CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 10 tháng 12, 2025

NGƯỜI LỘT DỪA MƯỚN TRONG KÝ ỨC TUỔI THƠ - TỪ KẾ TƯỜNG




NGƯỜI LỘT DỪA MƯỚN TRONG KÝ ỨC TUỔI THƠ

quê tôi trước đây có nhiều nhà vườn khi giựt dừa xong, dừa khô chất đống từ ngoài sân tới trong nhà, mà nhà vườn dưới quê có từ 3-5 mẫu vườn dừa hoặc hơn thế nữa thì khi tới mùa, dừa khô phải tính thiên và phải thuê mướn người lột chuyên nghiệp.
Hàng mấy thiên dừa (mỗi thiên là 1.000 trái) chất ngập sân, ngập nhà phải mướn người lột dừa chuyên nghiệp lột trong thời gian ngắn nhất để kịp đập ra phơi nắng, hoặc sấy rồi cạy thành dừa miếng vô bao, chở bằng đò máy đi tỉnh cân bán cho các chủ dựa. Nếu để lâu dừa khô sẽ có mộng, mọc mầm nứt vỏ, nhú ra thành dừa giống thì không còn giá trị.
Lột dừa chuyên nghiệp phải có cây “cây nằm”còn gọi là “Cây dằm”, một dụng cụ không thể thiếu với công việc lột dừa trăm, dừa thiên. Cây nằm rất dơn giản, làm bằng thân cây mù u, cây dẹt, đẻo nhọn phần gốc. Bên trên gắn một mũi chỉa nhọn bằng thép dài khoảng 7cm. Cây nằm càng lâu năm càng lên nước bóng loáng được cắm sâu trên nền đất cứng ở thế nghiêng một góc vừa tầm đứng ngang thắt lưng của người lột dừa. Sao cho cây nằm đủ lực chịu và chỉ trong 3 động tác người lột dừa cắm trái dừa khô lên mũi cây nằm, nạy ngang thì trái dừa phải được lột hết vỏ thành 3 phần. Vỏ dừa đúng chuẩn phải lột đúng 3 miếng khi chủ vườn bán cho người mua vỏ dừa làm củi chụm sẽ được đếm là 1, cứ thế đếm lên thành trăm hay thành thiên vỏ dừa để tính tiền với người mua.
Do đó người lột dừa chuyên nghiệp phải lột dừa khô theo quy định này. Nếu lột trái dừa thành 4 phần vỏ hay bị bể vỏ thì mất uy tín với chủ vườn và sẽ khó được chủ vườn khác mướn. Một người lột dừa chuyên nghiệp ở quê tôi có thể sống quanh năm với nghề lột dừa, khỏi phải làm ruộng. Nên dẫu sao nghề lột dừa mướn cũng an nhàn hơn nghề cắt lúa, đập bồ, cày ruộng phơi lưng, bán mặt cho trời. Lột dừa tất nhiên được làm việc trong bóng mát, được chủ nuôi cơm, uống trà giải lao. Nếu làm ngoài giờ (làm đêm) được trả thêm tiền overnight, nhất là những đêm rằm trăng sáng công việc lột dừa dẽ có thêm thú vui, giải trí với đờn ca tài tử. Rất lãng mạn, rất vui. Và đây là hình ảnh nên thơ, những đêm trăng sáng ở miệt vườn trong vụ mùa lột dừa.
Nghề lột dừa tất nhiên chỉ dành cho thanh niên trai tráng, đàn ông khỏe mạnh, mắt rất sáng. Vì công việc đặc thù này cần phải có sức mạnh, mắt sáng để tự mình không gây thương tật, tai nạn lao động cho chính bản thân mình khi người lột dừa dùng hai bàn tay cầm ôm trái dừa khô (loại dừa ta, trái to) cắm vào đầu mủi chỉa để nạy vỏ dừa, nếu mắt lờ mờ, dễ cắm trượt trái dừa trong khi cả hai bàn tay của mình lại cắm vào mủi chỉa thì chỉ có nước bỏ nghề.
Đòi hỏi nghề lột dừa mướn khắt khe là thế, nhưng tôi lại biết có một người đàn ông trung niên ở quê tôi ngày đó sống bằng nghề lột dừa chuyên nghiệp nhưng mắt lại… mù mờ không thấy đường do bị tật bẩm sinh. Cả hai con mắt đều lộn tròng, tức tròng trắng nhiều hơn ròng đen, mỗi lần nghe ai hỏi đều phải ngước ngước hai mắt, nghiêng nghiêng đầu để nhìn người đối diện qua giọng nói, còn nhìn có thấy rõ không thì tôi hoàn toàn không biết. Người lột dừa chuyên nghiệp, bị di tật mắt bẩm sinh này là chú Tám Đạo, chú mất lầu rồi, có khi trong chiến tranh. Sau năm 1975 tôi về quê không còn gặp chú Tám Đạo nữa, nhưng hình ảnh chú thì tôi nhớ rất rõ, không thể quên được. Bởi lẽ, chú Tám Đạo khi còn sống, giữa chú và tôi có nhiều kỷ niệm do chú là thầy dạy tôi ca vọng cổ sáu câu và bài bản vắn của đờn ca tài tử trong những mùa nghỉ hè, và trong những đêm trăng lột dừa có tổ chức văn nghệ.
Chú Tám Đạo ngày đó khoảng 40-45 tuổi, người thấp, đậm, rất hiền từ, tôi chưa thấy chú nóng giận hay lớn tiếng với ai bao giờ. Ngoài tài lột dừa chuyên nghiệp, chú Tám Đạo là “vua” đàn ghi ta phím lõm và đàn kìm, chú ca vọng cổ hay bài bản vắn cũng rất hay. Ngón đàn của chú Tám Đạo thật điêu luyện, và cho dù trong buổi đờn ca tài tử chú thủ cây ghi ta phím lõm hay cây kìm, chú luôn giữ song lang. Tôi nhớ mỗi lần khi chú Tám Đạo “rao đàn” để tôi ca, lúc chú nhịp chân gõ song lang cái cốc chú vừa mỉm cười vừa hối tôi “Vô đi mày”.
Nhưng tài nhất là khi chú Tám Đạo lột dừa. Một mình chú “mão” luôn mấy thiên dừa của chủ vườn không cần ai phụ giúp. Một tay chú Tám Đạo cắm cây nằm ngập sâu vào đất, lắc lắc thử dộ nghiêng vừa tầm, và động tác mạnh mẽ, dứt khoát khi hai bàn tay gân guốc của chú cầm trái dừa khô thật to cắp phập vài mũi nằm “y như để”, không sai, không trượt một ly. Và thật nhanh gọn, chỉ trong 3 động tác nạy trái dừa khô, miếng vỏ dừa được lấy ra nguyên vẹn không bị bể. Chú lột dừa phải nói là “thần sầu” một người lột dừa chuyên nghiệp sáng mắt lột không điêu luyện bằng chú.
Gần 50 tuổi chú Tám Đạo không vợ con, ở một mình. Chú có tài đàn, ca vọng cổ rất mùi, lột dừa nhanh và đẹp như múa. Ăn nói có duyên và thật bất ngờ, chú Tám Đạo cũng rất đào hoa. Một lần chú kêu tôi tới nhà mà theo lời chú là “để nhờ chút chuyện”. Chú với tôi thì đâu có chuyện gì ngoài chuyện chú luyện giọng, tập nhịp cho tôi ca vọng cổ và mấy bài bản vắn 3 nam 6 bắc như xuân tình, tây thi, nặng tình xưa, lý con sáo, sơn đông hướng mã, thủ phong nguyệt, xàng xê… Nhưng hôm đó khi tôi đến chú không dạy tôi ca, tập nhịp mà nhờ tôi… viết thư tình gửi cho chị Thắm, một cô gái rất đẹp, da trắng, tóc dài, mắt đen láy vẫn thường ngồi nghe chú Tám Đạo đàn vọng cổ hoặc xem chú lột dừa bằng ánh mắt trìu mến, say mê.
Tôi vẫn còn nhớ giọng chú Tám Đạo khi thố lộ điều này với tôi, giọng chú rất tội nghiệp:
- Mày học ca tài tử tao dạy mày thì tao là thầy. Tao hãnh diện vì có đứa học trò ca hay, ca mùi, học ít biết nhiều như mày. Nhưng từ giờ trở đi, mày viết thư tình giùm tao thì mày là thầy của tao. Nếu chuyện của tao thành công thì khi tao làm đám cưới với cô Hai Thắm mày cũng có công làm ông mai, được ăn đầu heo nghen mày.
Tôi cười cười, hỏi chú Tám Đạo muốn nói với chị Hai Thắm như thế nào cứ tự nhiên, tôi sẽ theo đó viết ra thành bức thư tình và chuyển cho chị Thắm. Nào ngờ, tôi lại là đầu mối, giúp chị Thắm viết thư trả lời cho chú Tám Đạo, thư đi, tin lại đều do tôi “đạo diễn”. Không biết cuộc tình này rồi có thành công hay không khi những năm sau đó do chiến tranh khốc liệt tôi không về lại quê nhà trong những dịp nghỉ hè nữa.
Và khi tôi trờ lại quê nhà sau năm 1975, có ý tìm chú Tám Đạo để thăm thì mới biết tin chú đã mất. Còn chị Thắm thì đi đâu biệt tăm. Có người nói chị Thắm theo chồng ra nước ngoài. Nếu đúng như vậy thì chú Tám Đạo-người lột dừa mướn tài hoa trong ký ức của tôi đã không tìm được hạnh phúc và sống trong cô độc cho tới lúc chết.


TỪ KẾ TƯỜNG

Thứ Ba, 9 tháng 12, 2025

QUỲNH - THƠ NGUYỄN GIA KHANH





 QUỲNH…!

(Thuận-Nghịch độc)
Song cài bóng nguyệt khiến quỳnh mơ
Cảnh với tình sao khó hững hờ
Lòng dậy sóng yêu nà nuột dáng
Bút hòa hương mộng dạt dào thơ
Hong vàng ánh ngọc trăng sờ sững
Xõa trắng chùm huê cánh thẫn thờ
Phòng thoảng khẽ đưa mùi tỏa ngát
Trong ngần sắc tục… khách hồn trơ.
Đọc ngược:
Trơ hồn khách tục… sắc ngần trong
Ngát tỏa mùi đưa khẽ thoảng phòng
Thờ thẫn cánh huê chùm trắng xõa
Sững sờ trăng ngọc ánh vàng hong
Thơ dào dạt mộng hương hòa bút
Dáng nuột nà yêu sóng dậy lòng
Hờ hững khó sao tình với cảnh
Mơ quỳnh khiến nguyệt bóng cài song.


NGUYỄN GIA KHANH

Thứ Hai, 8 tháng 12, 2025

DZÁCH CÔ XÍU MẠI , LƯỢNG CÔ TÀI PÁO - ĐỖ CHIÊU ĐỨC

 Đó là câu order thường nghe thấy nhất của các Chú Ba sau khi uống cà phê sáng xong mua về cho vợ con ở nhà :”Dzách cô Xíu Mại, Lượng cô Tài Páo 一個燒賣,兩個大包”. Có nghĩa :”Một cái Xíu Mại, hai cái Bánh Bao lớn!”.

– XÍU MẠI 燒賣 ta đã biết ở bài viết trước rồi. Một cái Xíu Mại thường có 4 viên, có thể ăn chơi hoặc ăn với cháo trắng. Còn…

– BÁNH BAO thì BAO 包 là phát âm của tiếng Tiều Châu, còn tiếng Quảng Đông thì gọi là PÁO. Nên TÀI PÁO 大包 là Bánh Bao loại lớn để ăn cho no. Nói thêm về âm TÀI của tiếng Quảng Đông là phát âm của từ ĐẠI 大 là LỚN. Trái với lớn là NHỎ, chữ Nho là TIỂU 小, âm Quảng Đông là XIỂU, nên mới có môn chơi cờ bạc TÀI XIỂU 大小 với 3 hôt xúc xắc có số từ 1-6. Hễ tổng số của 3 hột xúc xắc từ 3-10 là XIỂU; Còn từ 11-18 là TÀI. Rất nhiều người đã tán gia bại sản về môn TÀI XIỂU nầy. Nhưng TÀI XIỂU là từ chỉ về Số Lượng NHIỀU ÍT, còn nếu nói về chất lượng hoặc LỚN NHỎ thì âm Quảng Đông là TÀI XÂY 大細; Nên trái với TÀI PÁO 大包 là Bánh Bao Lớn, ta có XÂY PÁO 細包 là Bánh Bao Nhỏ. Và… Bánh Bao Nhỏ cũng có 2 loại :

  bánh bao ca dé (ngọt)

    * Loại NGỌT có CA DÉ PÁO : CA DÉ là âm Quảng Đông của từ GIA DA 加椰, GIA là Thêm, DA là Dừa. Nên GIA DA có nghĩa THÊM DỪA vào. Đây là một loại nước sauce do Nước cốt dừa, trứng và đường đánh cho sệt lại mà thành, vừa có màu vàng đẹp, vừa béo vừa ngon mà ăn không thấy ngán, dùng làm nhưn cho bánh bao ngọt rất ngon.

* Loại MẶN có XÁ XÍU PÁO. XÁ XÍU là âm Quảng Đông của từ XOA THIÊU 叉燒 là Thịt heo ghim thành từng xâu để nướng. Nên XÁ XÍU PÁO là Bánh Bao có nhưn là thịt Xá Xíu. Nhớ…

     Hồi còn thanh niên, các bạn hay nói đùa với nhau cho vui là : Các bà các cô khi còn là con gái thì là XÂY PÁO (Bánh bao nhỏ), đến khi có chồng có con rồi thì là TÀI PÁO (Bánh bao lớn), đến lúc gìa thì sẽ trở thành CHẢY XỆ… PÁO như cái Bánh Bao Chiều ! Nghe câu nói đùa đó, mọi người đều cười ồ vui vẻ !

– XÁ XÍU là XOA THIÊU 叉燒. XOA là Cây chỉa (Quỷ Dạ Xoa là chữ XOA nầy), ở đây có nghĩa là Cây NĨA hay cây sắt có đầu nhọn dùng để ghim thịt. THIÊU là Đốt, là Quay, là Nướng. Nên XOA THIÊU (XÁ XÍU ) là Thịt heo được ghim thành từng ghim hay móc vào móc sắt để nướng. Thịt thường dùng là thịt nạc vai, thịt nuột lưng… ướp mật ong, ngũ vị hương, xì dầu, chao, tương đen, bột màu điều và rượu… Thịt nướng xong có sắc đỏ nâu tươm mỡ trông rất ngon lành và lại bay mùi thơm phức. XÁ XÍU có thể cho ta thêm nhiều món ăn phụ như : Bánh bao Xá xíu nói trên, Bánh Mì Xá xíu, Cơm Xá xíu, Mì khô Xá xíu, Xôi Xá xíu… Nói thêm cho rõ…

– BÁNH BAO âm Quảng Đông là PÁO CHẨY 包仔. Còn…

– BÁNH MÌ âm Quảng Đông là MÌM PÁO, chữ Nho là MIẾN BAO 麵包. MIẾN là Bột Mì, nên MIẾN BAO là Loại bánh được làm bằng Bột Mì của lúa Mạch theo kiểu Tây. Còn…

– MIẾN mà ta còn gọi là Bún Tàu, làm bằng bột khoai lang, bột dong, bột đậu xanh, bột khoai mì (Bột Sắn, Tapioca) sợi nhỏ mà trong suốt. Ta  thường dùng để nấu với soup gà, gọi là Miến Gà đó, là từ NÔM hoàn toàn không liên quan gì với “Gốc HOA” cả !

Trong Tiệm Nước còn có một món ăn rất đặc biệt, thơm phức và giòn tan, có thể chấm vào cà phê sửa, cũng có thể chấm vào Hủ Tíu Mì, hay ăn cặp cùng Xíu Mại Nước, Cháo lòng… cũng rất ngon. Đó chính là GIÒ CHÁ QUẪY !

Ba chữ “GIÒ CHÁ QUẪY” là phát âm theo tiếng Quảng Đông của 3 chữ DU TRÁC CỐI 油炸檜 Có nghĩa đen thui như sau : DU 油 là Dầu, là Mỡ. Chữ 炸 khi đọc là TẠC thì có nghĩa là Nổ tung, như TẠC ĐẠN 炸彈 là Trái lựu đạn; khi đọc là TRÁC thì có nghĩa là “Chiên cho nở bung ra”. CỐI 檜 là TẦN CỐI 秦檜. Nên…

– DU TRÁC CỐI 油炸檜 có nghĩa là “Chiên cho Tần Cối nở bung ra.” Theo truyền thuyết như sau :

 Tương truyền người đất Lâm An thích món ăn dùng bột chiên cho phồng lên thật giòn như Bánh Tiêu để ăn. Nhưng sau khi danh tướng Nhạc Phi đời Tống bị vợ chồng Thừa Tướng Tấn Cối cùng nhau sàm tấu hại chết ở Phong Ba Đình thì họ mới dùng bột năn thành hình tượng của hai người, một nam một nữ dính chặc nhau như bị trói rồi bỏ vào chảo dầu chiên cho phồng lên để… Cắn Ăn cho… hả giận. Sau vì nắn thành hình như người rất mất thời gian, nên chỉ nắn thành hai thanh bột dài để tượng trưng mà thôi. Nên…

– DU TRÁC CỐI 油炸檜 là “Dùng dầu để… chiên giòn vợ chồng Tần Cối” Vì âm chữ CỐI 檜 và chữ QUỶ 鬼 trong tiếng Quảng Đông gần giống như nhau, nên cả người Hoa ở Chợ Lớn sau nầy cũng gọi DU TRÁC CỐI 油炸檜 là DU TRÁC QUỶ 油炸鬼! Nói chi đến người Việt ta chỉ nhại theo âm của Tiếng Quảng Đông trong Chợ Lớn để gọi trại đi, nên gọi là “Dầu Chá Quẩy”, “Giò chéo Quẩy”, “Dầu Cha Quảy”… gì gì… đều đúng cả !

Sẵn kể hầu qúy vị một câu đối rất hay, rất vô tư, nhưng lại rất xác đáng và thi vị về trước ngôi mộ của danh tướng Nhạc Phi…

Tương truyền trước sân mộ của Nhạc Phi ở Hàng Châu có đúc hình của vợ chồng Tần Cối qùy trước mộ như để tế bái và để ăn năn xám hối. Mỗi lần dân chúng đi ngang qua đều khạc nhổ lên hai bức tượng đó. Một nữ danh sĩ ẩn danh của xứ Tùng Giang đời Nam Tống đã đề câu đối sau đây trước mộ :

青山有幸埋忠骨,     Thanh sơn hữu hạnh mai trung cốt,

白鐵無辜鑄佞臣.     Bạch thiết vô cô chú nịnh thần.

Có nghĩa :  – Núi xanh có được cái may mắn (hữu hạnh) là dùng để chôn nắm xương của người trung thần; Còn…đống sắt trắng kia vô can (vô cô là “khi khổng khi không”) lại bị đúc thành hình của kẻ nịnh thần (để cho người đời phỉ nhổ !). Thật…

Hạnh phúc thay cho núi xanh, và cũng “oan ức” thay cho sắt trắng !

                           Núi xanh có phước chôn trung nghĩa;

                                Sắt trắng vô can đúc nịnh thần !


        
                                            杜紹德
                                      ĐỖ CHIÊU ĐỨC
                                                                                                    

 

Chủ Nhật, 7 tháng 12, 2025

GÓC TRỜI - THƠ LÊ KIM THƯỢNG

 


GÓC  TRỜI


1.

 

Dòng sông con nước đầy vơi

Quê hương là một góc trời tươi xanh

Làng quê bình dị, an lành

Mà trong nỗi nhớ đã thành thân thương

Quê hương một nắng, hai sương

Nhớ người xa xứ, tha phương chưa vừa

Quê hương mưa nắng hai mùa

Đầy vơi con nước, bóng dừa tươi xanh

Nhà quê vách đất, mái tranh

Giàn bầu, giàn mướp, cây chanh, cây cà

Người quê tình nghĩa bao la

Hiền hòa, mộc mạc, đậm đà, sắt son

Chiều buồn ngồi ngắm hoàng hôn

Mà lòng sao cứ bồn chồn, xuyến xao

Mùi hương lúa chín ngọt ngào

Màu lam khói bếp quyện vào câu thơ…

 

2.

 

Dòng sông vẫn chảy đôi bờ

Nhớ người xa xứ bơ vơ biệt biền

Tôi đi cuối đất cùng miền

Yêu quê, yêu đất gắn liền tim gan

Nhớ quê nỗi nhớ khô khan

Buộc vào đêm lạnh gian nan chòng chành

Thời gian gõ nhịp tàn canh

Đêm dài nỗi nhớ đọng thành trăng suông

Nửa đêm trời đổ mưa tuôn

Câu thơ ướt đẫm, nỗi buồn lặng thinh

Buồn vui ngẫu hứng tự tình

Câu thơ dang dở lòng mình chát chua

Bên thềm cơn gió thoảng đưa

Bỗng dưng nhớ Mẹ nắng mưa võ vàng

Cuộc đời rồi cũng sẽ tàn

Tôi thành kẻ chết lâm sàng… trong thơ…

                      

              Nha Trang, tháng  12. 2025

                  LÊ KIM THƯỢNG      


Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2025

CON DẾ HUẾ - PHAN NI TẤN





 CON DẾ HUẾ

    Huế năm nào mà không lụt. Trời hành cơn lụt mỗi năm đó thê. Mà năm ni 2025 không riêng chi Huế, cả nước Việt Nam đều lụt. Nhớ nhất là năm 1964, ba cơn bão lịch sử Iris, Joan, Kate hay Két chi đó hùa nhau gây thiệt hại nặng nề cho Huế, lũ hắn cướp đi sinh mạng của sáu, bảy ngàn người và cả ngàn gia đình mất nhà mất cửa. Thương dân tình lâm cảnh hoạn nạn đã đành, tôi thương luôn cả bầy gia súc hiền lành vô tội vạ; trâu bò, heo, dê, gà, vịt, chó, mèo… trôi lềnh bềnh, nhất là mấy chú dế than, dế lửa cất trong ba cái hộp quẹt giấy của tôi để dưới gầm giường, đêm đêm nghe hắn gáy ru tôi vào giấc ngủ mộng mơ. Nhớ có lần gặp lụt tôi mới có 9 tuổi, trèo lên rầm thượng mà tiếc ba con dế chết đuối quá chừng.

    Trời sinh con dế để…người lớn ăn và để trẻ con tụi tôi chơi đá dế, một trò chơi hồn nhiên nhất của tuổi thơ. Dế thì ở đâu mà không có. Có đất, có đá, có cỏ, có hang là có dế. Dế trống, dế mái, dế than, dế lửa, dế cơm, dế chó, dế nhũi, dế ma, dế mọi, dế mèn…đâu đâu cũng có. Nhóc! Huế của tôi cũng thiếu chi, dế gáy điếc cả tâm hồn tuổi thơ trong veo véo của tôi một thời đó nờ. 

    Nhưng mà Huế ơi! Huế có còn ai nhớ cái làng Hà Khê sau chùa Linh Mụ không? Hồi xưa Ba Mạ tôi ở làng nớ. Chùa Linh Mụ gắn liền với Huế tuy hai mà một thì làng Hà Khê và chùa Linh Mụ tuy hai cũng là một luôn. Ở đó thiếu chi dế. Dưới Hà Khê hay trên chùa Linh Mụ đều có dế. Vạch bụi cỏ, vẹt đám lá khô, lật mấy cục đá là có dế, không cần đợi hắn gáy mới biết. Nhưng bắt dế ở làng Hà Khê thì được, chớ dế ở chùa Linh Mụ là… dế của Phật, của các sư. Nhớ hoài có lần hai anh em tôi bắt được con dế cồ dưới chân tháp Linh Mụ, đang hí ha hí hửng thì – hình như là thầy Trụ Trì từ tốn bước tới, tay lần chuỗi miệng khuyên các con là Phật tử không nên băt dế… của chùa, thả dế đi các con sẽ được phước. Dù tiếc đứt ruột anh em tôi cũng lắm lét thả chú dế lửa về miền tự do.

    Rồi tôi theo gia đình lìa xa Huế lâu đến nỗi tôi quên cả đường về quê Huế xưa; có gần bảy chục năm chớ ít ỏi chi. Chừ thì tôi… trên đầu già đến rồi tưởng không còn chi để nhớ. Người ta nói người già ít ngủ mơ, rứa mà có lần nằm mơ tôi thấy mình già đầu vẫn giành chơi đá dế với mấy đứa con nít dưới xóm Hà Khê. 

    Bây giờ là mùa đông, mới đầu tháng 11 mà tuyết đã rơi trắng trời trắng đất của xứ Lá Phong tôi. Ngồi co ro bó gối trong nhà rảnh rỗi không biết mần chi bèn bổn cũ soạn lại kể Quí vị nghe chuyện dế. Có điều, dế có hàng trăm hàng ngàn loài dế, kể sao cho hết. Nhưng gần gũi nhất là mấy chú, mấy thím dế dưới đây:

Dế cơm

    Tôi không biết tại sao con dế cơm lại có tên là... dế cơm. Nó có giống... hột cơm xí nào đâu. Hay là dế cơm có thân mình trăng trắng, mấy cái chân của nó cũng có đốm trăng trắng nên người ta đem nướng ăn với cơm bèn gọi nó là dế cơm? Đã vậy nó thuộc giống bự chảng, bự nhất trong tất cả loài dế. Nó to cỡ ngón chân cái, to gấp ba lần chú dế cồ. Nội cái giò của nó búng "pặt" một phát, chú dế lửa nổi tiếng hung hăng nhất loài dế đá cũng bị bắn văng xa... cả cây số.

Hồi nhỏ, con nít Huế tụi tôi không ai bắt dế cơm cho đá lộn; cũng không phải để... nướng ăn như người ta. Í ẹ. Có lần theo Ba Mạ lên Bản Thuột chơi, chính mắt tôi thấy thằng Đê con trong buôn Cô Thôn chợp được chú dế cơm liền ngắt đầu, lặt cánh, "bọp" lòi ruột xong nó làm bộ đưa con dế vô miệng nhai nhai cho tôi sợ để nó khoái chí cười chơi. Thật ra sau đó nó lấy que xuyên bụng dế đem hơ lửa cho chín xong vừa chu mõ thổi phù phù vừa nhai rào rạo ngon lành. Thằng ni còn khoe nó từng ăn rắn, rít, bò cạp, ếch, nhái nướng trui. Hồi đó dân Huế tụi tôi sức mấy có thằng nào dám... "rừng" như thằng này.

Ra đồng ra ruộng lật cục đất lên thấy chú dế cơm là tôi nghĩ ngay tới thằng Đê dễ sợ nớ. Nói không ai tin, có lúc bất ngờ gặp phải anh dế cơm bá đạo thấy tôi con nít con nôi vô hại nó bèn nghênh mặt dòm lên thấy bắt ghét. Nếu con dế cơm biết "xì" thì nó cũng xì một phát rồi... phủi đít lững hững bỏ đi.

Dế chó

    Cũng như dế cơm, không biết tại sao con dế chó có tên là... dế chó. Nó có giống xí xì xi nào hình dáng của con gâu gâu mô!? Ngay cả con mắt, cái mũi, cái lưỡi, cái tai, cái móng chân hay sợi lông đuôi cũng không mảy may tương cận nữa là! 

Ngoài dế chó mình mẫy đen thủi đen thui còn có dế chó mình đen, đầu đỏ. Trẻ con tụi tôi thấy nó còn không thèm dòm, ở đó mà bắt chơi. Nó nhỏ xíu hà. Đâu chừng 1 hoặc 2cm là cùng. Sau này nghe nói dế chó dùng để nuôi chim chóc hay làm mồi câu. Tội nghiệp cái kiếp... dế chó.

Dế mèn

    Nói tới dế mèn người ta thường nhớ tới câu chuyện Dế Mèn Phiêu Lưu Ký của nhà văn Tô Hoài, một loại truyện ngụ ngôn thật hay, hoặc ư ử bài hát thiếu nhi Thằng Cuội của nhạc sĩ Lê Thương mộc mạc dễ thương từ âm điệu tới lời ca. Tội nghiệp ông nhạc sĩ nhân từ. Thương thằng Cuội cô đơn ngồi ôm một mối mơ nên tác giả nhét vô bản nhạc đủ thứ món trên trời dưới đất, từ bóng trăng, ngọn gió, cây đa, ánh sáng cho tới cái thang, trong đó "có con dế mèn, suốt trong đêm khuya, hát xẩm không tiền, nên nghèo xác xơ".

Vậy dế mèn là dế gì, ai mà không biết. Đây nè:

    Dế mèn là chú dế có hình dáng nhỏ xíu xìu xiu, thân dẹt, râu dài, thường có màu tro. Hồi đó trẻ con tụi tôi sợ quê nên không đứa nào chơi dế mèn. Hầu hết ở đâu cũng thấy nó: đồng ruộng, bụi cỏ, đống đá, hang hóc, góc nhà.... Dế mèn thường sống về đêm, con trống có tiếng gáy rỉ ra, rỉ rích dai dẳng suốt canh khuya để dụ con mái.

Dế Nhũi

    Dế nhũi còn gọi là dế trũi là thứ dế trẻ con tụi tôi ghét nhất, vì nó có hình dạng xấu xí nhất trong các loài dế. Thân dài khoảng 3 tới 5cm, mắt tròn tròn, hai chân trước như hai cái xẻng đào đất cát để nhũi xuống trốn kẻ thù nên gọi là dế nhũi. Dế nhũi thường ở dưới đất, trong các hang động nên ít khi thấy, chúng thường kiếm ăn ban đêm.

Dế đá

    Hồi nhỏ, ngoài các trò chơi như "Rồng rắn lên mây, bịt mắt bắt dê, u mọi, ô quan, đánh thẻ, thảy lỗ, tạt lon, tạt hình, búng thun, chọi đáo, bắn bi, đánh trõng, đá cầu v.v... , đá dế là môn trẻ con tụi tôi đứa nào cũng mê tít thò lò. Đi học về là quăng cặp sách ôm hộp dế chạy đi chơi đá dế với đám con nít quỉ hàng xóm

    Phải nói dế than dù to con hơn nhưng không ngon bằng dế lửa. Vì ít khi bắt được dế lửa. Dế lửa đã hiếm mà xung trận lại hăng hơn dế than, hầu như đá đâu thắng đó. Dế cũng giống như... người, trước khi xáp -lá -cà có nhiều chú dế hù địch thủ bằng cách nhe càng, gáy ren rét, toàn thân giựt giựt thị oai. Ê càng hay thua thì xoay đầu bỏ chạy, thắng thì dế nhà ta phùng cánh gáy vang lừng. Không có gì hấp dẫn cho bằng tiếng dế gáy "rét rét rét" lúc thắng trận.

    Dế đá có hai lớp cánh xếp gọn gàng đẹp mắt trên lưng, phủ từ ngấn cổ xuống đít. Dế màu đen thì gọi là dế than. Dế màu lửa thì gọi là dế lửa. Ông bà mình nhìn mặt đặt tên không trật cái chỗ mô. Cặp cánh phía ngoài dầy và khá trong suốt. Lúc gáy hai cánh phùng lên cọ vào nhau liên hồi tạo nên âm thanh "rét rét" nghe đã cái lỗ nhĩ.

    Dế mà mất lớp cánh phía trong thì gọi là dế trục. Không những không tổn hại chi tới dế mà nhiều khi càng..." trục" càng dễ nổi khùng, đá rất hăng. Tui có thằng bạn học tên Sơn khoái chơi dế trục nên chết danh "Sơn trục". 

    Hình như dế gáy bất kể giờ giấc. Dế gáy lúc tinh sương, hay giữa trưa hè nắng gắt, gáy lúc chiều tà hay đêm khuya lơ đều làm cho trẻ con tụi tôi không ngớt xốn xang, háo hức. Đặc biệt là tiếng "chịch mái". Nghe tiếng "chích chích" đều đều, liên tục là biết anh dế trống đang "dê" chị dế mái. Lúc "dê", hai cái đít anh chị cạ vào nhau trông thiệt ngộ. Dế trống không có hai cái kim nhọn ở đằng đít như dế mái. Hai cái kim đó để cắm xuống đất khi dế mái đẻ con. Trời sanh nhiều cái thiệt ngộ hè.

    Tuổi thơ tôi ở Huế có nhiều bạn bè. Nghĩ mà thắc cười. Trong băng thằng nào cũng có hỗn danh để gọi. Anh tôi có gương mặt dài như mặt ngựa, coi già già thì tụi hắn đặt tên là Khánh già. Tôi mắt hí chết danh Hòa hí. Quế mập xịt thì gọi là Quế ù. Vì là hàng xóm nên tụi tôi đi học cũng rủ nhau đi, về cũng chờ nhau về, chơi trò chơi gì cũng có mặt, nhất là đi bắt dế. 

Bắt dế có nhiều cách: bỏ kiến bù nhọt hoặc đổ nước xuống hang, một chặp sau dế nhà ta bị kiến cắn hoặc ngộp nước là trồi đâu lên ngay. Dế bắt được đem về đựng trong hộp bánh bích quy hoặc trong lon sữa bò hay trong hộp quẹt giấy. Thức ăn của dế thường là cỏ, giá sống, rau sam, bánh mì, cơm nguội. 

    Tôi thật sự không biết Huế bây chừ thay da đổi thịt ra răng, nhưng thập niên 1950, 1960, khu vực bao quanh tỉnh Thừa Thiên, Huế có nhiều rừng và núi. Biết rứa song dĩ nhiên dấu chân tuổi thơ tụi tôi đi bắt dế cũng chỉ quẩn quanh trong làng trong xóm chớ có dám đi mô xa. Mỗi lần bắt được dế tôi khoái chí tủm tỉm cười hoài. Đêm đêm nghe hắn ngứa cánh hồn nhiên gáy rèn rẹt trong lon sữa bò là tôi… xuất hồn một khi. Ấy rứa mà có lần tôi lớ quớ thò tay vô lon sữa bò bắt dế ra đá bị nó cạp cho một phát la làng. Đau toé khói tôi rút tay ra vẫy mạnh một cái ra gì. "Bịch!". Vừa rẫy rẫy ngón tay tui vừa nhìn xuống đất thì ôi thôi chết cha con dế của tôi rồi. Thuở đời nay, con ruồi con muỗi tôi còn không dám giết huống hồ con dế thân yêu. Thấy nó bẹp di mà tôi ngẩn ngơ tiếc đứt ruột. 

    Chuyện mới đó thoắt một cái đã xuýt xoát 70 năm trời. Ngày nay tôi đã lưu lạc xứ người, xa Huế của tôi đến nửa vòng trái đất. Đôi khi ngồi một mình nhớ lại chuyện đời xưa tôi không biết ông anh Khánh già của tôi và hồn mấy con kiến, con dế đang làm gì. Nhưng tôi biết chắc một đìều khi gặp lại nhau, bằng một trái tim dịu dàng, trong sáng và chân thành họ đều gợi đến sự cảm thông, tha thứ cho nhau, cùng nhau san sẻ niềm hạnh phúc trên thiên đàng.

    Trong thi ca Việt Nam, có những câu thơ nói về con dế thiệt hay mà cũng thiệt bồi hồi:

Con dế vẫn là con dế ấy

Hát rong bờ cỏ giọng thân quen (Tô Thùy Yên)

Nghe con dế gáy sao em thương cái góc nhà (Cao Huy Khanh) 

Vì lý tưởng du dương bất tử

Con dế thất tình vấp phải giọt sương (Phan Huyền Thư).


PHAN NI TẤN


Thứ Năm, 4 tháng 12, 2025

PHONG KIỀU DẠ BẠC - TRƯƠNG KẾ ,ĐÕ CHIÊU ĐỨC DIỄN NÔM



 


Góc Đường Thi :  
   
                                 PHONG KIỀU DẠ BẠC   
                                              Trương Kế


        Tương truyền, khi làm xong 2 câu đầu của bài "Phong Kiều Dạ Bạc 楓橋夜泊" nầy là :

               月落乌啼霜满天,    Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên,    
               江枫魚火對愁眠.    Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên.  

     … thì nhà thơ Trương Kế 張繼 (715~779) của ta bí lối, bí vần, "bí xà lù"... không biết phải làm tiếp 2 câu kế như thế nào, nên cứ trằn trọc mãi, không ngủ được. Thời may, từ đâu vọng đến tiếng chuông chùa trên núi Hàn San gần đấy, làm cho ông xúc cảnh sinh tình mà hạ nốt 2 câu chót rất bất hủ là :

              姑蘇城外寒山寺,    Cô Tô thành ngoại, Hàn San tự,               
              夜半锺聲到客船.    Dạ bán chung thinh đáo khách thuyền.    
              
       Tiếng chuông vừa khuấy động không gian tĩnh mịch của đêm thanh, vừa như cảm thông với người lữ thứ cô đơn mà vọng đến để an ủi, dỗ dề....Nhưng, tại sao giữa đêm khuya (dạ bán : là nửa đêm) lại có tiếng chuông chùa vọng đến thế kia ? Thường thì rựng sáng chùa mới có hồi chuông công phu, sao chùa Hàn San lại công phu giữa đêm. À, thì ra lại có một câu chuyện giai thoại văn chương như thế nầy :


                  
       Tương truyền, đêm hôm ấy, khoảng mùng 3, mùng 4 gì đó, nên vành trăng non đầu tháng treo lơ lửng trên không, khiến cho Sư Cụ trong chùa ngắm trăng rồi xúc động mà ngâm thành 2 câu thơ sau :

              一片玉弧分两段,   Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn,    
              半沉水底半浮空.   Bán trầm thủy để, bán phù không.         
    Có nghĩa :
             Một cây cung bằng ngọc, được chia ra làm 2 đoạn. Một nửa chìm dưới đáy nước, một nửa nổi ở trên không trung. Ý thơ hay quá, vì 2 mảnh trăng lưỡi liềm, một trên trời, một dưới nước, nếu ráp lại với nhau thì như là một vành cung bằng ngọc.
       Nhưng, khổ nỗi, là thầy cũng không tìm ra được 2 câu nối để hoàn tất bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt. Nên chi, thầy không ngủ được, thao thức mãi mới bật dậy đi quanh chùa, tình cờ thầy gặp một chú Tiểu cũng đang thơ thẩn cạnh hồ sen. Sau phút ngạc nhiên, hỏi ra, thì ra chú Tiểu ta cũng thấy trăng non mà xúc động nên làm ra 2 câu thơ, và cũng không tìm được 2 câu nối, nên cũng không ngủ được mà còn thơ thẩn ở đây. Quả là sự ngẫu nhiên trùng hợp. Sư Cụ mới bảo chú Tiểu đọc ra 2 câu thơ đó xem sao. Chú Tiểu bèn đọc là :

               初三初四月朦朧,   Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung,        
               半似银钩半似弓.   Bán tự ngân câu, bán tự cung.            
     Có nghĩa : 
               Mùng 3 mũng 4 ánh trăng còn mông lung mờ ảo, Nửa giống như là cái móc bạc, nửa giống như là cánh cung...                         

  ... thì cũng vừa vặn ráp với 2 câu của Sư Cụ thành một bài Tứ Tuyệt như sau :

                初三初四月朦朧,    Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung,           
                半似银钩半似弓.    Bán tự ngân câu, bán tự cung.               
                一片玉弧分两段,    Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn,    
                半沉水底半浮空.    Bán trầm thủy để, bán phù không. 
      Có nghĩa :
                    Mùng ba mùng bốn trăng mờ,
                Nửa như móc bạc nửa ngờ cánh cung.
                    Ngọc bình hai nửa chia phân,
                Nửa chìm đáy nước nửa phần trời cao.        

       Hay quá, lại vừa đúng niêm luật, lại vừa đúng vận, thành một bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt hoàn bích. Sư Cụ mới bảo với chú Tiểu là : Không biết sau nầy thầy trò ta có cùng tu thành chánh quả hay không, chứ hiện nay thì thầy trò ta đã cùng gặp nhau trong văn chương rồi, âu đây cũng là ý của Phật Tổ chứng chiếu, vậy thì con hãy vào nấu nước pha trà, để thầy trò ta cùng tạ ơn Phật Tổ. Chú Tiểu vâng lời thầy, nên sau khi thắp nhang cúng Phật, mới có tiếng chuông chùa nửa đêm vọng xuống thuyền của Trương Kế, để nhà nhơ hoàn tất bài thơ bất hủ "Phong Kiều Dạ Bạc" là thế ! (楓橋夜泊 Đêm ghé thuyền ở bến Phong Kiều).





       Sau đây là bài thơ diễn nôm bằng thể Lục bát của nhà thơ Tản Đà :

                       Trăng tà, tiếng quạ kêu sương
                   Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ
                        Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
                  Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

     ... Và sau đây là bài diễn nôm của Đỗ Chiêu Đức :

                     Trăng lặn qụa kêu sương khắp trời,
                     Bờ phong leo lét lửa chài phơi.
                     Cô Tô chùa lạnh Hàn San ấy,
                     Chuông vẳng nửa đêm não dạ người.
         Thơ Tám chữ :
                     Trăng tà lạnh, tiếng quạ kêu sương xuống
                     Giấc sầu miên, sông vắng, đối lửa chài
                     Chùa Hàn San ngoại thành Cô Tô ấy
                     Nửa đêm buồn, chuông vẳng đến thuyền ai !
                      


       Giai thoại trên đây có thể do người đời sau đặt ra để tô điểm thêm cho bài thơ "Phong Kiều Dạ Bạc 楓橋夜泊" càng huyền hoặc và hấp dẫn hơn, đồng thời cũng giải thích cho việc tại sao vào lúc nửa đêm lại có tiếng chuông chùa công phu bất chợt. Nhưng dù sao thì chúng ta cũng được thưởng thức thêm môt bài thơ hay nữa, chả tốt hơn sao !?...

        Hẹn bài dịch tới !

                                                          杜紹德
                                                         ĐÕ CHIÊU ĐỨC