cứ mỗi lần đến gần nàng thì mặt nàng nghiêm như bà giám học, làm tôi cũng cụt hứng luôn.

Chưa hết đâu, nàng lại có thêm một chiếc răng nghiêng. Tôi phải gọi là răng nghiêng vì nó không phải là chiếc răng khểnh, răng cời bình thường như của nhìều cô khác. Chiếc răng này nghiêng vừa đủ để làm cho bờ môi của nàng hơi vảnh lên một tí như để mời mộc nụ hôn. Chiếc răng nghiêng của nàng nằm bên hướng tay phải như để cân bằng với cái đồng tiền bên tay trái. Mỗi khi nàng cười tôi được thưởng thức cả hai. Phải công nhận ông trời là một nhà điêu khắc gia có một không hai nên mới có thể tạo ra một Diễm Phượng như thế.

 

Tôi hay khoe với ông cậu Hoa`ng của tôi về chiếc răng nghiêng và cái đồng tiền này và cũng nhiều lần năng nỉ cậu làm giùm một bài thơ để tôi tặng Phượng. Nói là cậu nhưng cũng chỉ hơn nhau một hai tuổi gì đó nên cứ như là bạn vậy thôi. Cậu tôi, tính hiền, dể chịu, học Văn Khoa nên chữ nghĩa văn chương đầy bụng. Chẳng bì tôi, học ban toán, đầu óc khô như bánh tráng nướng. Cậu thích uống cà-phê và cũng hay làm thơ. Tuy tôi không biết làm thơ nhưng cũng hay đọc thơ văn và thích nói chuyện văn nghệ. Thật sư tôi không thích chính trị và chiến tranh, nên nói chuyện văn nghệ vậy thôi. Mặc dù chiến tranh đang diễn ra từng ngày trên đất nước nàỵ. Những thằng con trai cở tuổi tôi đều phải nghĩ đến. Cứ đứa naò thi rớt thì vào Thủ Đức. Chạy chọt được thì ở Sàigòn tà tà dạo phố và làm cây si, còn không thì đi biệt tăm biệt tích, bạn bè chẳng biết đâu mà liên lạc hay thư từ. Tôi phải mất mấy chầu cà-phê thì cậu tôi mới cảm hứng ra thơ. Tôi phục cậu sát đất, chỉ có một chiếc răng nghiêng và cái đồng tiền nơi vành môi trái thôi mà cậu cũng tuôn ra được mười câu thơ lục bác rất là bay bướm. Tôi hí hững như người trúng số độc đắc. Đọc đi đọc lại bài thơ cho đến lúc thuộc nằm lòng. Nghĩ chắc sẽ làm Phượng vui, nói khen vài câu dịu ngọt êm tai, và cũng cười tươi để tôi tha hồ thưởng thức cái đồng tiền và chiếc răng nghiêng. Nhưng rồi tôi lại không dám trao cho nàng. Tôi chỉ sợ nhở nàng bắt tôi làm thêm mấy bài thơ ca tụng mặt trăng mặt trời, hay mưa nắng , hay cây cỏ mùa Thu, mùa Hạ gì đó, thì tôi sẽ bị lộ tẩy ngay, lúc ấy tôi có bỏ đi lính cũng không sao xóa nổi cái quê của mình.

Cái gì của nàng cũng hoàn hảo cả, từ tấm thân mảnh khảnh như những nàng tiên trong tranh vẻ của Tàu, đến ngay cả từng bước đi nhẹ nhàng. Giọng nói ngọt ngào (gái Bắc mà), hay ngay cả tiếng cười của nàng cũng có thể ru ngũ tôi một cách dể dàng. Chỉ riêng có cái tên là tôi không vừa ý lắm. Diễm Phượng, cái tên này nghe giống như bài hát rắt nổi tiếngcủa ông nhạc sĩ họ Trịnh. So về tuổi tác của nàng với bài hát đó, thì biết ngay ông nhạc sĩ tài ba đã mượn đở chữ Diễm của tên nàng. Nhưng bây gìơ cả nước Việt Nam ai cũng biết bài hát này, như thế đâu có gì đặc biệt cho riêng tôi. Tôi nhất định phải đặc cho nàng một cái tên thật độc đáo mà không ai có hết. Nào là Phượng dịu dàng, Phượng yêu, Phượng kiêu sa, Phượng tóc dài, Phượng đồng Tiền, Phượng răng nghiêng, Phượng mắt bồ câu, Phượng mắt hạt nhản, Phượng Tây Thi, Phượng hơn Tây Thi, Phượng Hoàng, Phượng Tiên Nữ, Phượng của tôi, Phượng Hùng… có đến mấy trăm cái tên khác nhau mà tôi vẫn chưa thấy tên nào vừa ý cả . Vô tình một hôm đứa em gái tám tuổi của tôi hỏi tôi:

– Anh Hùng, tại sao mùa phượng vĩ là mùa chia tay ?.

– Tại vì mùa phượng vĩ là mùa hè, mùa hè thì nghĩ học, thì bạn bè chia tay nhau .

Lúc ấy tôi chợt nhớ đến Phượng và cái tên mà tôi cố “sáng tác” nhưng chưa ra . Mùa Phượng Vĩ, Mùa Phượng Vĩ, tôi lẩm bẩm lập đi lập lại cả buổi chiều hôm ấy. Đến mấy ngày hôm sau thì tôi biến nó thành Hùng Phượng Vĩ cho có vẻ đầy gắng bó tình tự, nhưng tôi thấy cũng không ổn vì cái tên “Hùng” mắc dịch của tôi nghe sao quá “cải lương”. Tôi hay trách Mẹ tôi sao không đặc cho tôi một cái tên gì hay ho hơn và ít người có. Khi tôi còn bé đi học, cứ mỗi lần thầy giáo gọi: “Trò Hùng, đứng lên”, thì gần nửa lớp đứng dậy, cả lớp cười chọc quê. Mấy thằng cà chớn trong lớp còn cứ hay hát chọc “Anh hùng là anh hùng rơm, tao cho bó lửa hết cơn anh hùng, thình tùng thình…tùng thình…” Tôi ghét cái tên cúng cơm cải lương của tôi kinh khủng.

Mấy tuần sau thì tôi đổi ra thành Hàng Phượng Vĩ. Tôi thấy nó cũng hay hay và lạ lạ. Thêm nữa, sẽ không ai biết tên nàng là Phượng. Tôi rất hảnh diện và sung sướng đã “sáng tác” được một cái tên qúa hay ho và bay bướm thế này.

Nhưng rồi hơn sau ba tuần, tôi vẫn chưa biết làm sao để nói với Phượng cái tên hay ho và mới mẻ này mà không bị giận mấy thế kỉ. Cuối cùng tôi nhờ Loan trao cho nàng lá thư mà tôi đã nắn nót viết : “Em Hàng Phượng Vĩ yêu qúi ”, rồi ký tên mình bên dưới . Hôm đó tôi đến chờ ở cổng trường từ mười hai gìơ trưa vì chỉ sợ không gặp nàng.

Tôi rất ngạc nhiên khi thấy cổng trường mở ra và nhiều học sinh được ra về sớm. Trong đám có Loan và cả Phượng. Tôi còn bâng khuâng thì Loan đã lên tiếng:

– Anh Hùng sao hay thế, sao anh biết lớp em được về sớm hôm nay mà đến đón Phượng? Sao anh không cho Anh Thành em biết?

– Anh đâu biết trước. Mà tại sao lớp …

Tôi chưa hỏi hết câu thì đã thấy Phượng đứng sừng sững trước mặt tôi. Trái hẳng với lòng dự đoán của tôi, Phượng rất thản nhiên và không tỏ vẻ gì giận dỗi, nhưng cái thản nhiên gần như lạnh lùng sỏi đá của nàng đã báo hiệu cho tôi một điều gì không lành sắp xảy đến trong đời tôi.

– Anh đã đưa nhầm thư người khác cho tôi.

Nói xong Phượng dúi lá thư vào tay tôi rồi quay lưng bỏ đi một mạch về hướng nhà thờ. Nàng không dùng chữ “em” hay “Phượng” để xưng hô với tôi nữa đã làm cho tôi thấy đời bổng đen tối và vô nghĩa. Tôi nghĩ thầm chiều nay sẽ buồn thối ruột. Tôi lẻo đẻo đi theo nàng như một tên tiểu đồng khúm núm đi theo sư tổ . Thỉnh thoảng nàng quay qua mỉm cười với cái tên lái xe Honda kè kè một bên lề đường như để chọc tức tôi. Nếu tôi to lớn lực sĩ như ông cậu Giang của tôi, thì tôi đã đấm vào mặt cái thằng trơ trẻn này vài thoi cho bỏ ghét.

Phượng rẽ vào cổng nhà thờ rồi đi thẳng đến đứng trước tượng đá Đức Bà Maria. Cái thằng trơ trẻn Honda không dám lái xe vào sân nhà thờ nên hắn quẹo vòng trở lại cổng trường để tìm người mơ khác. Tôi từ từ đi đến đứng cạnh nàng. Rồi bắt đầu than oán nỉ non:

– Thư đó là anh gữi cho em, anh đâu có ai mà đưa lầm thư. Cái tên…

– Tên tôi là Diễm Phượng, tôi đâu phải Hàng Phượng Vĩ.

Phượng cắt ngang với giọng cay cú. Nàng nói mà chẳng thèm nhìn tôi.

– Cái tên Hàng Phượng Vĩ là do anh đặt riêng cho em như một bút hiệu vậy mà. Nếu em không thích anh sẽ không bao gìơ dùng đến nữa.

Phượng đứng yên lặng, mắt vẫn nhìn vào tượng Đức Bà. Nét mặt có vẻ dịu lại hơn, rồi nàng nhắm mắt, cúi đầu, cầu nguyện nho nhỏ. Tôi thấy hơi yên bụng một tí. Biết đâu nàng đang cầu nguyện cho tôi thi đậu để khỏi bị đi lính. Hay nàng cầu nguyện cho tôi bị trúng gió lăng đùng ra giừa đường, dãy đành đạch như con cá trên thớt, cho hả giận. Nếu tôi bị trúng gió lăng đùng ra giữa đường để nàng hết giận thì tôi sẽ chịu ngay, hình phạt này tôi còn thích hơn là những hình phạt kéo dài đằng đẳng từ thế kỉ này đến thế kỉ khác. Tôi như người lạc đường giữa sa mạc. Thịt da cháy khô, trông như một xác chết không hồn.

Tôi ngẩm nghĩ mình cũng nên cầu xin một cái gì nên tôi cũng nhắm mắt, cúi đầu như Phượng Vĩ. Một lúc sau tôi mở mắt ra thì Hàng Phượng Vĩ của tôi đã đi trở ra gần đến đường rồi. Tôi lật đật bước nhanh theo nàng, năng nỉ:

– Anh thấy cái tên Hàng Phượng Vĩ cũng đẹp gần bằng em.

Tôi cố nhấn mạnh hai chữ “gần bằng” để cho nàng thấy là không có cái gì bằng nàng cả. Phượng Vĩ không nói năng gì, tay vẫn ôm sách học trước ngực, băng qua đường, đi dọc theo đường Võ Tánh về hướng ngõ Sáu.

Tôi nghĩ nàng im lặng như thế chắc có thể đã chấp nhận và tha thứ rồi, nên tôi không nỉ non nữa. Tôi đánh bạo nói với nàng:

– Bây gìơ còn sớm lắm, Bác em chưa đến đón đâu. Hay mình đi xuống ngõ Sáu tìm cái gì uống nhé?

Phượng Vĩ không trả lời câu hỏi của tôi nhưng vẫn tiếp tục đi về hướng Ngõ Sáu. Tôi bước nhanh theo sát bên nàng. Tôi định cầm tay nàng như những lần trước nhưng không biết nàng đã hết giận chưa.

Nắng chang chang phủ đầy trên đầu trên tóc, trên mặt đường, trên những dãy nhà lầu cao. Nhưng tôi không thấy nóng tí nào. Tôi chợt nhớ một câu hát “Nắng Sàigòn anh đi mà chợt mát”. Bây giờ tôi mới thật sự thấu hiểu nổi lòng của ông nghệ sĩ tài ba này. Không hẹn mà được đi dạo phố với nàng thì thật la may mắn mấy đời, nên tôi cứ lẳng lặng đi cạnh bên nàng.

Gió từ đâu bổng dưng nổi dậy, thổi tung cát bụi cùng rác rưới bên đường. Phượng đi sát vào những tòa nhà lầu như để tìm một chút che chở.

– Có lẽ trời sắp mưa đấy em. Mình đi nhanh tìm cái quán nào ngồi cho khỏi ướt.

Nói xong tôi cầm tay nàng kéo đi nhanh gần như chạy. Gió cuống thổi mạnh từ sau lưng như giúp sức. Tà áo dài trắng của Phượng bay lồng lộng phía trước. Phượng cố giữ mái tóc cho khỏi bị gío rối. Một vài giọt mưa đã bắt đầu rơi như để báo hiệu trước.

 

Phượng Vĩ và tôi vừa ngồi xuống bàn kê gần cửa ra vào, thì trận mưa cũng vừa đổ xuống. Những giọt nước nặng hạt đổ nhào từ trời cao, vở tung tóe trên mặt đất, thành từng dòng nước chảy mạnh vào những chổ lủng thấp, lênh láng đầy đường, rác nổi lềnh bềnh. Cơn mưa nào cũng đem đến nhiều dịu mát, xóa dần đi cái nóng bức của buổi trưa SaiGòn. Phượng vuốt mái tóc, mỉm cười, dịu nói:

– May quá anh nhỉ? Em không có đem theo dù, nếu bị mưa ướt sợ bị cảm lắm.

Nàng đã đổi cách xung hô làm tôi thấy an tâm dể sợ.

Quán vắng người, không ai ngoài tôi với nàng. Phượng rất thich quán vắng người, để được tự do nói chuyện, tự do im lặng và tự do giận dỗi tôi nếu cần, mà không sợ ai chú ý đến.

Gío thoảng nhẹ đem theo những bụi mưa vào quán. Tôi thấy thèm một li ca-phê nóng. Tôi định gọi người đến thì đã thấy con bé cở khoảng mười tuổi, đi từ bên trong ra, trên tay cầm một qủa dừa tươi đã được chặt đi một đầu, và có cắm thêm một ống hút. Con bé đến đặt quả dừa trước mặt Phượng rồi cười toe tóe, nói với nàng:

– Chị là Hàng Phượng Vĩ phải không? Tên chị đẹp mà chị cũng đẹp, hèn chi chú Hùng mê. Em mà chú Hùng, em lấy chị luôn…

Phượng đỏ mặt, nhìn tôi như cầu cứu, cố tìm hiểu sao con bé tinh ranh này biết được cái tên tôi mới đặc cho nàng, và sao nó lại biết nàng thích nước dừa tươi. Tôi vội nói:

– Bé Linh là con bà chủ quán, nó thường hay giúp mẹ nó tiếp khách… Những lần anh đến đây học chờ em, nó hay lẩn quẩn nói chuyện với anh…

– Chị Phượng Vĩ ơi. Con nhỏ Linh chỏ mõm chen vào. Ngày nào chú Hùng cũng đến quán em uống cà-phê, đọc sách cho đến bốn năm giờ chiều thì nói là đi đón bồ. Em hỏi tên bồ thì chú không nói. Nhưng mấy tuần nay, chú lại khoe với em cái tên của chị. Ngày nào cũng đặt mua một trái dừa tươi, ướp đá lạnh sẳng cho chị… Chú nói người chú mê tít tò lò là Hàng Phượng Vĩ.

Nói xong con nhỏ Linh cười khúc khích. Con bé quỉ quyệt này hôm nay tôi thấy sao dể thương qúa đổi.

– Thôi được rồi Linh ơi, pha cho chú ly ca-phê đen đi. Tôi nói.

Mặt Phượng vẫn còn đỏ ửng vì thẹn lẫn sung sương. Phượng nhìn ra trời mưa, nói lảng sang chuyện khác:

– Lúc ở nhà thờ em thấy anh nhắm mắt, anh cầu nguyện à?

– Anh cám ơn Đức Bà cho em được về sớm hôm nay.

– Anh đừng nói dại, thầy em vừa nhận được tin đứa con trai tử trận, thầy phải về đưa gia đình đi nhận xác…

Lời nói của Phượng bị nghẹn tắt nửa chừng. Ánh mắt nàng trở nên buồn thăm thẳm.

– Chiến tranh đấy em, thân phận con trai của bọn anh chẳng biết đâu mà mò.

Tôi và Phượng nhìn ra ngoài trời như cùng một tâm sự. Tương lai như sương mù phía trước, không ai thấy được mà cũng không đoán đươc. Bao giấc mơ, bao toan tính có thể vở tan tành vì một viên đạn nhỏ bé. Tôi và Phượng Vĩ ngồi im lặng như thế rất lâu trong nổi ưu tư riêng của mình.

Bầu trời vẫn còn xám, một vài tia nắng đang cố len mình qua đám mây. Cơn mưa xối xả đã qua, gìơ đây chỉ còn lại vài hạt mưa phất phơ, rất mềm, rơi thưa thớt trên mặt đường, trên những vủng nước ổ gà.

– Anh đang mơ mộng gì thế, Phượng thấy anh như ở nơi nào vậy?

Tôi như chợt tỉnh cơ mê, quay đầu nhìn nàng mỉm cừơi. Nhưng thấy nụ cười mình trơ trẻn dể sợ . Nếu lúc đó có cái gương trước mặt, tôi sẽ thấy bộ mặt và nụ cười cầu tài của tôi, chắc tôi cũng phải cười tôi.

– Anh đang nghĩ đến những ngày sắp tới của chúng mình… Nếu anh thi rớt, vào Thủ Đức, em có đi thăm anh mỗi tuần không?

Phượng khẻ gật đầu, mắt nhìn xuống mặt bàn. Nàng muốn nói một câu gì đó nhưng không thoát ra thành lời.

– Thế là em thành người yêu… của lính… rồi. Tôi vừa nói vừa kéo dài như hát.

Phượng Vĩ cười tươi, nhìn ra bên ngoài, nói nhanh:

– Thôi em phải về lại trường chờ Bác em.

Tôi đứng dậy, từ từ cởi nút áo sơ-mi của mình ra. Phượng Vĩ lố mắt nhìn tôi, la hoảng:

– Anh định làm gì thế?

– Anh chỉ muốn cởi áo lót đường cho em đi khỏi ướt chân.

Phượng Vĩ cắn môi để cố dấu nụ cười, nhìn tôi với ánh mắt sáng ngời lẩn tí tinh nghịch:

– Manh áo bé tí teo thế kia thì lót được bao nhiêu?

– Anh còn thêm cái quần tây nữa.

Nàng quay mặt nhìn về hướng khác như không chú ý đến lời nói khôi hài nhưng không mấy lịch sự của tôi.

– Hay anh cỏng em về lại trường nhé ? Nói xong tôi khom lưng xuống.

Phượng Vĩ đứng dậy, cầm chồng sách, bước ra khỏi quán. Mưa đã dứt nhưng hơi nước vẫn còn đày trong gío. Gío thổi tung mái toc dài của Phượng Vĩ, nàng vội lấy một cuốn sách che nghiêng bên đầu. Tôi liếc nhìn qua bờ môi bên trái của nàng, thấy cái đồng tiền hơi lún vào một tí. Nàng đã bị lộ tẩy rồi, nàng đang cười thích thú bên trong nhưng không muốn cho tôi biết thôi. Tôi thật sự cám ơn ông trời đã cho nàng cái đồng tiền để tôi vừa được ngắm, vừa được biết thêm một vài bí mật bên trong của nàng. Tự nhiên tôi thấy mình hạnh phúc lạ lùng. Tôi đi gần đến bên nàng, quàng tay kéo nàng sát vào tôi. Gío thổi luồn qua mái tóc xõa, những sợi tóc mai đen tuyền, mềm mại, đập nhẹ vào mặt tôi, như những vuốt ve trìu mến. Mùi hương ngọt ngào, nồng nàn của da thịt nàng thoảng bay. Tôi muốn nói với nàng một câu thật chân tình. Nhưng không có lời nói nào có thể diễn tả nổi con tim của tôi trong giây phút này. Tôi khẻ hôn vào gò má nàng. Tôi cảm thấy nàng đi sát vào tôi hơn.

Chưa bao giờ tôi thấy lòng hân hoan và tràn đầy hạnh phúc như hôm nay. Tôi chỉ mong con đường về lại trường dài vô tận để không bao giờ tôi phải xa nàng. Để hai thân thể chuyền hơi ấm cho nhau mãi mãi dưới mưa. Những mơ ước, những xôn xao kéo nhau đến trong tôi như cơn mưa vừa qua. Tôi mơ một ngày đất nước không còn chiến tranh, tôi và nàng sẽ đi thăm khắp mọi nơi. Những thành phố lớn nhỏ, những làng mạc xa xăm, những đồi nương xanh lá, những bờ biển cát trắng. Rồi cuối cùng tôi sẽ cùng nàng chọn một ngọn đồi thông reo nào đó, bên cạnh con suối nhỏ, hay một bờ biển vắng yên lành, dựng một căng nhà nhỏ có dàng hoa thiên lý. Tôi sẽ trồng thêm một hàng phượng vĩ trước nhà, trong vườn đầy những cây ăn quả, bao thứ hoa lạ, và dĩ nhiên có vài chục cây dừa cho nàng. Còn phần tôi, tôi sẽ trồng một vườn trà và một vừơn cà-phê. Rồi những đêm trăng sáng tôi sẽ cùng nàng ngồi ngắm trăng sao. Lúc ấy dù tôi không phải là thi sĩ, tôi cũng có thể làm được một bài thơ ca tụng tình yêu vĩnh cữu của tôi và Hàng Phượng Vĩ. Một giấc mơ rất bình thường, chân thật, không bon chen, không ganh đua, không thù hận. Một giấc mơ mà tôi nghĩ cặp tình nhân nào cũng thèm muốn, cũng ao ước. Chiến tranh đối với họ như một cơn bảo vĩ đạị. Họ cố gắng xa lánh để không bị những ngọn gió dữ dằn tàn phá những hạnh phúc mà họ đang xây đắp. Nhưng nhiều khi những ước mơ thật tầm thường cũng không thành tựu được, khi sự thật vẫn còn nhiều chết chóc và li tán xãy ra từng ngày.

 

***

 

Chiếc xe gíp của người Bác chở Hàng Phượng Vĩ tôi quẹo qua đường Võ Tánh, rồi mất biến sau dãy nhà lầu. Tôi nhìn lên ngọn cây. Nắng đỏ hoe trên cành. Những giọt mưa còn đọng trên lá, lung linh trong nắng như những hạt kim cương đủ màu. Tôi thấy mình dần bước về hướng nhà thờ. Tôi thầm nghĩ, mình nên cầu xin một cái gì, cho tình yêu, cho tương lai, và … Biết đâu Hàng Phượng Vĩ sẽ không cho mình leo cây cuôí tuần này.

 

Tiếng còi hụ inh ỏi của chiếc xe cứu thương, xe chửa lửa và xe cảnh sát chạy nhanh về phía chợ Bến Thành. Chắc lại một vụ đặt bôm nổ giữa đám đông?

 

KHÊ KINH KHA

(mass. 7/1975)


Thứ Ba, 27 tháng 6, 2023

TÌNH VIỄN PHƯƠNG - THƠ MẶC PHƯƠNG TỬ

 


TÌNH VIỄN PHƯƠNG.

Tạm biệt Chùa Kỳ Viên, South Dakota.


Từ lúc mây xa về phố núi

Chim trời cũng theo gió về xuôi.

Áo vai dù đã bao mưa nắng,

Lòng vẫn xanh theo những bước đời.


Đây mảnh vườn xuân rộn tiếng chim

Giữa trời phương thảo mấy chung riêng.

Ta nghe thanh thản đời hôm sớm,

Cả nhịp lòng theo khắp mọi miền.


Mấy độ đông tàn, mấy độ xuân

Mấy mùa hoa nở rụng bao lần.

Đó đây cũng lắm tuồng dâu bể,

Bao nỗi vui buồn chuyện thế nhân.!


Một sớm ta rời nơi chốn cũ

Xa rồi miền gió núi mây ngàn.

Xa mùa tuyết trắng, sương mù đục,

Phố núi trời xưa, mấy điệu đàn.


Biết thế, lòng ta đâu phải thế !

Mai đây dù ở chốn quê hương.

Vẫn xanh cuộc lữ bao xuân trước,

Vẫn một tình xuân buổi viễn phương.



Florida, Tampa, 26/6/2023

MẶC PHƯƠNG TỬ.