CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 14 tháng 11, 2025

THUYỀN BIỆT TRĂNG VƠI. - THƠ HUỲNH TÂM HOÀI ,NHẠC TRẦN NHÀN





THUYỀN BIỆT TRĂNG VƠI
THƠ HUỲNH. TÂM HOÀI
NHẠC TRẦN NHÀN
HOÀ ÂM LÊ HÙNG
TRÌNH BÀY HỒNG PHẤN

BÓNG DÁNG MỘT CON PHÀ NẶNG THỜI GIAN - TỪ KẾ TƯỜNG

 


BÓNG DÁNG MỘT CON PHÀ CHỞ NẶNG THỜI GIAN

Thủ Thiêm nằm bên kia sông Sài Gòn cách đây một trăm năm là khu vực ngoại thành, toàn đồng ruộng, bưng biền, nhà lá lụp xụp. Ngoài nông dân thuần túy ngày ngày bám chân trên ruộng đồng còn có một tầng lớp thầy, thợ sớm tối xuôi ngược con phà Thủ Thiêm bám nghề bươn chãi làm ăn. Con phà như một cầu nối giữa hai bờ sông ngày ấy còn nhiều dừa nước, bần, đước, dẹt ken dày, xanh biệt mù phía Thủ Thiêm và lũ chim hải âu lượn lờ kiếm mồi trên sóng nước.
Có bao nhiêu lượt người, bao thế hệ từ tuổi thơ cho đến tuổi già bao gồm nam, phụ, lão, ấu đã đi qua con phà mang bóng dáng của một trăm năm ấy có lẽ không có con số thống kê đầy đủ. Nhưng thời gian đã ghi được dấu ấn mãnh liệt trên con phà đã làm xong nhiệm vụ lịch sử nối hai bờ sông Sài Gòn lui về quá khứ khi cửa hầm chui Thủ Thiêm mở ra cho những dòng xe xuôi ngược từ đáy sông trồi lên mang dấu ấn của giai đoạn lưu thông hiện đại rút ngắn khoảng cách giữa hai bờ sông, từ Sài Gòn qua Thủ Thiêm chỉ còn 5-7 phút thay vì 20-25 phút.
Tôi còn nhớ lần đầu tiên qua phà Thủ Thiêm là năm tôi học lớp đệ thất (lớp 6 bây giờ) trường Nguyễn Văn Khuê, một ngôi trường tư thục, danh tiếng nằm trên đường Nguyễn Thái Học quận 1. Cả nhóm bạn ngồi cùng bàn rũ nhau qua Thủ Thiêm vớt cá lia thia, đi bộ qua phà, quần thảo với những đám ruộng lầy, đầy cỏ năn tìm bọt cá lia thia đóng trong dấu chân trâu cả buổi trưa rồi đi bộ, qua phà về lại bên này sông. Phà Thủ Thiêm hồi ấy còn ọp ẹp như một chiếc xà lan có mui loay hoay mất hơn nửa giờ mới đưa được khách qua sông.
Trẻ em được mua “nửa vé”, nhưng tôi và nhóm bạn thường không mua vé mà đi chui theo đúng nghĩa đen vì trước khi lên cầu xuống phà có hàng rào chặn, ông soát vé loay hoay với hàng lô hàng lốc những người lớn và xe đạp, xe gắn máy, lũ “trẻ em” đi bộ chúng tôi thừa cơ chui qua giữa dòng người qua khỏi cửa ải là tung tăng chân sáo qua cầu. Khi phà tách bến tôi dựa lan can tha hồ mà nhìn sông nước, lũ chim hải âu hồi đó rất dạn dĩ, cứ bay theo phà tìm mồi, cứ tưởng đưa tay lên là đụng được cánh những con chim đang chấp chới trước mắt.
Khi con phà Thủ Thiêm hiện đại hơn, vượt sông nhanh hơn lũ trẻ em chúng tôi đã thành người lớn, đi xe máy, chở nhau qua phà, rẽ theo hướng tay phải tìm đến quán vịt ba món nổi tiếng, hoặc uống cà phê sân vườn trong những dịp sinh nhật, thi đỗ. Thủ Thiêm đã không còn cảnh “ngoại ô đèn vàng” nữa mà đồng ruộng đã thu hẹp dần, nhà cửa mọc lên san sát thành phố chợ, những con đường lầy lội đã tráng nhựa thẳng tắp.
Có giai đoạn tôi lại thích qua Thủ Thêm để được chạy xe thong dong trên những con đường cũ, tìm lại bóng hình xưa, một bóng trăng xưa sáng vằng vặc trong ký ức, những phút giây hoài niệm. Nghe lại tiếng vạc sành trong vệ cỏ, tiếng dế gáy khan, hoặc tiếng ếch kêu trong ao đầm, bưng lác nhưng tuyệt không thấy đâu, chỉ quán xá xập xình và những con đường đầy bụi, ồn ào tiếng xe và đủ thứ âm thanh cuồng nộ.
Lần cuối cùng tôi qua phà Thủ Thiêm là đi ăn với một cô bạn từ nước ngoài về. Cô ấy xa quê hương nhiều năm, về nước muốn ăn món vịt nấu chao ở chính ngôi quán xưa mà cả nhóm bạn thời cấp III thường tới ăn. Trùng hợp làm sao, hôm ấy cũng là đêm cuối cùng của con phà Thủ Thiêm đi hết cuộc hành trình lịch sử một trăm năm của mình giữa hai bờ sông đầy bóng dáng kỷ niệm của chúng tôi. Lúc trở về, đứng trên phà nhìn xuống mặt nước sông sóng gợn dập dềnh, tôi và cô bạn có lẽ đều chìm đắm trong tâm trạng tiếc nuối, nhớ tưởng tới khoảng thời gian ngàn trùng sắp sửa khuất bóng theo con phà mà chút nữa thôi, vào lúc nửa đêm nó cũng sẽ lùi vào quá khứ.
Sáng sớm ngày mai, những người đi dạo dọc bờ sông Sài Gòn trong sương sớm chắc cũng nhớ ngẩn ngơ bóng dáng con phà Thủ Thiêm mờ mờ ảo ảo lầm lũi vượt khoảng sông rộng, tiếng máy u u của nó như vẫn còn trộn lẫn vào những con sóng xô đẩy nhau tiến vào bờ đá xanh không còn bóng dáng cây cầu phà nối dài như một cánh tay chới với, hụt hẫng hướng ra ra ngấn nước giữa sông.
Cô bạn gái của tôi đã trở ra nước ngoài mà không có dịp đi qua hầm Thủ Thiêm, xem thông tin trên mạng cô gọi về hỏi tôi đã qua hầm chui hiện đại ấy mấy lần rồi, chắc là đẹp lắm, còn đi nhanh thì khỏi phải nói rồi, đúng không?. Tôi bảo với cô ấy đã đi tham quan một chuyến ngày khánh thành hầm và một lần đi uống cà phê Rio trên đường Trần Não. Hầm rất đẹp, xe máy chạy rất nhanh, không kịp hết buồn nếu người ta yêu nhau và nói lời chia tay ở bên kia cửa hầm Thủ Thiêm. Cô bạn tán thành ngay và tỏ vẻ tiếc nuối cho con phà Thủ Thiêm đã lùi vào quá khứ.
Con người ta rất mâu thuẫn về mặt tình cảm và phát triển kinh tế còn xã hội thì hầu như không chút lãng mạn khi dứt bỏ những con phà mà trên đó không biết bao nhiêu cập tình nhân đã gặp gỡ, quen nhau, yêu nhau rồi thành chồng vợ hoặc chia tay. Những con phà chở thời gian và năm tháng, chở cả bao mùa mưa nắng mà thành những kỷ niệm khó quên cho một đời người.
Có lẽ tôi là một trong nhiều người dân thành phố không thể quên con phà Thủ Thiêm. Từ ngày về lại quận 4, mỗi sáng tôi vẫn cố ý đi qua cầu Quây đã được xây lại rộng, dài, hiện đại hơn xưa, và đã được đổi tên là cầu Khánh Hội. Dưới gầm cầu có con đường chạy qua phía Q1, đó là cửa hầm Thủ Thiêm hoặc để ra Bến Bạch Đằng (theo cách gọi của dân cố cựu đất Sài Gòn) và chạy ngang bến phà Thủ Thiêm. Không còn bóng dáng con phà sơn màu trắng, lầm lũi quay đầu, xa bờ bên này hướng ra sông về phía Thủ Thiêm nữa, nhưng bóng dáng thời gian trên 100 năm đó hiện diện và bao kỷ niệm từ thủa ấu thơ cho tới ngày hôm nay vẫn còn. Rất đậm nét và khó phai mờ.



TỪ KẾ TƯỜNG

Thứ Năm, 13 tháng 11, 2025

ĐÒ NGANG - THƠ LÊ KIM THƯỢNG




 ĐÒ  NGANG 

 

1. 

 

Đò ngang chở nắng sông dài

Bến quê vẫn đợi, vẫn hoài yêu thương

Chở người trở lại quê hương

Chuyến đò thưở nhỏ đưa đường khách xa

Nhớ sân đình, nhớ bóng đa 

Làng quê, xóm cũ, hiền hòa mái tranh

 Dòng sông ôm ấp đồng xanh

Phù sa nuôi lúa ngọt lành thân thương

Nhớ hoa xoan tím ven đường

Lao xao trong gió, mùi hương đậm đà

Nhớ trưa bóng nắng nhạt nhòa

Tiếng ve vang động, vỡ òa cuối thu

Chao nghiêng cánh võng, lời ru

“Bướm vàng đậu đọt mù u…” chòng chành

Ru con giấc ngủ ngon lành

Cái tôm, cái tép…  hóa thành lời ca… 

 

 

 

2. 

 

Người đi biền biệt phương xa

Vẫn mong tìm được câu ca một thời

Mình là… Mình vẫn… Mình thôi…

Vẫn con diều nhỏ trên trời bay xuôi

Nhớ hoài, nỗi nhớ khôn nguôi

Nhớ hình bóng Mẹ xa xôi…Bóng Già…

Dáng nghiêng nghiêng áo bà ba

Áo hòa màu đất, tóc hòa màu mây

Con buồn đứng lặng nơi đây

Mặn chua nước mắt, rót đầy đôi môi

Một mình thân phận mồ côi

Nén nhang con thắp, nghẹn lời yêu thương

Lòng thành con gửi trầm hương

Cầu xin Chư Phật Mười Phương độ trì

Hỏi ai hạnh phúc là gì?

Mẹ không còn nữa… con thì tha phương… 


                       

              Nha Trang, tháng  11. 2025

                  LÊ KIM THƯỢNG

Thứ Tư, 12 tháng 11, 2025

HOÀI NIỆM QUÊ XƯA - THƠ NHẬT QUANG




Tranh: Nhật Quang


HOÀI NIỆM QUÊ XƯA


Con sinh nơi chốn thôn làng

Lớn khôn từ hạt lúa vàng ngát hương 

Xứ xa ký ức...trầm vương 

Mặn mồ hôi mẹ còn thơm nương đồng

Tuổi thơ tắm mát dòng sông 

Năm...mười, đuổi bắt - nắng hồng rong chơi

Đu đưa cánh võng à...ơi!

Thân cò cõng cả bầu trời ấu thơ

Bóng quê ngả khói lam mờ

Dừa nghiêng soi bóng đôi bờ sông xanh

Nắng, mưa mòn mỏi mái tranh

Đầu hiên gió khẽ lay mành trúc thưa

Chuông chiều ngân vọng xa đưa

Lời kinh mẹ vẫn như vừa trên môi

Mong manh tựa cánh lá rơi

Vọng về nguồn cội, bồi hồi...lòng con

Ngõ xưa rêu mốc lối mòn

Nhặt hoài niệm cũ, vẫn còn đâu đây.



Jos NHẬT QUANG 


Thứ Ba, 11 tháng 11, 2025

CƯỚI HUẾ - NHẠC & LỜI PHAN NI TẤN







CƯỚI HUẾ
NHẠC & LỜI PHAN NI TẤN
TRÌNH BÀY HUỲNH THANH SANG
HOÀ ÂM LÊ HÙNG
VIDEOCLIP HUỲNH TÂM HOÀI

Chủ Nhật, 9 tháng 11, 2025

THU OÁN - LA NGHIỆP ,ĐỖ CHIÊU ĐỨC DIỄN NÔM

Góc Đường Thi  : 


                                   


                  THU OÁN  của LA NGHIỆP 

 
                          
    

    LA NGHIỆP 羅鄴 (825-900?) người đất Dư Hàng (thuộc tỉnh Chiết Giang ngày nay). Ông là thi nhân ở cuối đời Đường, có tiếng là THI HỔ 詩虎 (Con Cọp trong thơ), xuất thân trong một gia đình Viêm Thiết Lại 鹽鐵吏 (quan trông coi về muối), cùng với La Ẩn, La Cầu 羅隱、羅虬 trong họ tộc, được người đời xưng tụng là "Giang Đông Tam La 江東三羅". Ông lúc trẻ số phần lận đận, thi mãi mà không đậu được Tiến sĩ. Những năm từ Hàm thông đến Càn phù ông nổi tiếng về thơ thất ngôn luật thi và tứ tuyệt. Cuối đời sống lưu lạc ngoài vùng biên tái, làm Mạc phủ lại cho Thiền Vu Đô hộ Phủ, được nhà thơ Vi Trang là Lại Bộ Thị Lang lúc bấy giờ tấu trình lên nhà vua và được vua ban hàm Tiến Sĩ Cập Đệ. Còn để lại một "La Nghiệp Thi Tập 羅鄴詩集" nổi tiếng với các câu như :

                     年年点檢人間事,  Niên niên điểm kiểm nhân gian sự,
                     唯有春風不世情。  Duy hữu xuân phong bất thế tình.
      Có nghĩa :
                       Năm năm kiểm điểm chuyện đời,
               Chỉ gió xuân chẳng khiến người bâng khuâng !
        
      Thật cảm khái ! Mỗi năm kiểm điểm lại chuyện của người đời, thì chỉ có gió xuân là vô tư nhất, thoải mái nhất, mang ấm áp dễ chịu đến với tất cả mọi người không phân biệt sang hèn qúy tiện gì cả ! Nhân còn trong mùa thu, mời đọc thêm một bài thất ngôn tứ tuyệt THU OÁN 秋怨 cũng rất nổi tiếng của ông sau đây :

               夢斷南窗啼曉烏,  Mộng đọan nam song đề hiểu ô,  
               新霜昨夜下庭梧。  Tân sương tạc dạ há đình ngô.
               不知簾外如珪月,  Bất tri liêm ngoại như khuê nguyệt,
               還照邊城到曉無。  Hoàn chiếu biên thành đáo hiểu vô ?!




* Chú thích :
    - ĐOẠN 斷 : là Đứt, Dứt, Gãy; nên Mộng Đoạn 夢斷 là Mơ nửa chừng bị dứt ngang, là Giật mình tỉnh mộng. 
    - HIỂU 曉 : là Buổi sáng sớm; Hiểu Phong 曉風 là Gió sớm; Hiểu Ô 曉烏 là Tiếng quạ kêu buổi sáng khi sương xuống.
    - ĐÌNH NGÔ 庭梧 : là Cây ngô đồng trồng trong sân nhà.
    - KHUÊ 珪 : là một loại ngọc, đá qúy; Ta thường gọi là Cẩm Thạch, có màu xanh có màu trắng. Khuê Nguyệt 珪月 chỉ Vầng trăng sáng như ngọc Khuê màu trắng.

                      
    - ĐÁO HIỂU 到曉 là Tới Sáng. HOÀN...ĐÁO HIỂU VÔ 還...到曉無? Là câu Nghi vấn có nghĩa : "Còn... tới sáng không ?"



* Nghĩa bài thơ :
                      Nỗi Oán Hờn Trong Mùa Thu
       Giật mình tỉnh mộng vì nghe tiếng quạ ban sáng đang kêu oang oác bên song cửa sổ phía nam; Nhìn ra thấy sương thu mới của đêm qua còn phủ đầy trên cây ngô đồng trong sân nhà. Không biết rằng ở ngoài bức rèm châu cái vầng trăng tròn vành vạnh như miếng ngọc Khuê kia, cũng soi rọi thâu đêm suốt sáng ở tận mãi xứ biên thành xa xôi đó hay chăng ?!    

      Trong cảnh nệm ấm chăn êm, chỉ giật mình tỉnh mộng khi nghe tiếng qụa kêu, rồi thấy sương thu mới đang rơi đây trên cây ngô đồng mà xúc cảnh sinh tình rồi ưu tư lo lắng cho người ở tận biên thành xa xôi, không biết cái vầng trăng tròn tỏa ánh sáng ấm áp kia cũng đem cái ánh sáng ấm áp đó mà soi rọi suốt đêm cho người lính thú đang trực canh gác giặc ở tiền đồn hiu hắt đó hay không ?! Khéo là lo lắng ngẩn ngơ, vầng trăng cũng như là gió xuân vậy đến với tất cả mọi người chớ chẳng vị riêng ai cả ! Nhưng đây cũng là tấm lòng của người cô phụ vọng phu, luôn luôn khắc khoải nhớ mong đến kẻ chinh phu ở ngoài biên ải xa xăm vạn dặm.     

* Diễn Nôm :
                               THU OÁN



                    Tỉnh mộng quạ kêu ngóng cửa song,
                    Đêm qua sương mới ướt ngô đồng.
                    Ngoài rèm trăng tỏ như khuê ngọc,
                    Có chiếu biên thành suốt sáng không ?!
        Lục bát : 
                    Qua kêu chợt tỉnh giấc nồng,
                    Ngoài sân sương phủ ngô đồng đêm qua.
                    bên rèm lặng ngắm bóng nga,
                    Suốt đêm có chiếu người xa biên thành ?!
                                                                  Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

             
      
          Hẹn bài dịch tới !

                                                      杜紹德
                                                     ĐÕ CHIÊU ĐỨC
 

Thứ Bảy, 8 tháng 11, 2025

TRÀ MY KHÔNG CHỈ LÀ TÊN GỌI - HỒ XUÂN TỊNH

 

HỒ XUÂN TỊNH  26/10/2025 09:50

Trong tiến trình phát triển của đất nước, khi chủ trương liên kết vùng và phát triển bền vững được xem là định hướng chiến lược, các địa phương miền núi Trung Bộ, đặc biệt là khu vực Trà My của thành phố Đà Nẵng đang dần khẳng định vai trò của mình như những “vệ tinh văn hóa - kinh tế” trong không gian phát triển của miền Trung - Tây Nguyên.

h8a.jpg
Vùng nam Trà My đang từng ngày "thay da đổi thịt". Cuộc sống của người dân nơi đây dần khá hơn nhờ tìm được hướng phát triển mới từ du lịch, trồng sâm Ngọc Linh. Ảnh: Tư liệu

Với vị trí nằm trên trục giao thông kết nối Đà Nẵng - Tam Kỳ - Trà My - Kon Tum, vùng đất này hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi để trở thành trung tâm giao lưu hàng hóa, văn hóa và du lịch giữa miền núi và đồng bằng.

Một chỉ dẫn văn hóa

Trà My là nơi hội tụ, sinh sống của nhiều cộng đồng tộc người: Việt, Co, Ca Dong, Bh’noong, cùng các nhóm dân mới di cư đến như Mường, Thái, Cơ Tu, Tày, H’rê… Mỗi dân tộc, tùy theo điều kiện cư trú và lịch sử, đã hình thành nên bản sắc văn hóa riêng, vừa độc lập, vừa có sự giao thoa, tiếp biến, tạo nên bức tranh văn hóa đa sắc của vùng đất Trà My.

Từ lễ mừng lúa mới, lễ ăn trâu, nghệ thuật trống chiêng, múa dân gian, dệt thổ cẩm, đan mây tre, đến những tri thức bản địa trong canh tác, săn bắt, hái lượm, chữa bệnh bằng thảo mộc… tất cả đã trở thành giá trị văn hóa phi vật thể quý giá, được lưu giữ và trao truyền qua bao thế hệ.

Nếu như chỉ dẫn địa lý như quế Trà My, sâm Ngọc Linh giúp xác định nguồn gốc và giá trị kinh tế của sản phẩm dựa trên điều kiện tự nhiên đặc hữu, thì “chỉ dẫn văn hóa Trà My” lại là một cách nhận diện bản sắc tinh thần của vùng đất và con người nơi đây, nơi thiên nhiên và văn hóa hòa quyện, nơi những giá trị truyền thống không chỉ được bảo tồn mà còn trở thành nguồn lực cho phát triển bền vững.

Khai thác giá trị văn hóa để phát triển du lịch cộng đồng

Giá trị văn hóa của các tộc người Trà My không chỉ là biểu hiện của trí tuệ, tâm hồn và lao động sáng tạo, mà còn là nguồn tài nguyên nhân văn quý giá, phục vụ cho phát triển du lịch văn hóa - du lịch cộng đồng. Nếu được bảo tồn và khai thác đúng hướng, Trà My có thể trở thành “trục văn hóa bản địa” của Đà Nẵng, nơi du khách trong và ngoài nước tìm đến để trải nghiệm, cảm nhận và thấu hiểu vẻ đẹp của văn hóa tộc người giữa thiên nhiên đại ngàn.

Du lịch cộng đồng là mô hình phát triển mang tính bền vững và nhân văn, khi người dân địa phương trở thành chủ thể của sản phẩm du lịch, họ vừa là người kể chuyện, vừa là người gìn giữ văn hóa. Du khách đến Trà My không chỉ để chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên, mà còn được trải nghiệm cuộc sống thường nhật của đồng bào miền núi, cùng giã gạo, dệt vải, uống rượu cần, tham dự lễ hội dân gian… Chính những trải nghiệm ấy đã biến hành trình du lịch thành cuộc đối thoại văn hóa, giúp du khách từ những miền đất khác hiểu hơn về giá trị đa dạng văn hóa các dân tộc Việt Nam.

Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức lại đơn vị hành chính, khi cấp huyện không còn tồn tại, các xã được sáp nhập và quản lý trực tiếp các địa bàn khác nhau, không gian văn hóa tộc người trở nên phân tán. Sự thiếu gắn kết giữa các cộng đồng tộc người có thể dẫn đến phân mảnh văn hóa, làm suy giảm sức mạnh cộng đồng.

Vì vậy, việc xây dựng cơ chế phối hợp văn hóa liên xã để tổ chức những ngày hội văn hóa các dân tộc Trà My, hay thành lập “Không gian văn hóa Trà My” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ để bảo tồn mà còn để phát huy di sản văn hóa trong dòng chảy hiện đại.

Trung tâm kết nối kinh tế và văn hóa của vùng Nam - Bắc Trà My

Với vị trí địa lý thuận lợi, từng là trung tâm hành chính - kinh tế của huyện Trà My, có bề dày lịch sử - văn hóa và tiềm năng bản địa phong phú, lại đang sở hữu Quảng trường Văn hóa và Trung tâm triển lãm giới thiệu trưng bày sản phẩm Trà My, xã Trà My hoàn toàn có khả năng trở thành trung tâm kết nối kinh tế - văn hóa của vùng Nam - Bắc Trà My.

Trong tiến trình này, sự phối hợp đồng bộ giữa Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Công Thương thành phố Đà Nẵng, chính quyền các địa phương, các doanh nghiệp đầu tư du lịch xanh và cộng đồng các dân tộc thiểu số sẽ là yếu tố quyết định.

Việc quy hoạch các tuyến du lịch văn hóa - sinh thái - cộng đồng, gắn kết các làng nghề, các lễ hội, sản phẩm OCOP địa phương… sẽ mở ra hướng phát triển kinh tế dựa trên nền tảng văn hóa, vừa tạo sinh kế cho người dân, vừa khẳng định bản sắc vùng miền.

Trà My hôm nay không chỉ được biết đến với hương quế ngát rừng và quốc bảo sâm Ngọc Linh, mà còn là nơi giao hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa bản sắc và hội nhập. Nâng tầm xã Trà My thành trung tâm kết nối kinh tế - văn hóa của vùng Nam - Bắc Trà My không chỉ là yêu cầu phát triển, mà còn là hành động cụ thể để gìn giữ và lan tỏa giá trị di sản văn hóa các tộc người, là nền tảng cho sự phát triển bền vững, nhân văn và đậm đà bản sắc đất Quảng.


NGUỒN:

https://baodanang.vn/tra-my-khong-chi-la-ten-goi-3308308...