CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 31 tháng 12, 2021

TA TỈNH HAY MÊ , ĐA THÊ ĐA KHỔ - THƠ NHẤT HÙNG






 

CHÚC MỪNG NĂM MỚI 2022

 


NHÂN DỊP ĐẦU NĂM  MỚI 2022 NHÃ MY THÂN KÍNH CHÚC:

QUÝ THI ,VĂN HỮU THƯỜNG XUYÊN GỬI BÀI CHO BLOG NHÃ MY

QUÝ ĐỘC GIẢ CỦA BLOG NM VÀ TRANG FACEBOOK SL

CÙNG QUÝ QUYẾN MỘT NĂM MỚI

BÌNH AN, HẠNH PHÚC ,THÀNH CÔNG , NHIỀU TỐT ĐẸP.


GÓC THƠ ĐƯỜNG : XUÂN GIANG HOA NGUYỆT DẠ ,TRƯƠNG NHƯỢC HƯ, ĐỖ CHIÊU ĐỨC

 




Góc Đường Thi : 
                                                 
          XUÂN GIANG HOA NGUYỆT DẠ.
                                        




   TRƯƠNG NHƯỢC HƯ 張若虛  (Khoảng 660-720), người đất Dương Châu (thuộc tỉnh Giang Tô hiện nay) là thi nhân nổi tiếng đời Đường. Từng giữ chức Binh Tào ở Đoái Châu, cùng với Hạ Tri Chương, Trương Húc và Bao Dung hợp xưng là "Ngô Trung Tứ Sĩ 吳中四士". Trong Toàn Đường Thi Tập chỉ còn chép lại có 2 bài thơ của Trương Nhược Hư mà thôi : Bài nầy và bài "Đại Đáp Khuê Mộng Hoàn 代答閨夢還". Riêng bài "Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ 春江花月夜" là bài thơ được đánh giá là "Bài thơ Thất ngôn trường thiên hay nhất ở thời buổi Thịnh Đường". Ta hãy cùng đọc bài thơ nầy nhé !




  春江花月夜            XUÂN GIANG HOA NGUYỆT DẠ

春江潮水連海平,      Xuân giang triều thủy liên hải bình,
海上明月共潮生。    Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh.
灩灩隨波千萬裏,    Diễm diễm tùy ba thiên vạn lý,
何處春江無月明!?    Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh !?
江流宛轉繞芳甸,    Giang lưu uyển chuyển nhiễu phương điện,
月照花林皆似霰;     Nguyệt chiếu hoa lâm giai tự tán;    
空裏流霜不覺飛,    Không lý lưu sương bất giác phi,
汀上白沙看不見。    Thinh thượng bạch sa khan bất kiến.
江天一色無纖塵,    Giang thiên nhất sắc vô tiêm trần,
皎皎空中孤月輪。    Giảo giảo không trung cô nguyệt luân.
江畔何人初見月?    Giang bạn hà nhân sơ kiến nguyệt ?
江月何年初照人?    Giang nguyệt hà niên sơ chiếu nhân ?
人生代代無窮已,    Nhân sinh đại đại vô cùng dĩ,
江月年年望相似。    Giang nguyệt niên niên vọng tương tự.
不知江月待何人,    Bất tri giang nguyệt đãi hà nhân,
但見長江送流水。    Đản kiến trường giang tống lưu thủy.
白雲一片去悠悠,    Bạch vân nhất phiến khứ du du,
青楓浦上不勝愁。    Thanh phong phố thượng bất thắng sầu.
誰家今夜扁舟子?    Thùy gia kim dạ biển chu tử ?
何處相思明月樓?    Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu ?
可憐樓上月徘徊,    Khả lân lâu thượng nguyệt bồi hồi,
應照離人妝鏡臺。    Ưng chiếu ly nhân trang kính đài.
玉戶簾中卷不去,    Ngọc hộ liêm trung quyển bất khứ,
搗衣砧上拂還來。    Đảo y châm thượng phất hoàn lai.
此時相望不相聞,    Thử thời tương vọng bất tương văn,
願逐月華流照君。    Nguyện trục nguyệt hoa lưu chiếu quân.
鴻雁長飛光不度,    Hồng nhạn trường phi quang bất độ,
魚龍潛躍水成文。    Ngư long tiềm diệu thủy thành văn.
昨夜閒潭夢落花,    Tạc dạ nhàn đàm mộng lạc hoa,
可憐春半不還家。    Khả lân xuân bán bất hoàn gia.
江水流春去欲盡,    Giang thủy lưu xuân khứ dục tận,
江潭落月復西斜。    Giang đàm lạc nguyệt phục tây tà.
斜月沉沉藏海霧,    Tà nguyệt trầm trầm tàng hải vụ,
碣石瀟湘無限路。    Kiệt thạch tiêu tương vô hạn lộ.
不知乘月幾人歸,    Bất tri thừa nguyệt kỷ nhân quy,
落月搖情滿江樹。    Lạc nguyệt diêu tình mãn giang thọ.


* Chú thích :
    - Xuất xứ của bài thơ XUÂN GIANG HOA NGUYỆT DẠ 春江花月夜 : Vốn là tên của một ca khúc nổi tiếng của đất Ngô, tương truyền là do Trần Hậu Chúa của Nam Triều làm ra, Bản từ gốc đã thất truyền. Theo Cựu Đường Thư, thì "Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ", "Ngọc Thụ Hậu Đình Hoa", "Đường Đường"... đều do Trần Thúc Bảo Hậu Chúa cùng các nữ học sĩ trong cung sáng tác và các triều thần hòa thành thơ, rồi Thái Nhạc Lệnh là Hà Tư chọn những bài từ hoa lệ mà phổ thành ca khúc nầy. Sau Tùy Dương Đế cũng có sáng tác qua từ điệu nầy. Trong "Nhạc Phủ Thi Tập 樂府詩集" quyển thứ 47 có chép lại 7 khúc hát với từ điệu "Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ", trong đó có 2 bài là của Tùy Dương Đế. Bài thơ "Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ" của Trương Nhược Hư cũng làm theo đề từ nầy, nhưng đã khác với các khúc điệu trước đây, nhưng lại là bài thơ nổi tiếng nhất trong các bài đề từ cùng tên. 
  - Diễm Diễm 灩灩 :Sóng nước chập chờn lắp loáng.
  - Phương Điện 芳甸 :PHƯƠNG là Mùi thơm của Hoa cỏ. ĐIỆN là Đất ngoài đồng trống; nên PHƯƠNG ĐIỆN là Cánh đồng đầy hoa thơm cỏ lạ.
  - Tán 霰 :là Mưa đá thật nhỏ, những hạt nước trắng tinh trông thật tinh khiết dưới ánh trăng.
  - Lưu Sương 流霜 :Không phải là sương lưu động, mà là những hạt sương như những làn tuyết mỏng bay bay dưới ánh trăng mờ ảo mông lung.
  - Thinh 汀 :Bãi cát hay những cồn cát nổi lên ở trên sông.
  - Tiêm Trần 纖塵 :TIÊM là Mịn màng, TRẦN là Bụi bặm; nên TIÊM TRẦN là những hạt bụi thât nhỏ thật mịn.
  - Nguyệt Luân 月輪 :LUÂN là cái bánh xe, nên NGUYỆT LUÂN chỉ Vầng trăng tròn như là cái bánh xe. Trăng thật tròn.
  - Cùng Dĩ 窮已 :là Cùng tận, là Hết mức.
  - Câu "Giang nguyệt niên niên CHỈ tương tự 江月年年只相似:Còn có một dị bản là “Giang nguyệt niên niên VỌNG tương tự 江月年年望相似”。
  - Đản Kiến 但見 :Chỉ thấy, Chỉ thấy là...
  - Du Du 悠悠 :là Xa xôi diệu vợi.
  - Thanh Phong Phố 青楓浦 :PHỐ là Bến nước, nên THANH PHONG PHỐ là Bến nước Thanh Phong ở tỉnh Hồ Nam hiện nay. Ở đây phiếm chỉ chỗ ở của người du tử.
  - Phố Thượng 浦上:là Trên bến nước, là Bên bờ sông. Câu nầy lấy ý từ bài Cửu Ca của Khuất Nguyên《屈原 九歌》:“Tử giao thủ hề đông hành, Tống mỹ nhân hề nam phố 子交手兮東行,送美人兮南浦”. Hai câu thơ trên hàm ý chia tay giả biệt :
                           Nắm tay giả biệt về đông,
                  Đưa người nam phố cho lòng ngẩn ngơ. 
  - Biển Chu Tử 扁舟子 :là Chiếc thuyền con, ý chỉ phiêu bạt như người du tử.
  - Minh Nguyệt Lâu 明月樓 :là Lầu trăng sáng, chỉ sự nhớ nhung của người cô phụ, theo như bài thơ "Thất Ai Thi" của Tào Thực đời Tấn 曹植《七哀詩》:
                   明月照高樓,  Minh nguyệt chiếu cao lâu,
                   流光正徘徊。  Lưu quang chánh bồi hồi.
                   上有愁思婦,  Thượng hữu sầu tư phụ,
                   悲嘆有餘哀!   Bi thán hữu dư ai !
     Có nghĩa :
                   Lầu cao trăng chiếu mênh mông,
                   Ánh vàng bàng bạc cho lòng ngẩn ngơ.
                   Cô đơn thiếu phụ bơ phờ,
                   Tiếng than não nuột thẫn thờ bi ai !
  - Ly Nhân 離人 :Những người ly biệt, ở đây chỉ người cô phụ xa chồng.
  - Trang Kính Đài 妝鏡台 :Cái đài gương, cái giá gương để trước bàn trang điểm, chỉ chung Bàn Phấn của qúy bà qúy cô.
  - Ngọc Hộ 玉戶 :Cửa có dát ngọc, chỉ các lâu đài cao sang hoa lệ.
  - Đảo Y Châm 搗衣砧 :Cái chày bằng đá ngày xưa dùng để giặt giũ.
  - Tương Vọng 相望...Tương Van 相聞 :Nhìn nhau... Nghe thấy nhau.
  - Trục 逐 :Rượt theo, đuổi theo.
  - Nhàn Đàm 閒潭 :chỉ Đầm nước yên tịnh phẵng lặng.
  - Phục Tây Tà 復西斜 :Lại nghiêng ngã về tây.
  - Tiêu Tương 瀟湘 : chỉ 2 con sông Tương Giang và Tiêu Thủy ở tỉnh Hồ Nam hiện nay.
  - Kiệt Thạch 碣石 : Hòn đá đứng trơ trọi một mình, tên núi ở tỉnh Hà Bắc hiện nay, nên KIỆT THẠCH và TIÊU TƯƠNG : Một ở bắc một ở nam, chỉ đường xá xa xôi khó thể gặp nhau. 
  - Vô Hạn Lộ 無限路 :Đường xá không có giới hạn, chỉ xa xôi vô cùng.
  - Thừa Nguyệt 乘月 :Thừa lúc ánh trăng sáng, nhân lúc sáng trăng.
  - Diêu Tình 搖情 :Tình cảm dao động, chỉ xúc động tâm tình. 




* Nghĩa bài thơ :
                                    Đêm Hoa Nguyệt Trên Sông Xuân
       Thế nước thủy triều của mùa xuân dào dạt hòa cùng nước biển liền thành một dãy, một vầng trăng mọc lên từ mặt biển như cùng trào dâng với nước thủy triều. Ánh trăng sáng chiếu trên sông xuân gợn sóng lắp loáng cả muôn vạn dặm. Không có chỗ nào trên sông là không có ánh sáng trăng chiếu đến. Nước sông uốn khúc chảy quanh cánh đồng đầy hoa thơm cỏ lạ, ánh trăng thì rải đầy trên rừng cây lắp lánh hạt móc sa.
        Ánh trăng sáng mông lung như sương bay bay phất phơ khắp nơi. Bãi cát trắng xóa hòa cùng ánh trăng trong làm ta không còn phân biệt được cát trắng hay trăng trong. Sông và trời như liền làm một không chút bụi trần, còn vầng trăng thì vẫn vằng vặc treo lơ lửng trên bầu trời. Bên dòng sông ai là người thấy trăng mọc trước nhất ? Còn vầng trăng trên sông thì năm nào mới bắt đầu chiếu ánh sáng cho người ? Đời người thì đời nầy qua đời khác nối tiếp nhau không dứt, còn vầng trăng trên sông thì năm nầy qua năm nọ cũng vẫn như thế mà thôi ! Không biết là vầng trăng trên sông đang chờ đợi ai đây, chỉ thấy nước sông trường giang cứ không ngừng trôi  chảy mãi. 
      Người du tử như đám mây trắng vằng vặc bay mãi bay đi, còn người cô phụ ở lại trên bến Thanh Phong thì cứ sầu hoài sầu mãi. Chàng du tử nhà ai đêm nay còn thả một con thuyền nhỏ phiêu bạt trên sông ? Và nơi nào có nàng cô phụ đang ngắm trăng trên lầu mà thương nhớ ? Khá thương thay ánh trăng cứ lởn vởn mãi trên lầu, lẽ ra phải chiếu vào bàn trang điểm của kẻ đã đi xa. Ánh trăng chiếu vào rèm ngọc của người cô phụ cuốn cũng không đi, chiếu trên chiếc chày đá giặc giũ phủi cũng không được. Đang lúc này cả hai đang cùng nhìn ngắm trăng nhưng lại cùng không nghe thấy tiếng của nhau. Mong ước rằng sẽ được như ánh trăng vượt ngàn để soi rọi cho nhau. Chim hồng nhạn không ngừng bay lượn, nhưng vẫn không bay ra khỏi được ánh trăng mênh mông vô bờ. Vầng trăng chiếu trên mặt sông, rồng cá dưới nước như cũng đang quẫy đuôi làm nổi lên những gợn sóng lăn tăn.(Ý muốn nói, bóng chim tăm cá gì đều bặc vô âm tín). Hôm qua mơ thấy hoa rụng bên đầm nước vắng lặng, chỉ tiếc là mùa xuân đã đi qua một nửa rồi mà vẫn còn chưa được về quê. 
          Nước sông xuân cứ chảy mãi không thôi như mùa xuân sắp tàn, và bóng trăng trong đầm nước cũng sắp ngã về hướng tây. Trăng tàn dần dần chìm xuống trong sương mờ trên biển, những tảng đá chơ vơ trên núi Kiệt Thạch miền bắc và hai dòng sông Tiêu Tương ở miền nam xa cách nhau ngàn trùng diệu dợi. Không biết đã có những ai nhân vầng trăng sáng nầy mà về lại quê nhà, chỉ có ánh trăng tà sắp lặn mới biết được cái ly tình kia nên rải ánh trăng lên khắp cả các rừng cây ven sông !...

    Cả bài thơ xoay quanh 5 chủ đề của cái tựa là XUÂN, GIANG, HOA, NGUYỆT và DẠ để thể hiện cái đẹp của đêm trăng trên sông xuân với hoa thơm cỏ đẹp trong đêm làm rung động lòng người. Cả bài theo tuần tự của cảnh trí đưa đến triết lý rồi biểu hiện của tình cảm biệt ly... Cảnh, Lý, Tình cứ lần lượt bày ra trước mắt người đọc : Cảnh sáng trăng đẹp đẽ nên thơ trên dòng sông xuân, cái cảm khái phát sinh khi đối diện với cảnh trí đẹp đẽ nên thơ nầy và cuối cùng lồng vào cái nỗi niềm biệt ly nhung nhớ của người cô phụ và kẻ lãng tử giang hồ. Với thủ pháp trực khởi thi nhân đã vào đề bằng cách tả ngay cảnh đẹp đẽ nên thơ của vầng trăng mới mọc lên trên sông biển bằng "Giang triều liên hải, nguyệt cộng triều sinh 江潮连海,月共潮生"(Nước sông mênh mông liền với biển cả và vầng trăng nương theo sóng nước mà mọc lên)... rồi kết thúc bằng cảnh trăng tà sắp lặn khi đêm đã gần tàn trên sông nước "Lạc nguyệt diêu tình mãn giang thọ 落月搖情滿江樹". Trăng sắp rụng nhưng ánh trăng vẫn như còn trải đầy trên sông nước rừng cây...




* Diễn nôm :

                  XUÂN GIANG HOA NGUYỆT DẠ


               Nước sông xuân biển liền bằng phẵng,
               Trăng sáng như mọc thẳng từ sông,
               Nhấp nhô lắp lánh mênh mông,
               Nơi nào chẳng có trăng lồng dáng xuân.

               Sông uốn khúc qua vùng cỏ lạ,
               Trăng chiếu hoa lả chả sương rơi,
               Sương bay bay khắp muôn nơi,
               Mông lung bãi cát sáng ngời ánh trăng.

               Trời liền sông trong ngần tựa bạc,
               Một vầng trăng vằng vặc trên cao,
               Ai người ngắm trước trăng nào ?
               Trăng bên sông nước năm nào chiếu ai ?

               Người nhân thế đổi thay kiếp kiếp,
               Trăng năm năm vẫn tiệp một màu,
               Trăng ơi, trăng đợi ai nào ?
               Nước trường giang cứ dạt dào đêm đêm.

               Như mây trắng trôi êm đi mãi,
               Bến Thanh Phong cỏ ái lòng sầu,
               Thuyền người du tử về đâu ?
               Tương tư thiếu phụ bên lầu trăng soi.

               Trăng bồi hồi vàng gieo ngấn nước,
               Chiếu đài gương chênh chếch trăng treo,
               Cuốn rèm trăng chẳng cuốn theo,
               Tiếng chày giặt lụa càng gieo càng sầu.

               Ngắm trăng ở hai đầu cùng lúc,
               Cùng chẳng nghe cùng chẳng thấy nhau.
               Trăng lồng nhạn mãi bay cao,
               Cá rồng chìm nước âm hao mõi mòn.

               Đêm qua mơ hoa còn chưa héo,
               Muốn hồi gia sợ kẽo xuân đi.
               Sông xuân nước chảy liền khi,
               Đầm xuân trăng rụng khác gì nước trôi.

               Trăng nghiêng nghiêng bồi hồi sương biển,
               Bắc Nam kia vĩnh viễn hai đường,
               Theo trăng mấy kẻ hồi hương,
               Trăng tà ánh vẫn phủ sương cây rừng !
                                    Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
      
      "Xuân Giang Hoa Nguyệt Da 春江花月夜" là thi phẩm tiêu biểu cho thơ ca của buổi Sơ Đường bước vào thời kỳ Thịnh Đường. Bài thơ đã nêu lên cái đẹp thiên nhiên của đêm trăng sáng, cái ảo diệu của vầng trăng sáng đối với cuộc sống của nhân sinh, bao la của vũ trụ và khát vọng của tình yêu, mang lại cho người đọc cái lòng yêu cuộc sống và khẳng định lại cái giá trị, cái tác động của quang cảnh mùa xuân đã mang đến cho con người cái hơi thở, cái hy vọng và cái sức sống bồng bột mãnh liệt trong đêm trăng trên sông xuân. Bài thơ được đánh giá là "Dĩ cô thiên áp toàn Đường 以孤篇壓全唐. Có nghĩa : "Chỉ có một bài thơ mà đè bẹp cả toàn Đường thi". Ý muốn nói "Đây là bài thơ hay nhất của tất cả thơ đời Đường".
     Danh sĩ đời Thanh Vương Khải Vận 王闓運 đánh giá là :"Cô thiên hoành tuyệt, cánh vi đại gia 孤篇横絕,竟為大家 ". Có nghĩa : "Chỉ một bài thơ độc nhất tung hoành tuyệt đĩnh, là một Đại Gia trong thơ". Một học giả cận đại Văn Nhất Đa 聞一多 đánh giá là : "Thi trung đích thi, đĩnh phong thượng đích đĩnh phong 詩中的詩,頂峰上的頂峰". Có nghĩa : "là Thơ ở trong thơ, là Đĩnh cao trên đĩnh cao !". 



            Hẹn bài viết tới !

                         杜紹德
                        ĐỖ CHIÊU ĐỨC

     

Thứ Năm, 30 tháng 12, 2021

CỨ VUI CHO HẾT CUỘC ĐỜI NÀY - THƠ HOA VĂN

 




CỨ VUI CHO HẾT CUỘC ĐỜI NÀY 



Này người bạn hãy quên đi tất cả

Đừng hận đời dù đời có buồn thêm

Có gì đâu mà ôm mãi ưu phiền

Bạn cũng biết con người tính hơn thiệt

 

Muốn trời xanh phải chờ mây tan hết

Sau cơn mưa trời lại sáng kia mà

Có hôm nay là tích lũy hôm qua

Đâu có phải tự nhiên mà ta có

 

Bạn đã biết cuộc đời là bể khổ

Vì tình thương chưa đủ sự công bằng

Đừng làm điều sai trái phải ăn năn

Đời hư ảo muôn đời là hư ảo

 

Ta hãy sống và làm điều vương đạo

Một đời người cũng chỉ mấy mươi năm

Danh lợi bon chen sân hận lỗi lầm

Khắp mọi chốn mọi nơi đều có cả

 

Xin hãy nhớ những điều không xa lạ

Khắp đó đây kêu gọi tiếng nhân từ

Tình cho đi là một chút suy tư

Nhưng chia sớt vẫn còn nhiều dấu hỏi

 

Có nhiều lúc cuộc đời đầy tăm tối

Cũng đừng buồn quá độ - gắng lên thôi

Kiếp nhân sinh phải chịu khổ đau rồi

Dù đời sống là niềm vui có thật

 

Chữ nhân nghĩa nhắc ta lòng son sắt

Làm quân vương cũng chẳng phải muôn đời

Hay vàng son cũng chỉ tạm bợ thôi

Bạn đã biết tình thương là cao quí

 

Rồi mai mốt ta trở về nguyên thủy

Rồi thành mưa rồi thành gió thành mây

Cứ vui lên cho hết cuộc đời này

Trong đời sống đừng bao giờ nhu nhược

 

Khi vấp ngã đứng lên và tiến bước

Hãy uống vào từng ngụm ánh mặt trời

Cố cất lên từng tiếng hát lời vui

Trời nắng mãi cũng có ngày mưa hạ

 

Bạn đừng sợ khi mình gặp tai hoạ

Từ thế nhân đối xử chẳng thuận hoà

Dù người đời chưa hiểu thấu lòng ta

Đem nhân ái bao dung mà tha thứ

 

Niềm vui ấy cứ coi như đã đủ

Hãy nhìn nhau bằng ánh mắt nụ cười

Ta đối tình bằng hữu với nhau thôi

Tình yêu vẫn muôn đời là cao cả

 

Là con người chứ phải đâu gỗ đá

Có tình thương và biết quý yêu người

Vì đời người ngắn ngủi lắm bạn ơi

Chẳng mấy chốc hoá thân về cõi khác.



HOA VĂN


ANH NHỚ EM - THƠ THY LỆ TRANG, I AM MISSING YOU - HƯƠNG CAU CAO TÂN

 




ANH NHỚ EM  


Anh nhớ em dù trời mưa hay nắng  

Dù một mình hay ngồi giữa đám đông  

Tình rất gần mà cũng rất xa xăm  

Nên nỗi nhớ đong đầy từng ngày tháng  


Anh nhớ em với nồng nàn, lãng mạn  

Thủa làm học trò không sách cầm tay  

Thủa hẹn hò cùng chung một men say  

Nụ hôn ... tiếc chưa dài bằng nỗi nhớ... 


 

Anh nhớ em thân mềm như lá cỏ  

Bàn tay còn khao khát một làn da  

Vùng ngực hồng phảng phất một mùi hoa  

Trong mê đắm, anh ngỡ mình Thiên Tử  


Anh nhớ em - trong vạn ngàn mỹ nữ...  

Chỉ mình em...tha thiết mỗi em thôi  

Tình tuy gần sao lại qúa xa xôi ...  

Vì hai đứa - hai đầu sông cách trở  


Anh nhớ em ...dù biết rằng đã lỡ  

Định mệnh buồn ...chia cách một giòng sông  

Trên ngón tay em...chiếc nhẩn vô tình...  

Để anh suốt một đời ôm nỗi nhớ 


 THY LỆ TRANG



I AM MISSING YOU 

by THY LỆ TRANG 


Translated from Vietnamese into English by Hương Cau Cao Tân on 27 December, 2021, in British Columbia, Canada 

 

 

I am missing you whether it is raining or shining  

Whether by myself or in the crowd where I am sitting  

As love is very close yet is very far, far away  

So my missing and longing is measured in months and in day after day 


I am missing you for all the intense and romantic give that you can  

During the period of being students yet without a book in your hand  

Of the dating moments that we both enjoyed the taste of ecstasy  

Or kisses ... that, regretfully, were not as long as the longing in memory…  


I remember that your body is like grass’s blade so lithesome  

So to invite the hands to crave for the soft complexion  

And for the chest that has the fragrance that is so faintly pervading  

So I, in ecstasy, have thought that I am the royal King  


I remember that ... you among hundreds of thousands of beauties  

I only long for ... for your inviting soft lips so desperately  

The love between us is so close yet it seems so far away at heart...  

Because both of us are at both ends of the river so far apart 


I am missing you … even though it is now already too late  

That we are now separated by a river … oh miserable fate  

And on your finger … there is an indifferently worn wedding ring  

It is there so all my life an incessant longing will I be embracing 

 

                      HƯƠNG CAU CAO TÂN

 

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH : QUẾ , QUỐC - ĐỖ CHIÊU ĐỨC

 


THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH:  QUẾ, QUỐC.




                      
                                              Trải VÁCH QUẾ gió vàng hiu hắt...


      VÁCH QUẾ hay CUNG QUẾ là một cung điện, còn gọi là QUẾ CUNG. Theo sách Nam Bộ Yên Hoa Ký 南部煙花記 chép: Trần Hậu Chúa 陳後主 xây một cung điện sau điện Quang Chiêu 光昭 cho cung phi Trương Lệ Hoa 張麗華 ở, có một cửa tròn lớn, khảm tấm thuỷ tinh pha lê như hình mặt trăng, sau bôi phấn trắng, giữa sân rộng, trước cửa ấy chỉ trồng một cây quế, tương tự hình cây quế trong mặt trăng, như lời thế tục thường nói: "Nguyệt trung đan quế 月中丹桂". Cung ấy gọi là QUẾ CUNG 桂宮. Quế tức là cây mộc tê 木樨, tục gọi cây hoa mộc, hoa từng chùm như cái vỏ lúa, có hương thơm xa. Ở đây cụ Nguyễn Gia Thiều dùng VÁCH QUẾ để chỉ CUNG QUẾ, nơi của cung nhân có sắc đẹp được vua yêu cho ở đấy. Ngoài 2 câu thơ mở đầu cho Cung Oán Ngâm Khúc là :"Trải VÁCH QUẾ gió vàng hiu hắt , Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng " ra, ta còn gặp từ CUNG QUẾ ở câu 209 khi nàng cung nữ oán than vì đã bị thất sủng :

                   Trong CUNG QUẾ âm thầm chiếc bóng,
                   Đêm năm canh trông ngóng lần lần.
                   Khoảnh làm chi bấy chúa xuân,
                   Chơi hoa cho rữa nhuỵ dần lại thôi.

... và đến câu 237 ta lại gặp lại từ VÁCH QUẾ khi nàng Cung nữ thao thức suốt năm canh :

                      Đêm năm canh lần nương VÁCH QUẾ,
                      Cái buồn này ai dễ giết nhau.
                      Giết nhau chẳng cái Lưu cầu,
                      Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa!

     Trong sách Huấn Mông TAM TỰ KINH có câu :"Đậu Yên Sơn, Hữu nghĩa phương; Giáo ngũ tử, Danh câu dương 竇燕山 有義方 教五子 名俱揚" Có nghĩa : Ông họ Đậu ở đất Yên Sơn, có phương pháp nhân nghĩa tốt, nên dạy 5 người con trai đều thi đậu và nổi tiếng. Theo tích sau đây :

     Trong đời Ngũ Đại, có danh sĩ Đậu Vũ Quân 竇禹鈞 người đất U Châu (Bắc Kinh) ở cạnh Yên Sơn, nơi đây là đất cũ của nước Yên thời Chiến Quốc, nên mọi người gọi ông là ĐẬU YÊN SƠN, và vì ông đứng hàng thứ 10 trong gia đình nên người đời còn gọi ông là ĐẬU THẬP LANG. Nhà rất giàu có, lại có lòng từ tâm hay làm phước và giúp đỡ người nghèo. Ông bỏ tiền xây một tư thục, rồi mời thầy đồ giỏi đến dạy học cho con mình và cho cả những người nghèo ở địa phương. Gia đình trên dưới đều theo đạo nghĩa và nề nếp của Nho gia, nên 5 người con trai của ông là Đậu Nghi, Đậu Nghiễm, Đậu Khản, Đậu Nhĩ, Đậu Hi 竇儀、竇儼、竇侃、竇爾、竇僖 đều thi đỗ Tiến Sĩ và đều nổi tiếng là những ông quan thanh liêm. Quan Thị Lang Phùng Đạo đã đế thơ tặng ông như sau :

                 ... 燕山窦十郎,    Yên Sơn Đậu Thập Lang,
                     灵椿一株老,    Linh xuân nhất chu lão,
                     丹桂五枝芳。    ĐAN QUẾ ngũ chi phương.
Có nghĩa :
          Ông Đậu Thập Lang ở Yên sơn là một cây xuân già linh ứng, nên nảy ra năm cây Đan Quế đều trổ hoa thơm tho. Từ đó, trong văn học cổ...



     Các từ QUẾ, ĐAN QUẾ, QUẾ YÊN, QUẾ NON YÊN... đều dùng để chỉ có con hiền, tài giỏi và thành đạt. như trong truyên thơ Nôm khuyết danh "Phương Hoa-Lưu Nữ Tướng" có câu :

                      Rằng anh gặp khách cung tiên,
                  Đào yêu đã vịnh, QUẾ hiên mấy chồi.

       Hay như trong truyện thơ Nôm "Bích Câu Kỳ Ngộ" cũng có câu :
        
                       Trận đào vừa mách tin oanh,
                   Gốc dù sớm đã nảy cành QUẾ YÊN.

      Còn trong truyện thơ "Phan Trần" thì chỉ việc sanh được con trai tài giỏi :

                       Vườn xuân phơi phới mưa sa,
                   QUẾ NON YÊN đã nảy ra một cành !

      Song song với cây QUẾ là cây HÒE. Theo Tống Sử :  Trong sách Huấn Mông TAM TỰ KINH có câu :"Đậu Yên Sơn, Hữu nghĩa phương; Giáo ngũ tử, Danh câu dương 竇燕山 有義方 教五子 名俱揚" Có nghĩa : Ông họ Đậu ở đất Yên Sơn, có phương pháp nhân nghĩa tốt, nên dạy 5 người con trai đều thi đậu nổi tiếng. Theo tích sau đây :
     Trong đời Ngũ Đại, có danh sĩ Đậu Vũ Quân 竇禹鈞 người đất U Châu (Bắc Kinh) ở cạnh Yên Sơn, nơi đây là đất cũ của nước Yên thời Chiến Quốc, nên mọi người gọi ông là ĐẬU YÊN SƠN, và vì ông đứng hàng thứ 10 trong gia đình nên người đời còn gọi ông là ĐẬU THẬP LANG. Nhà rất giàu có, lại có lòng từ tâm hay làm phước và giúp đỡ người nghèo. Ông bỏ tiền xây một tư thục, rồi mời thầy đồ giỏi đến dạy học cho con mình và cho cả những người nghèo ở địa phương. Gia đình trên dưới đều theo đạo nghĩa và nề nếp của Nho gia, nên 5 người con trai của ông là Đậu Nghi, Đậu Nghiễm, Đậu Khản, Đậu Nhĩ, Đậu Hi 竇儀、竇儼、竇侃、竇爾、竇僖 đều thi đỗ Tiến Sĩ và đều nổi tiếng là những ông quan thanh liêm. Quan Thị Lang Phùng Đạo đã đế thơ tặng ông như sau :

                 ... 燕山窦十郎,    Yên Sơn Đậu Thập Lang,
                     灵椿一株老,    Linh xuân nhất chu lão,
                     丹桂五枝芳。    ĐAN QUẾ ngũ chi phương.
Có nghĩa :
          Ông Đậu Thập Lang ở Yên sơn là một cây xuân già linh ứng, nên nảy ra năm cây Đan Quế đều trổ hoa thơm tho. Từ đó, trong văn học cổ..




    
      Không dùng QUẾ HÒE 桂槐 thì dùng QUẾ LAN 桂蘭. Hoa Lan tượng trưng cho sự cao khiết thanh nhã của bậc quân tử, cho dù ở nơi núi sâu vắng vẻ vẫn lan tỏa mùi thơm cao khiết vương giả với câu :"Lan sanh ư u cốc vi vương giả chi hương 蘭生於幽谷為王者之香" như trong Cung Oán Ngâm Khúc Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã ví :

                        Lan mấy đóa lạc loài sơn dã,
                  Uổng mùi hương vương giả lắm thay !

      Nên QUẾ LAN 桂蘭 cũng chỉ con cháu thành đạt vẻ vang, như trong truyện thơ Nôm "Phan Trần" có câu :

                       Móc mưa nhuần gội ơn sang,
                 Nền nhân cây đức bày hàng QUẾ LAN.

     Không gọi là QUẾ LAN thì lại gọi là QUẾ TỬ LAN TÔN 桂子蘭孫, là con như hoa Quế, cháu như hoa Lan, như trong truyện thơ Nôm "Phương Hoa Lưu Nữ Tướng" :

                     Đôi sinh QUẾ TỬ LAN TÔN,
                Một mai phục dưỡng gia môn đời đời.



    Sau QUẾ TỬ LAN TÔN, ta có QUẾ TRẠO LAN TƯƠNG 桂棹蘭槳, là cột chèo bằng cây Quế, còn mái chèo bằng cây Lan mộc; Ý chỉ chiếc thuyền nhỏ nên thơ trong bài "Tiền Xích Bích Phú 前赤壁賦" của Tô Đông Pha đời Tống, mà trong bài hát nói "Vịnh Tiền Xích Bích" của cụ Nguyễn Công Trứ cũng có trích một đoạn dài :

              ...Thuyền một lá xông ngang gành bạch lộ,
                 Buông chèo hoa len lỏi chốn sơn cương.
                 Ca rằng:
                "QUẾ TRẠO hề LAN TƯƠNG ,
                 Kích không minh hề tố lưu quang.
                 Diểu diểu hề dư hoài,
                 Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương."
                 Người ỷ ca réo rắt khúc cung thương,
                 Tiếng tiêu lẫn tiếng ca vang đáy nước...

     Trong truyện thơ Nôm "Mai Đình Mộng Ký 梅亭夢記" của Nguyễn Huy Hổ trong ý niệm hoài Lê cũng có câu :

                     Này này QUẾ TRẠO LAN TƯƠNG,
                 Ví đua Xích Bích chi nhường Đông Pha.

               
       Trong văn học cổ, nói đến chữ Quốc là người ta nghĩ ngay đến QUỐC SẮC, và hễ nhắc đến Quốc Sắc thì lại nhớ ngay đến THIÊN HƯƠNG. Vậy QUỐC SẮC THIÊN HƯƠNG 國色天香 là gì ? Thì ra đó là thành ngữ dùng để chỉ hoa Mẫu Đơn theo điển tích sau đây :

      Theo Đường Thi Kỷ Sự, Quyển Tứ 唐詩紀事.卷四 có ghi lại : Đường Minh Hoàng rất sính thơ. Trong năm Đại Hòa khi đang ngắm hoa Mẫu Đơn nở rực rỡ trong cung mới hỏi kẻ thị thần rằng :"Nay trong kinh thành đang rộ lên ngâm vịnh hoa mẫu đơn, vậy khanh có nghe là thơ của ai xuất sắc nhất chăng ?". Đáp rằng :" Thơ của Trung Thư xá nhân Lý Chính Phong là được khen ngợi nhất, nhất là hai câu :

                    國色朝酣酒,  QUỐC SẮC triêu hàm tửu,
                    天香夜染衣。  THIÊN HƯƠNG dạ nhiễm y.

                Có nghĩa :
         Sắc đẹp nhất nước, hoa ửng hồng buổi sáng như đang ngất ngây vì rượu.
         Mùi thơm của trời ban, đến đêm vẫn còn vướng vít mãi trong xiêm y.

                    SẮC NƯỚC ban mai ngây ngất rượu,
                    HƯƠNG TRỜI đêm đến áo còn vương !

      Nên QUỐC SẮC THIÊN HƯƠNG là SẮC NƯỚC HƯƠNG TRỜI là thành ngữ dùng để ca ngợi và tôn vinh hoa mẫu đơn, sau dùng rộng ra để ca tụng những giai nhân tuyệt thế, mà người đầu tiên được hưởng cái vinh dự nầy chính là Dương Ngọc Hoàn : Dương Qúy Phi đó vậy ! Trong Truyện Kiều khi diễn tả Kim Kiều gặp gỡ và ngưỡng mộ nhau, cụ Nguyễn Du cũng đã viết :

                      Người QUỐC SẮC, kẻ thiên tài,
                   Tình trong như đã mặt ngoài còn e !

    ... và khi ngắm vẻ xinh đẹp của Thúy Kiều, Mã Giám Sinh đã ngầm đánh giá một cách rất hài lòng là :

                      Đã nên QUỐC SẮC THIÊN HƯƠNG,
                 Một cười này hẵn nghìn vàng chẳng ngoa.
                      Về đây nước trước bẻ hoa,
                  Vương tôn quý khách ắt là đua nhau !

       QUỐC SẮC là người đẹp nhất nước, còn QUỐC SĨ 國士 là Kẻ sĩ, là nhân tài của quốc gia. Như Thúy Kiều chẳng những là người được cụ Nguyễn Du khen là "đẹp nhất nước" (Quốc sắc) mà còn được Từ Hải xem trọng như là một "kẻ sĩ có tài" trong nước :

                       Từ rằng :"QUỐC SĨ xưa nay,
                 Chọn người tri kỷ một ngày được không ?"

      Nhắc đến QUỐC SĨ 國士 là người tài trong nước, ta lại nhớ đến QUỐC SỈ 國恥 (SỈ dấu hỏi) là Cái Sỉ Nhục cấp quốc gia, và QUỐC THÙ 國讎 là cái Thù chung của cả nước, như hai câu kết trong bài thơ "Thuật Hoài" của danh tướng Đặng Dung đời Trần :

               國讎未報頭先白,    Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
               幾度龍泉戴月磨!    Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma !
Có nghĩa :
                  Quốc thù chưa báo đầu đà bạc,
                  Mài mãi Long Tuyền dưới nánh trăng !

     Còn QUỐC PHÁ 國破 là Nước mất, từ nầy cũng thường hay đi kèm với từ GIA VONG 家亡 để tạo thành thành ngữ QUỐC PHÁ GIA VONG 國破家亡 mà ta thường nói là "Nước Mất Nhà Tan", như 4 câu đầu trong bài thơ "Xuân Vọng" của Thi Thánh Đỗ Phủ đời Đường :



                  
                   國破山河在,  QUỐC PHÁ sơn hà tại,
                   城春草木深。  Thành xuân thảo mộc thâm.
                   感時花濺淚,  Cảm thời hoa tiễn lệ,
                   恨別鳥驚心。  Hận biệt điểu kinh tâm !
      Có nghĩa :
                   Nước mất nhưng núi sông vẫn còn đó,
                   Thành vào xuân hoa cỏ vẫn xanh rì.
                   Khi cảm khái thì hoa cũng ứa lệ,
                   Hận cho nỗi biệt ly đến chim cũng kinh hoàng !
     Lục bát :
                   Nước mất nhưng núi sông còn,
                   Thành xuân cây cỏ xanh rờn khắp nơi.
                   Khi buồn hoa cũng lệ rơi,
                   Kinh hoàng ly biệt chim trời bay cao !

       Hẹn bài viết tới :
                                THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 88

                                                               杜紹德
                                                          ĐỖ CHIÊU ĐỨC