Theo Âm dương Ngũ hành thì ĐÔNG PHƯƠNG Thiên can là Giáp Ất, thuộc Mộc chủ màu Xanh của cây cỏ, là mùa Xuân trong năm, mùa của hoa lá cỏ cây đâm chồi nẩy lộc bắt đầu cho một cuộc sống mới vươn lên. Nên Chúa Xuân còn được gọi là ĐÔNG QUÂN 東君 theo như ba xuất xứ sau đây :
1. Theo sách Sử Ký, Phong Thiền Thư 史記•封禪書 của Tư Mã Thiên thì : ĐÔNG QUÂN là thần mặt trời ở hướng Đông, với hình tượng của một nam nhân mặt đỏ, tay cầm cung tên, áo xanh quần trắng. Nghĩa phát sinh trong văn học cổ thường dùng để chỉ nhà vua, như trong "Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca" của Lê Ngô Cát & Phạm Đình Toái có câu :
Chủ trương mừng thấy ĐÔNG QUÂN,
Thái bình cây cỏ được nhuần hơi mưa.
2. Theo truyền thuyết dân gian cổ Trung Hoa thì ĐÔNG QUÂN là Chúa Xuân, như thơ của Vương Sơ 王初 đời Đường trong bài "Lập Xuân Hậu Tác 立春后作" là :
東君珂佩響珊珊, Đông Quân kha bội hưởng san san,
青馭多時下九關。 Thanh ngự đa thì há cửu quan.
方信玉霄千万里, Phương tín ngọc tiêu thiên vạn lý,
春風猶未到人間". Xuân phong do vị đáo nhân gian.
Có nghĩa :
ĐÔNG QUÂN đeo ngọc bước đing -đang,
Cởi ngựa xuống trần qúa cửu quan,
Mới biết trời cao muôn vạn dặm,
Gió xuân chưa thổi đến nhân gian.
Chúa Xuân cũng như là mùa Xuân đến với nhân gian một cách khoan thai nhàn nhã, đem lại sinh khí cho muôn loài muôn vật một cách chậm rãi nhưng chắc chắn với một sức sống mạnh mẽ mãnh liệt.
Trong "Tứ Thời Khúc Vịnh" của một danh sĩ đời Mạc là Hoàng Sĩ Khải cũng có câu :
Đâu đâu chịu lệnh ĐÔNG QUÂN,
Cửu giao lừng lẫy đón xuân rước về !
3. ĐÔNG QUÂN còn dùng để chỉ người đàn ông, người chồng trong gia đình ngày xưa với năm thê bảy thiếp, làm chủ trong nhà như Chúa Xuân mang đến ân huệ cho tất cả thê thiếp trong gia đình, như trong Hoa Tiên Ký của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện :
Vẻ chi một mảnh hồng quần,
Chúa hoa đành đã ĐÔNG QUÂN đây rồi !
Đông Quân và Thanh Đế
Nên ĐÔNG QUÂN là Chúa Xuân, là Vua, là người đàn ông đầy quyền lực trong gia đình, nên nếu không khéo xử sự thì sẽ rất dễ tạo nên những hờn oán cho các phi tần hay thê thiếp vì :
Muôn hồng nghìn tía đua tươi,
CHÚA XUÂN nhìn hái một hai bông gần !
Rồi... để đến nỗi buông lời oán trách như nàng cung phi trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu :
ĐÔNG QUÂN sao khéo bất tình,
Cành hoa tàn nguyệt bực mình hoài xuân..
Sau ĐÔNG QUÂN 東君 ta có ĐÔNG CUNG 東宮, là Cung điện được xây dựng ở phía đông cung vua, là chỗ ở của Hoàng Thái Tử, người sẽ kế vị ngôi vua sau nầy, nên còn được gọi là ĐÔNG CUNG THÁI TỬ 東宮太子. Như trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái :
ĐÔNG CUNG đã lập Duy Tường,
Bỗng không lại đổi Duy Phường cớ sao ?
ĐÔNG CUNG 東宮 còn chỉ chỗ ở của Hoàng Hậu là mẹ của Hoàng Thái Tử. Vào đời Hán, hoàng hậu ở cung Trường Lạc nằm ở phía đông của cung Vị Ương là cung của vua ở, nên Hoàng Hậu còn được gọi là ĐÔNG CUNG HOÀNH HẬU 東宮皇后, khác với Tây Cung là chỗ ở của Thứ Phi, Qúy Phi... Như trong truyện Nôm khuyết danh Phạm Tải Ngọc Hoa (dân gian thường gọi là Phạm Công Cúc Hoa) của ta :
Thương chồng chẳng quản xấu xa,
Phong làm hoàng hậu chính toà ĐÔNG CUNG.
Còn ĐÔNG PHONG 東風 là "Gió từ Hướng Đông" chớ không phải là "Gió của Mùa Đông". Gió của hướng Đông là gió Xuân. Theo chương Nguyệt Lệnh trong sách Lễ Ký 礼记•月令 như sau : Mạnh xuân chi nguyệt, đông phong giải đống 孟春之月,東風解凍. Có nghĩa : Tháng giêng của mùa xuân, gió đông thổi tan băng giá. Nên hai câu thơ cuối trong bài "Đề Tích Sở Kiến Xứ 題昔所見處" (Còn có tựa là Đề Đô Thành Nam Trang 題都城南莊) là :
人面不知何處去, Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
桃花依舊笑東風. Đào hoa y cựu tiếu ĐÔNG PHONG
... còn được viết là :
人面不知何處去, Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
桃花依舊笑春風。 Đào hoa y cựu tiếu XUÂN PHONG
Cụ Nguyễn Du đã mượn ý của hai câu thơ trên để tả lúc Kim Trọng trở lại Vườn Thúy tìm Thúy Kiều với hai câu lục bát rất hay là :
Trước sau nào thấy mặt người,
Hoa đào năm ngoái còn cười GÍO ĐÔNG.
GIÓ ĐÔNG ở đây chính là GIÓ XUÂN đó. Trong truyện Nôm "Hoa Tiên ký" của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện đã tả nàng Dương Dao Tiên với hai câu thật gợi cảm :
GIÓ ĐÔNG gờn gợn sóng tình,
Dưới hoa lộng lẫy một cành mẫu đơn.
Còn trong Cung Oán Ngâm Khúc thì Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã mượn GÍO ĐÔNG để chỉ sự mơn trớn của nhà vua với nàng cung phi khi mới được yêu :
Cành xuân hoa chúm chím chào,
GÍO ĐÔNG thôi đã cợt đào ghẹo mai.
... và khi thất sủng, thì nàng cung phi cũng nhắm vào ĐÔNG PHONG mà trách móc một cách bóng gió :
Thù nhau ru hỡi ĐÔNG PHONG,
Góc vườn đãi nắng cầm bông hoa đào.
Còn cụ Nguyễn Trãi trong Quốc Âm Thi Tập : "Đào Hoa Thi bài một" thì viết như sau :
Một đóa đào hoa khá tốt tươi,
Cách xuân mơn mởn thấy xuân cười.
ĐÔNG PHONG ắt có tình hay nữa,
Kín tịn mùi hương dễ động người.
ĐÔNG PHONG còn là ngọn gió chướng của tháng 10 thổi từ hướng Đông đã giúp cho Đô Đốc Đông Ngô là Chu Du dùng thế hỏa công đốt tiêu và đánh tan 83 vạn quân của Tào Tháo trên dòng sông Xích Bích. Truyện kể...
NĂm Kiến An thứ 15 thời Tam Quốc (210), sau khi chiến thắng Viên Thiệu, bình định phương bắc, Tào Tháo cho xây Đồng Tước Đài để ghi lại công tích của mình. Con thứ là Tào Thực làm bài ĐĂNG ĐÀI PHÚ 登臺賦 trong đó có 2 câu như sau :
攬二橋于東南兮, Lãm nhị kiều vu đông nam hề,
樂朝夕之與共。 Lạc triêu tịch chi dữ cộng.
Có nghĩa :
Hai cây cầu ôm ấp ở phía Đông nam... hề...
Cùng nhau mà vui vầy sớm tối !
Thì ra, Đền Đồng Tước gồm có ba tòa lầu cao, phía trên được nối bằng HAI CÂY CẦU (Nhị kiều 二橋) ôm ấp lấy 3 tòa lầu, để có thể tự do qua lại vui chơi sáng chiều gì cũng được ! Khổng Minh Gia Cát Lượng đã sửa NHỊ KIỀU 二橋 là 2 Cây Cầu thành NHỊ KIỀU 二喬 là 2 Nàng Kiều để làm kế khích tướng, kích Chu Du đánh Tào Tháo. Vì 2 Nàng Kiều nổi tiếng đẹp nhất Giang Nam lúc bấy giờ, thì Đại Kiều là vợ của Tôn Sách (Chúa Đông Ngô đã mất), còn Tiểu Kiều là vợ của Chu Du, Đô Đốc thống lĩnh tam quân của Đông Ngô. Nên hai câu phú trên khi được Khổng Minh sửa lại thì có nghĩa :"Ôm ấp hai nàng Kiều ở phía Đông nam... hề... để cùng vui vầy sớm tối!". Khiến cho Chu Du nổi trận lôi đình mà quyết tâm đánh quân Tào Tháo đến cùng. Khi "Vạn sự cụ bị, chỉ khiếm ĐÔNG PHONG 萬事俱備,祇欠東風" là kế hoạch dụng hỏa công đã chuẩn bị đâu ra đó xong xuôi cả rồi, chỉ còn thiếu có GIÓ ĐÔNG mà thôi, thì Khổng Minh xem thiên văn và hứa mượn cho Chu Du ba ngày gió Đông, khiến cho 83 vạn quân của Tào Tháo bị đốt xất bất xang bang và hơn một nửa đã vùi thây sau trận hỏa công dưới dòng sông Xích Bích, để cho mãi gần 500 năm sau, khi nhà thơ Đỗ Mục đời Đường đi ngang qua đây còn nương theo ý đó mà viết nên hai câu tuyệt cú rất hay là :
東風不與周郎便, ĐÔNG PHONG bất dữ Chu Lang tiện,
銅雀春深鎖二喬! Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều!
Có nghĩa :
Nếu gió đông không là phương tiện giúp cho Chu Du thắng trận, thì...
Đền Đồng Tước đã khóa xuân hai nàng Kiều mất rồi !
GÍO ĐÔNG chẳng giúp Chu Du thắng,
Đồng Tước khóa xuân cả nhị Kiều !
Đến cụ Nguyễn Du của ta cũng mượn ý nầy để tả vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều Thúy Vân giống như là hai chị em của Đại Kiều và Tiểu Kiều ở Giang Đông vậy :
Trộm nghe thơm nức hương lân,
Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều.
Nhị Kiều và Đô Đốc Chu Du
Còn trong "Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến" thì nhà thơ Jean Leiba (Lê Văn Bái) đã viết trong bài thơ "Mai Rụng" như sau :
Yêu chàng, em cố chuốt hình dong
Tô cặp môi son, điểm má hồng,
Em thấy xuân nay hoa nở đẹp,
Cảm tình THANH ĐẾ, tạ ĐÔNG PHONG,
Như trên đã trình bày, theo Dịch lý Âm dương Ngũ hành thì Đông phương là Giáp Ất thuộc Mộc, chủ màu Xanh, là biểu tượng của mùa Xuân, nên ĐÔNG QUÂN 東君 là Chúa Xuân còn được gọi là THANH ĐẾ 青帝 (Ông Vua của màu Xanh của hoa cỏ); và ĐÔNG CUNG 東宮 còn được gọi là "Thanh Cung 青宮" hay "Xuân Cung 春宮"(Cung của Thái Tử hay Hoàng Hậu ở).
Ngoài ĐÔNG PHONG là GIÓ ĐÔNG ra, ta còn có TƯỜNG ĐÔNG là bức tường ở mé đông giáp với nhà hàng xóm , do câu nói trong sách Mạnh Tử. Cáo Tử Hạ 孟子.告子下 là : Du đông gia tường nhi lâu kỳ xử tử 踰東家牆而摟其處子. Có nghĩa : Trèo qua bức tường phía đông nhà hàng xóm mà ôm cô gái còn trong trắng. Ý nói là : Chọc ghẹo cô gái hàng xóm, như trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du nói về chị em Thúy Kiều khi vừa đến tuổi câp kê là :
Êm đềm trướng rũ màn che,
TƯỜNG ĐÔNG ong bướm đi về mặc ai.
Có nghĩa là : Chị em Thúy Kiều sống êm đềm trong "trướng rũ màn che", mặc cho đám thanh niên lối xóm có tỏ tình trêu ghẹo gì cũng mặc ! Nên TƯỜNG ĐÔNG, ĐÔNG GIA, ĐÔNG LÂN... đều dùng để chỉ Nhà Hàng Xóm, hay Người Hàng Xóm như khi Thúy Kiều tảo mộ xong về lại nhà, cụ Nguyễn Du đã có những câu chuyển cảnh thật hay như sau đây :
Kiều từ trở gót trướng hoa,
Mặt trời gát núi chiêng đà thu không.
Gương nga chênh chếch vòm song,
Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân.
Hải đường lả ngọn ĐÔNG LÂN,
Hạt sương trĩu nặng cành xuân la đà....
Cũng J. Leiba Lê Văn Bái trong bài thơ "NĂM QUA" đã có vế thơ như sau :
Hôm qua em đến mái ĐÔNG LÂN,
Cô gái khâu thêu vẻ ngại ngần.
Tơ lụa bộn bề quần áo cưới,
Vội vàng cho khách kịp ngày xuân.
... Và mỉa mai thay :
Duyên mình hờ hững hộ duyên ai,
Cô gái ĐÔNG LÂN dáng ngậm ngùi
Ngán nỗi năm năm đưa chỉ thắm,
Phòng không may áo cưới cho người!...
Đọc bốn câu thơ trên lại làm cho ta nhớ đến bài thơ "BẦN NỮ 貧女" của Tần Thao Ngọc 秦韜玉 đời Đường tả "Cô gái nghèo làm nghề thợ may" với hai câu kết là :
苦恨年年壓金線, Khổ hận niên niên áp kim tuyến,
為他人作嫁衣裳。 Vị tha nhân tác giá y thường !
Có nghĩa :
Khổ nổi năm năm đưa chỉ thắm,
Vì người may áo cưới cho người !
Chỉ may áo cưới cho người, còn mình thì bao giờ mới mặc được áo
cưới đây ?!
Phòng không may áo cưới cho người!...
Chữ ĐÔNG còn đưa ta đến với hai nhân vật trong văn học cổ Trung Hoa mà nhắc đến thì mọi người đều như "quen biết" vì có nghe nói qua cả , đó chính là :
1. ĐÔNG PHA 東坡 : là Tô Thức (1037-1101), chính trị gia, văn thi sĩ đời Tống, tự là Tử Chiêm, hiệu là Đông Pha Cư Sĩ, nên người đời quen gọi là TÔ ĐÔNG PHA 蘇東坡. Ông nổi tiếng với nhiều bài Thi Từ Ca Phú, nhất là hai bài Tiền, Hậu Xích Bích Phú với các câu như : Quế trạo hề lan tương, kích không minh hề tố lưu quang, diễu diễu hề dư hoài, vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương... 桂棹兮蘭槳,擊空明兮泝流光。渺渺兮予懷,望美人兮天一方... Có nghĩa : ... Thuyền quế nầy chèo lan, khua vầng trăng sáng nầy theo dòng nước lan man, lòng ta diệu vợi muôn vàn, phương trời người đẹp mơ màng ngóng trông !... Theo sử thi "Mai Đình Mộng Ký 梅亭夢記" của Nguyễn Huy Hổ 阮輝琥 trong đó cũng có câu :
Này này quế trạo lan tương,
Ví đua Xích Bích, chi nhường ĐÔNG PHA.
Còn trong bài hát nói (ca trù) "Vịnh Tiền Xích Bích" của Nguyễn Công Trứ thì mở đầu bằng :
Gió trăng chứa một thuyền đầy,
Của kho vô tận biết ngày nào vơi?
Ông TÔ TỬ qua chơi Xích Bích,
Một con thuyền với một túi thơ...
2. ĐÔNG SÀNG 東床 : là cái giường nằm ở phía đông. Theo tích Vương Hi Chi 王羲之 trong Tấn Thư 晉書 như sau :
Vào đời Đông Tấn, có quan Thái Úy là Khước Giám, có một cô con gái vừa tài hoa vừa đẹp đẽ, nên ông luôn muốn kén chọn một chàng rễ cho xứng với con gái mình. Biết được trong nhà của Tể Tướng Vương Đạo có rất nhiều con cháu trai và tất cả đều văn hay chữ tốt, bèn cho môn sinh đến để cầu thân.
Khi người môn sinh của Khước Giám đến ngỏ ý, thì Vương Đạo bèn bảo rằng : Tất cả bọn chúng đều đang ăn ở học tập ở phía đông sương, cứ qua đó mà chọn. Người môn sinh bèn đi về phía đông sương, thấy những chàng trai con cháu của họ Vương người nào cũng mi thanh mục tú, ra vẻ "Nền phú hậu bậc tài danh, Văn chương nết đất thông minh tính trời", lại nghe nói có người nhà của quan Thái Úy đến chọn rễ, nên ai nấy đều ăn mặc chải chuốc bảnh bao, duy chỉ có một chàng nằm phơi bụng ở giường mé Đông đọc sách xem như không có gì xảy ra cả.
Người môn sinh về kể lại tài mạo của các chàng trai họ Vương bên đó cho quan Thái Úy Khước Giám nghe. Khi nghe xong, Khước Giám liền bảo :"Chính hắn ! Chính cái chàng trai nằm phơi bụng ở giường phía đông như không có việc gì xảy ra đó, chính là chàng rễ qúy mà ta muốn chọn đó".
Quả không sai, vì chàng rễ đó chính là Vương Hi Chi 王羲之, nhà văn, nhà thư pháp nổi tiếng với 《Lan Đình Tập Tự 蘭亭集序》và với bút pháp của Thiếp Lan Đình 蘭亭帖 để đời cho đến hiện nay. Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã cho Hoạn Thư khen Thúy Kiều khi thấy nàng chép kinh ở Quan Âm Các với nét bút thật đẹp là :
Khen rằng bút pháp đã tinh,
So vào với Thiếp Lan Đình nào thua !
Do tích trên đây, sau nầy hễ muốn chọn được chàng rễ qúy thì người ta thường gọi là "Kén Rễ Đông Sàng". Nên "RỄ ĐÔNG SÀNG" là chàng rễ qúy. Trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Nhị Độ Mai" của ta cũng có câu :
Con ta yểu điệu khuê phòng,
Có Tây Tử đó, thiếu ĐÔNG SÀNG nào ?!
Còn trong "Sơ Kính Tân Trang" của Chiêu Lỳ Phạm Thái, một danh sĩ ở cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 của ta thì gọi là GIƯỜNG ĐÔNG :
Lẽ đâu dám kẻ GIƯỜNG ĐÔNG,
Tước bình xin đợi, thừa long xứng tài.
TƯỚC BÌNH là "Tước Bình Trúng Tuyển 雀屏中選"; THỪA LONG là "Thừa Long Khoái Tế 乘龍快婿". Cả hai thành ngữ nầy cùng với "Diệu tuyển ĐÔNG SÀNG 妙選東床" đều là những thành ngữ chỉ kén được chàng rễ quý cả !
Tước Bình Trúng Tuyển, Diệu tuyển ĐÔNG SÀNG, Thừa Long Khoái Tế