CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 22 tháng 5, 2025

LANG LÀ CHÀNG - PHIẾM LUẬN CỦA ĐỖ CHIÊU ĐỨC

 Tạp Ghi và Phiếm Luận :

                                       LANG là CHÀNG 

                       Inline image
 
      CHÀNG chữ Nho là LANG 郎. Như hai câu trong bài ngũ ngôn trường thiên "Trường Can Hành" của Thi Tiên Lý Bạch :

                郎騎竹馬來,     LANG kỵ trúc mã lai,
                繞床弄青梅.     Nhiễu sàng lộng thanh mai.
      Có nghĩa :
                   CHÀNG cưởi ngựa tre đến,
                   Quanh giếng ghẹo mai xanh.    

      Đó là lời của người vợ trẻ nói về chồng mình khi hai đứa cùng lớn lên ở xứ Trường Can từ thuở nhỏ, họ là THANH MAI TRÚC MÃ 青梅竹馬 của nhau. Nên LANG là CHÀNG, là CHỒNG; Vì thế TÂN LANG 新郎 là "Chồng mới", là "Chú rể mới". Trong bài hát nói (Ca trù) "Tuổi già cưới Vợ hầu" của Uy Viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ có hai câu chữ Nho như sau :

                新娘欲問郎年幾,  TÂN NƯƠNG dục vấn LANG niên kỷ,
                五十年前二十三.   Ngũ thập niên tiền nhị thập tam !
      Có nghĩa :     
                      Cô dâu muốn hỏi CHÀNG bao nả ?
                      Năm chục năm xưa hai mươi ba !

                Inline image

            - Nếu cô dâu mới muốn hỏi CHÀNG bao nhiêu tuổi, thì xin đáp rằng...
            - Năm mươi năm trước mới có hai mươi ba tuổi thôi ! Có nghĩa, trước mắt thì CHÀNG RỂ MỚI nầy đã "Bảy mươi ba tuổi" rồi ! Chớ không còn là...

      THIẾU NIÊN LANG 少年郎 là "Chàng Tuổi Trẻ" như trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn Nôm là :

                   CHÀNG TUỔI TRẺ vốn dòng hào kiệt,
                   Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
     Với hình tượng...
                         Áo CHÀNG đỏ tựa ráng pha,
                   Ngựa CHÀNG sắc trắng như là tuyết in.

     và đầy hào khí của một CHÀNG TRAI trong thời loạn...

                     Giã nhà đeo bức chiến bào,
                   Thét roi cầu Vị ào ào gió thu !

               Inline image
     Nên...
         CHÀNG là LANG là từ để gọi người yêu, người tình, người hôn phối... một cách âu yếm thân mật, như TÌNH LANG 情郎, PHU LANG 夫郎, LANG QUÂN 郎君... Trong bài "Bẽn Lẽn" của nhà thơ Hàm Mặc Tử ta đọc được các câu :

               ...Vô tình để gió hôn lên má
                  Bẽn lẽn làm sao, lúc nửa đêm !
                  Em sợ LANG QUÂN em biết được
                  Nghi ngờ tới cái tiết trinh em...

      LANG là CHÀNG, là nam giới, là con trai. Có tài hoa giỏi giắn thì gọi là TÀI LANG 才郎, ngu si đần độn thì gọi là XUẨN LANG 蠢郎. Trắng trẻo đẹp trai thì gọi là NGỌC LANG 玉郎. Chàng rể mới thì gọi là TÂN LANG 新郎; chàng rể phụ thì gọi là BẠN LANG 伴郎. Ngoài ra, nhà đông anh em thì anh cả là ĐẠI LANG 大郎, em thứ là NHỊ LANG 二郎, kế nữa là TAM LANG 三郎, TỨ LANG 四郎, NGŨ LANG 五郎...

      Xét theo Lục Thư thì LANG 郎 là chữ thuộc dạng Hài thanh và Hội Ý có diễn tiến hình thành chữ viết như sau :

                 Kim Văn Đại Triện    Tiểu Triện       Lệ Thư           Khải Thư

                      Inline image
Ta thấy : 
         Chữ LANG 郎 được ghép bởi bộ LƯƠNG 良 là Tốt, là Hiền, là Giỏi bên trái chỉ ÂM và bộ ẤP 邑(阝) là Thôn, là Xóm, là Làng bên phải chỉ Ý. Nên theo Hài Thanh thì đọc theo âm LƯƠNG trại ra thành âm LANG, theo Hội Ý thì là người có tài, có chức sắc trong làng xóm. Nên LANG 郎 là một chức quan trong triều đình xưa, như :
       THỊ LANG 侍郎 Vốn là một cận thần thị vệ trong cung từ đời Hán. Sau đời Đông Hán là thuộc quan(phụ tá) của Thượng Thư. Có diễn tiến như sau : Mới nhậm chức gọi là LANG TRUNG 郎中, khi tròn một năm thì gọi là THƯỢNG THƯ LANG 尚書郎, đủ ba năm thì mới được gọi là THỊ LANG. Sau đời Đường THỊ LANG 侍郎 là chức phó của các Trung Thư Thượng Thư... tương đương như chức Thứ Trưởng ngày nay của ta vậy. Đặc biệt là nghề thầy thuốc chửa bệnh và cứu nhân độ thế, nên được người đời xưng tụng như là một chức sắc LANG TRUNG, nên mới hình thành từ LANG TRUNG 郎中 để gọi một cách tôn xưng các thầy thuốc là vì thế.  Sang đến Việt Nam ta thì bà con gọi cho gọn lại là THẦY LANG; còn những tay thầy thuốc dỏm không có đạo đức, chỉ biết có tiền thì được bà con gọi là "TÊN LANG BĂM" !
       HIỆU THƯ LANG 校書郎 Quan chức có từ đời Đông Hán, chuyên hiệu đính sách vở văn chương thư tịch, thi từ ca phú... Đời Đường gọi là BÍ THƯ TỈNH 秘書省 hay BÍ THƯ LANG 秘書郎 là quan chức thuộc hàng Cửu phẩm.
       VIÊN NGOẠI LANG 員外郎 cũng là một quan chức thời cổ đại, vốn dùng để chỉ các quan viên nằm ngoài chính ngạch. Vào đời Tùy gồm 24 ty của Thượng Thư Tỉnh đều có một VIÊN NGOẠI LANG là Thứ trưởng quan; tương đương với Phó Ty Trưởng hiện nay. LANG TRUNG là Chính Ty, VIÊN NGOẠI LANG là Phó Ty. Về sau, Viên Ngoại 員外 chỉ còn  là một chức hàm cho những nhà giàu chứ không có thực quyền và bổng lộc gì cả. Như Vương Viên Ngoại cha của Thúy Kiều và Thúy Vân vậy :

                      Có nhà VIÊN NGOẠI họ Vương,
                Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung.

       Nhớ khoảng năm 1964, tuần báo "Tin Vịt" ở Sài Gòn có đăng truyện thơ  "Vương Thúy Kiều Tân Thời" có hai câu như sau :

                      Có nhà nghị gật họ Vương,
                 Gia tư thì cũng ruộng vườn xe hơi !
  Còn...
       TỬ VI LANG 紫微郎 là tên gọi đặc biệt nên thơ của chức TRUNG THƯ TỈNH 中書省, còn gọi là TRUNG THƯ THỊ LANG 中書侍郎 tương đương với chức Hữu Thừa Tướng, chuyên lo văn thư tấu sớ của Hoàng đế nên rất nhàn hạ, rảnh rỗi. Ta hãy đọc bài thơ TỬ VI HOA 紫薇花 của Thi Bá Bạch Cư Dị 白居易 ở đời Đường khi ông đang giữ chức TỬ VI LANG thì sẽ rõ :

                絲綸閣下文書静,    Ty Luân Các hạ văn thư tịnh,
                鐘鼓樓中刻漏長。    Chung cổ lâu trung khắc lậu trường.
                獨坐黄昏誰是伴,    Độc tọa hoàng hôn thùy thị bạn,
                紫薇花對紫微郎。    Tử vi hoa đối TỬ VI LANG !

             Inline image
     Có nghĩa : 
                    Trong Ty Luân Các văn thư ít,
                    Nhỏ giọt lầu chuông khắc lậu tàn. 
                    Ngơ ngẩn hoàng hôn sầu chiếc bóng,
                    Chỉ... Tử Vi hoa với TỬ VI LANG !

        Đó là các chức quan ngày xưa có chữ LANG là CHÀNG đi kèm, ngoài ra, chữ LANG còn chỉ những nghề nghiệp lương thiện đàng hoàng như : ĐIỀN XÁ LANG 田舍郎 để chỉ các chàng làm nghề nông, BỔ TRÓC LANG 捕捉郎 là các chàng chuyên đánh bắt cá tôm, TRẠO THUYỀN LANG 棹船郎 là các chàng làm nghề chèo thuyền, chèo đò hay sống trên sông nước... như bài từ Hoán Khê Sa 浣溪沙 của Tiết Chiêu Uẩn 薛昭蕴 ở cuối đời Đường  đầu đời Ngũ Đại :

                紅蓼渡頭秋正雨,    Hồng lạo độ đầu thu chính vũ,
                印沙鷗迹自成行,    Ấn sa âu tích tự thành hàng,
                整鬟飄袖野風香。    Chỉnh hoàn phiêu tụ dã phong hương.
                不語含顰深浦裡,    Bất ngữ hàm tần thâm phố lý,
                幾回愁煞棹船郎,    Kỷ hồi sầu sát TRẠO THUYỀN LANG,
                燕歸帆盡水茫茫。    Yến quy phàm tận thủy mang mang !       
      Có nghĩa :     
                   Hoa súng nở hồng ướt mưa thu,
                   Vịt trời xa tít tận mây mù.
                   Điểm trang hương phấn hương hoa tỏa,
                   Im lặng chau mày bến sông nhỏ,
                   Nát lòng mấy độ GÀ CHÈO ĐÒ,
                    Đối người đối cảnh ngẩn ngơ,
                  Én bay buồm khuất mịt mờ nước sông !
                              
       TRẠO THUYỀN LANG 棹船郎 còn được gọi là LỘNG TRIỀU NHI 弄潮兒 là các "chàng giởn sóng", là suốt ngày đùa giởn trên sóng nước, như trong bài "Giang Nam Khúc 江南曲" của nhà thơ Lý Ích 李益 đời Đường :   

                    嫁得瞿塘賈,   Giá đắc Cù Đường cổ
                    朝朝誤妾期。   Triêu triêu ngộ thiếp kỳ
                    早知潮有信,   Tảo tri triều hữu tín
                    嫁與弄潮兒。   Giá dữ LỘNG TRIỀU NHI !

                 Inline image
    Có nghĩa :
         Lấy được chú lái buôn ở xứ Cù Đường, (là một điều may mắn đó, thường thì các lái buôn nầy rất giàu). Nhưng… ngày nào cũng lỗi hẹn với thiếp cả! (chỉ lo đi tìm lợi nhuận). Nếu sớm biết trước, nước thủy triều lên xuống đúng hẹn, không sai bao giờ. Thì thà trước kia lấy gã chèo đò cho xong !                    
                  
                    Lấy phải Cù Đường thương lái
                    Thường ngày bỏ thiếp nằm co
                    Lớn ròng nước kia đúng hẹn
                    Biết trước, lấy GẢ CHÈO ĐÒ !
         Lục Bát :
                             Ai xui lấy lái Cù Đường
                    Ngày ngày bỏ thiếp sầu thương muộn phiền
                          Đầy vơi dòng nước thường xuyên
                    Phải dè lấy GẢ CHÈO THUYỀN cho xong !

       Như trên đã nói CHÀNG TUỔI TRẺ là THIẾU NIÊN LANG 少年郎. Người yêu thì gọi là TÌNH LANG 情郎; Có tình nghĩa, xem trọng tình cảm thì gọi là HỮU TÌNH LANG 有情郎, các chàng đa tình thì gọi là ĐA TÌNH LANG 多情郎; còn giở thói Sở Khanh bạc bẽo thì gọi là BẠC TÌNH LANG 薄情郎, như tên Sở Khanh trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du nhà ta vậy :
                       BẠC TÌNH nổi tiếng lầu xanh,
                  Một tay chôn biết mấy cành phù dung !

       Nên ông bà ta thường nhắc nhở các cô gái ngây thơ mới lớn 2 câu của nữ sĩ Ngư Huyền Cơ 魚玄機, một trong "Tứ Đại Nữ Thi Nhân" đời Đường là :

                  易求無價寶,    Dị cầu vô giá bảo,
                  難得有情郎。    Nan đắc HỮU TÌNH LANG.

              Inline image
       Có nghĩa :
              - Bảo vật vô giá còn dễ tìm dễ cầu để mà có được, chớ...
              - Các chàng trai chung tình, có tình có nghĩa thì khó mà có được lắm ! Cho thấy, từ xưa đến nay các chàng trai, các cánh "nìn-ông"... thường hay có mới nới cũ bạc tình bạc nghĩa lắm, nhất là ở trong các xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ thì quả thật là "Nan đắc hữu Tình Lang " !...

                      Dễ cầu có được ngàn vàng,
               Khó tìm cho được một chàng thủy chung !

      Trong Văn Học Cổ thì tùy theo họ tên, ta cũng có rất nhiều CHÀNG, như CHÀNG CHU, CHÀNG LƯU, CHÀNG NGƯU, CHÀNG KHUÔNG, CHÀNG VŨ, CHÀNG TIÊU... Ta bắt đầu bằng CHÀNG CHU nhé !

                         Inline image

      CHÀNG CHU, tức CHU LANG 周郎 là CHU DU 周瑜, còn gọi là CHU CÔNG CẨN 周公瑾, là người văn võ song toàn; 28 tuổi đã làm Đô Đốc của Đông Ngô. Nổi tiếng với trận chiến Xích Bích, lấy ít thắng nhiều đánh tan 83 vạn quân Tào Tháo, hình thành cuộc diện Tam Quốc lúc bấy giờ. Ngoài tài cầm binh và thao lược, Chu Du còn là một nghệ sĩ tài hoa lỗi lạc, giỏi cả cầm kỳ thi họa, nhất là về đàn tranh. Thường có câu :"Khúc hữu ngộ, Chu lang cố 曲有誤,周郎顧". Có nghĩa : Nếu khúc đàn có sai sót, thì chàng Chu sẽ chiếu cố, chỉ điểm cho ngay ! Xin mời đọc  lại bài Ngũ ngôn Tứ tuyệt THÍNH TRANH 聽箏 nổi tiếng của Lý Đoan 李端 đời Đường sau đây :   
                        
                  鳴箏金粟柱,      Minh tranh kim túc trụ,
                  素手玉房前.     Tố thủ ngọc phòng tiền.
                  欲得周郎顧,     Dục đắc Chu Lang cố,   
                  時時誤拂絃.      Thời thời ngộ phất huyền.
      Có nghĩa :
                     Thánh thót đùa phím ngọc                         
                     Tay ngà nắn cung mơ                         
                     Muốn chàng Chu chiếu cố                         
                     Thường để lạc phím tơ
       Lục bát :                          
                     Trục vàng phím ngọc vấn vương                          
                     Tay ngà nắn nót cung thương mơ màng                          
                     Muốn chàng chiếu cố ngó ngàng                          
                     Nàng thường để lạc phím đàn cung tơ !
                
                   Inline image

        Thường thì đàn, ai cũng muốn đàn cho hay. Nhưng ở đây thì ngược lại, nàng cố ý đàn dở, đàn sai để được chàng dòm ngó đến. Cái hay của bài thơ là ở chỗ nầy, nêu bật được cái tâm lý rất thực tế, rất nhân bản của phái nữ khi muốn được người mình yêu mến để ý đến. Nàng đã không màng đến thể diện, tự ái nữa, không cần phải đàn hay để được khen, mà chỉ muốn đàn sai để được chàng đến chiếu cố, thân cận cầm tay để chỉ điểm cho. Lý Đoan đã rất tâm lý khi làm bài thơ nầy. 
        Trong bài hát nói HỎI GIÓ của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, phần hai câu thơ chữ Hán cũng có nhắc đến CHU LANG :

                Thử thị Đà Giang, phi Xích Bích,     此是沱江非赤壁,
                Dã vô Gia Cát dữ CHU LANG.         也無諸葛與周郎。
Có nghĩa : 
         - Nơi đây là sông Đà Giang chớ không phải là sông Xích Bích.
         - Chẳng có Gia Cát Lượng mà cũng chẳng có Chàng Chu.      

                      Inline image

      LƯU LANG là CHÀNG LƯU, tức LƯU VŨ TÍCH 劉禹錫 (772-842), tự là Mộng Đắc, người đất Lạc Dương Hà Nam, tổ tiên từ Định Châu Hà Bắc di dời xuống miền nam. Ông là thi nhân nổi tiếng và tiêu biểu của đời Trung Đường, được đời sau xưng tụng là Thi Hào với các tính chất hào phóng trong thi ca, ngoài ra, ông còn nổi tiếng với các bài tản văn, như bài "Lậu Thất Minh 陋室銘" với các câu văn bất hủ như :
             
          Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh;      山不在高,有仙則名;
          Thủy bất tại thâm, hữu long tắc linh.    水不在深,有龍則靈。
          Tư thị lậu thất, duy ngô đức hinh....     斯是陋室,惟吾德馨...
Có nghĩa :
          Núi chẳng tại cao, có tiên thì nổi tiếng;
          Nước chẳng tại sâu, có rồng thì linh thiêng.
          Đây chỉ là căn nhà thô lậu, nhưng được thơm lên vì cái đức của ta...

       Năm Nguyên Hòa thứ chín (815), Lưu Vũ Tích cùng Liễu Tông Nguyên đều được triệu hồi Trường An chờ phục chức. Thấy cảnh bát nháo của chính sự lúc bấy giờ, nhân dạo chơi ở Huyền Đô Quán, một đạo quán nổi tiếng của các đạo sĩ ở kinh thành, ông đã làm bài "Nguyên Hòa Thập Niên Tự Lãng Châu Thừa Chiếu Chí Kinh Hí Tặng Khán Hoa Chư Quân Tử 元和十年自朗州承召至京戲贈看花諸君子". Có nghĩa : Năm Nguyên Hòa thứ mười phụng chiếu từ Lãng Châu về kinh thành, đùa tặng các bậc quân tử đi xem hoa. (Bài thơ nầy còn có tên đơn giản là "Huyền Đô Quán Đào Hoa 玄都觀桃花" là Hoa đào ở Huyền Đô Quán) như sau :

                  紫陌紅塵拂面來,   Tử mạch hồng trần phất diện lai,
                  無人不道看花回。   Vô nhân bất đạo khán hoa hồi.
                  玄都觀裏桃千樹,   Huyền Đô Quán lý đào thiên thọ,
                  盡是劉郎去後栽。   Tận thị Lưu Lang khứ hậu tài.
  Có nghĩa :
                  Ngổn ngang đường xá bụi nhòa,
                  Kháo nhau cùng đến ngắm hoa chốn này.
                  Huyền Đô ngàn cội đào khai,
                  Đều trồng từ lúc đi đày CHÀNG LƯU.

                  Inline image  

      Ý của Lưu là mĩa mai cái đám người quyền qúy mới, do a dua nịnh hót mà có được. Bọn người nầy đã vênh váo đi lại khắp đường phố Trường An làm ra vẻ thanh cao như những người đi ngắm hoa về. Nếu chàng Lưu ta còn ở đây thì chưa chắc bọn nầy đã hiện diện mà nghênh ngang đi lại. Ý của Lưu Vũ Tích có hơi trịch thượng và xem thường những người quyền thế mới nầy, nên chi chẳng bao lâu sau, ông lại bị biếm đi làm Thứ Sử Ba Châu.
      Sau nhờ Ngự Sử Trung Thừa Bùi Độ tâu với vua vì Lưu Vũ Tích còn mẹ già, nên được thuyên về là Thứ Sử Liên Châu. Thời gian này vì tâm trạng buồn khổ cực độ nên Lưu hay đi lại các chùa chiền và cùng nghiên cứu Phật pháp với các nhà sư. Năm Nguyên Hòa thứ 14, mẹ mất, phải về Lạc Dương thọ tang. Đường Mục Tông Trường Khánh nguyên niên (821) lại thuyên làm Thứ Sử Qùy Châu. Năm Trường Khánh thứ 4 đổi về làm Thứ Sử Hòa Châu. Mùa xuân năm Bảo lịch thứ 2 đời Đường Kính Tông (826) lại được triệu về Lạc Dương. Năm Đại Hòa thứ 2 đời Đường Văn Tông(828)Mười bốn năn sau, một lần nữa ghé thăm lại Huyền Đô Quán, lại làm bài "Tái Du Huyền Đô Quán 再游玄都觀" để châm biếm và cười cợt những kẻ quyền qúy đã hết  thời :

                   百畝庭中半是苔,   Bách mẫu đình trung bán thị đài,
                   桃花淨盡菜花開。   Đào hoa tịnh tận thái hoa khai.
                   種桃道士歸何處,   Chủng đào đạo sĩ quy hà xứ ?
                   前度劉郎今又來。   Tiền độ Lưu Lang kim hựu lai !
     Có nghĩa :
                   Trong sân nửa mẫu rêu nhòa,
                   Đào thì rụng sạch cải đà nở hoa.
                   Trồng đào đạo sĩ đâu ta ?
                   Chàng Lưu ngày trước lại qua chốn nầy !                    

                   Inline image

       Lúc bấy giờ, những phe mhóm đối lập đã tan rả, như hoa đào đã rụng hết. Người cầm đầu là Võ Nguyên Hành cũng đã chết, như đạo sĩ trồng đào đã bỏ đi. Lưu tự hào là mình vẫn còn có ngày phục chức trở lại, như Lưu Thần Nguyễn Triêu được trở lại Thiên Thai lần nữa vậy (Chàng Lưu ngày trước lại về đây!). Vì cùng là họ Lưu, nên Lưu Vũ Tích ví mình như là Lưu Thần đã từng sống nơi cảnh Thiên Thai ngày trước, với cuộc sống thần tiên thanh cao nhàn nhã, chứ không vướng bận lợi danh chạy theo những thị hiếu thấp hèn của  người đời như những kẻ tầm thường khác.
                     
                       Inline image
                                                              
      Nói đến CHÀNG người ta cũng nghĩ ngay đến CHÀNG NGƯU và Ả Chức, tức Ngưu Lang 牛郎 và Chức Nữ 織女. Vốn là hai vì sao ở hai đầu sông Ngân Hà trên trời. Tương truyền Chức Nữ là cháu gái của Ngọc Hoàng giỏi nghề dệt vải, gả cho Ngưu Lang là chàng chăn trâu. Vì hai vợ chồng quá yêu nhau nên chểnh mảng công việc. Ngọc Hoàng giận mới đày hai người ở hai bên bờ sông Ngân Hà, mỗi năm chỉ cho đàn ô thước bắt cầu để gặp nhau một lần vào đêm mồng bảy tháng bảy âm lịch, tục gọi là đêm Thất Tịch. Nên Chàng Ngưu Ả Chức hay Ngưu Lang Chức Nữ 牛郎織女 gì đều chỉ tình yêu trai gái hay tình nghĩa vợ chồng với nhau. Như trong truyện thơ Nôm Quan Âm Thị Kính diễn tả tình duyên trắc trở giữa Thiện Sĩ và Thị Kính vậy :

                       Thiệt công ô thước bắc cầu,
                    CHÀNG NGƯU Ả Chức giã nhau từ rày.

       Hay như trong Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu tả mối tình của Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga :

                       Hữu tình chi bấy NGƯU LANG,
                  Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.       
                                     
                      Inline image
         
      CHÀNG NGƯU là nhân vật thần thoại không có thật, chứ CHÀNG KHUÔNG, CHÀNG VŨ là những người có thật trong đời sống.

       CHÀNG KHUÔNG tức Khuông Hành 匡衡, tự là Trĩ Khuê, người đất Đông Hải huyện Quận Thừa, là một học giả nổi tiếng đời Tây Hán, làm quan đến chức Thừa Tướng. Ông xuất thân là con nhà nông nghèo khổ, gia cảnh bần hàn, phải đi làm công để đổi lấy sách học. Ông lại nổi tiếng và để đời với việc xin ông hàng xóm cho khoét một cái lổ trên vách (gọi là TẠC BÍCH 鑿壁) lúc đêm về để nhờ vào ánh đèn sáng xuyên qua lổ hổng đó mà đọc sách học hành, như cụ Nguyễn Công Trứ đã tả trong bài Hàn Nho Phong Vị Phú là :

                    Cần nghiệp Nho khi TẠC BÍCH TỤ HUỲNH,
                    Thuở trước CHÀNG KHUÔNG, CHÀNG VŨ.

                    Inline image   
                           TẠC BÍCH TỤ HUỲNH  鑿壁聚螢

      CHÀNG VŨ tức là Xa Dận, tự là VŨ TỬ. Theo Tấn Thư quyển 83 Xa Dận Truyện. Ông người đất Nam Bình, từ nhỏ đã hiếu học, nhưng nhà nghèo, ban ngày phải đi làm lụng kiếm sống, ban đêm không có tiền mua dầu thắp đèn để học. Nhân những tháng mùa hè có nhiều đom đóm, ông bèn đuổi bắt tập hợp chúng lại gói trong vải mỏng để lấy ánh sáng (gọi là TỤ HUỲNH 聚螢) mà đọc sách, sau cũng trở thành một văn học gia nổi tiếng đời Tấn.
      Nói chung, CHÀNG KHUÔNG CHÀNG VŨ gì đều chỉ những người nghèo mà hiếu học.
                           
      Cuối cùng ta có CHÀNG TIÊU là TIÊU LANG 蕭郎, là Phiếm chỉ Đại từ thường dùng để chỉ người tình hoặc ý trung nhân theo tích sau đây :
      Theo Toàn Đường Thi Thoại : Thi nhân đời Đường Nguyên Hòa là Tú Tài Thôi Giao 崔郊, thương một người nô tì tài sắc vẹn toàn của nhà bà cô. Sau vì nghèo, cô bán nô tì đó cho Liên Soái làm tì thiếp. Giao cứ thơ thẩn trước cửa Liên Soái mà không dám vào. Nhân tiết Hàn Thực người tì thiếp đi ra ngoài gặp gỡ Thôi Giao bên rặng liễu. Giao cảm xúc làm tặng nàng bài thơ tứ tuyệt nổi tiếng sau đây :

            公子王孫逐後塵,   Công tử vương tôn trục hậu trần,
            綠珠垂淚濕羅巾。   Lục Châu thùy lệ thấp la cân.
            侯門一入深如海,   Hầu môn nhất nhập thâm như hải,
            從此蕭郎是路人。   Tòng thử TIÊU LANG thị lộ nhân.
Có nghĩa :
                Công tử vương tôn ruổi bụi trần,
                Lục Châu lệ nhỏ ướt đầm khăn.
                Cửa hầu tựa bể sâu thăm thẳm,
                Từ đó CHÀNG TIÊU kẻ trước sân.
Lục bát :
               Vương tôn công tử theo sau,
               Lục Châu nhỏ lệ ướt bao khăn là.
               Cửa hầu sâu tợ biển xa,
               CHÀNG TIÊU từ đó như là người dưng.

                 Inline image

       Có người mách lẻo, định tâng công, đem bài thơ nầy cho Liên Soái xem. Liên Soái cho mời Thôi Giao vào dinh. Mọi người đều lo sợ cho chàng. Không ngờ Liên Soái cũng thuộc nòi tình, tuy rất yêu thương người tì thiếp tài hoa, nhưng thấy hai người vẫn còn yêu nhau tha thiết, nên trả nàng lại cho Thôi Giao và còn tặng cho bốn ngàn nén bạc về quê để... yêu nhau ! Tạo nên một giai thoại trong làng thơ lúc bấy giờ.

      Trong Truyện Kiều, lúc Kim Kiều tái hợp, cụ Nguyễn Du cũng đã mượn tích nầy khi Thúy Kiều cứ một mực khăng khăng không chịu thành thân với Kim Trọng :

                           ...Có điều chi nữa mà ngờ,
                   Khách qua đường để hững hờ CHÀNG TIÊU !?
                          Nghe chàng nói đã hết điều,
                   Hai thân thì cũng quyết theo một bài...
Nên cuối cùng thì cũng ...
                         Cùng nhau giao bái một nhà,
                         Lễ đà đủ lễ, đôi đà đủ đôi.
                         Động phòng dìu dặc chén mồi,
                    Bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa...

      "Bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa !" Thật cảm khái, thật ngậm ngùi, mà cũng thật dễ làm xúc động lòng người !...

                   Inline image
                    
       Từ LANG là CHÀNG cuối cùng của bài viết nầy không phải là một CHÀNG, mà là một NÀNG ?! Đó là từ NỮ LANG 女郎...              
       NỮ LANG 女郎 là từ dùng để chỉ một thiếu nữ trẻ, một cô gái còn trẻ trung. Trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, từ NỮ LANG là một cách gọi tôn xưng các cô gái lên ngang hàng với các chàng trai đồng trang lứa, như...

                  NÀNG là một NỮ LANG tài mạo song toàn !...

       Hẹn bài viết tới :
                                NƯƠNG là NÀNG.



                                                         杜紹德
                                               ĐỖ CHIÊU ĐỨC
                                                                                      
* Mời bấm vào link dưới đây để nghe bản nhạc
  "CHÀNG là AI ?" của Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết :
         

BƯỚC CHÂN NGƯỜI KHẤT SỸ - THƠ MẶC PHƯƠNG TỬ

 

Có thể là hình ảnh về 5 người, đài kỷ niệm và đền thờ


BƯỚC CHÂN NGƯỜI KHẮT SỸ

Nam Mô Bồn Sư Thích Ca Mâu Ni
Minh Đăng Quang
Điểm tinh Quang hiển trí
Tam Thế Phật truyền uy lực từ bi.

Một cội, trăm cảnh, ngàn lá
Mấy tòa sen báu uy nghi
Kỷ điệu trên miền hoa thơm cỏ lạ
Cõi đất mầu Huyền nhiệm ánh pha lê.

Chim hót lời kinh
Mây lành tương hội
Suối pháp êm đềm chảy tự nguồn xưa
Cứu Long chín khúc
Biển cả không thừa
NGƯỜI về nhặt ánh sao thưa
Kết hoa chơn lý nở đùa vườn Xuân.

Tăng Ni một mối
Khất sỹ bốn phương trời nhất nguyện
Mỗi người là ánh Hồng liên
chầu quanh Nhật Nguyệt
Tĩnh lòng giác ngộ nghe kinh
Pháp nào chẳng pháp vô sanh
Tâm nào chẳng Phật, thoát hình mộng sương!

Mỗi lá y vàng thơm cánh gió
Thấm nhuần hương Đạo khắp muôn phương
Mênh Mông mỗi bước hằng thanh tịnh
Giục giã bao người khách viên phương.

Tình chất ngất non cao
Lòng vơi vơi biển cả
Câu kinh sưởi ấm lòng nhân thế
Năm tháng còn đi giữa lạnh lùng
Đời ai dâu bể, lòng ai khổ
Có người khất sỹ dệt tình chung.

Từ mũi Cà Mau nối liền ải Bắc
Dãy Trưởng Sơn sóng sãi bóng trăng soi
Ngũ Hành đó
Năm ngón bàn tay Phật
Cửu Long đây
Dâng suối ngọt muôn đời.

Mạch Pháp dâng tràn nối liền thế kỷ
Vạn trái tim Hồng lấp lánh rừng kim cương
Nước chảy từ nguồn
Pháp đăng truyền Chơn lý
Gió mưa nào ngăn được bước hoằng dương?

Thoát hình từ lúc cây căng nhựa
Dạo vòng Nhật Nguyệt hái muôn sao
Đạp mây về đến bờ vô tận
Mở cánh sương giăng tự thuở nào.

Ai trước đã qua
Còn đậm nét tâm truyền chân sử
Ai sau đang đến
Đất cằn chuyển mạch nở đàm hoa.

Tấm y bá nạp
Kết tình huynh đệ
Miếng ruộng Phước điền
Công Đức hằng sa

Tay nâng chén Ngọc ngàn nhà
Ngàn năm mây trắng còn qua bên đường
Nguyện đời tan hết mù sương
Bóng người khất sỹ hoàng dương khắp cùng.


Westminster, hạ 2025
MẶC PHƯƠNG TỬ

Thứ Tư, 21 tháng 5, 2025

NỀN VUA - PHAN NI TẤN

 



NỀN VUA
(trích tập truyện Chuyện Tình Xẻo Rô)

- Ở Rạch Giá cũng có địa danh Tây Sơn hả nội?
- Có. Hiện nay ở ấp Tây Sơn vẫn còn “nền vua”…
* * *
Giữa thập niên 1950, ông nội tôi ở Quy Nhơn dẫn bầu đoàn thê tử vào Sài Gòn lập nghiệp, chọn đất Cầu Kho gần bến Hàm Tử mở trường dạy võ Bình Định. Mười lăm năm sau ông cáo lão hồi hưu, cha tôi kế nghiệp, dời trường về Tân Định, võ sinh ngày càng đông. Tuy vậy tình hình chiến sự giữa hai miền Nam Bắc đang leo thang khốc liệt, cha tôi được lệnh tái ngũ trở về đơn vị cũ ngoài miền Trung. Tôi - 30 tuổi, con một trong gia đình - trở thành chưởng môn đời thứ ba của nhà Nguyễn Võ. Từ ngày trở lại đơn vị cũ ngoài vùng 1 hành quân liên miên cha tôi ít khi trở về thăm nhà. Cho đến mùa hè năm 1972 dược tin cha tôi hy sinh tại đường 9 Nam Lào, ông nội tôi ngã bệnh.
Trước ngày mất độ hai tháng, nội gầy nhom nhưng nội lực vẫn còn mạnh mẽ. Thì ra vì thương nhớ cha tôi ông mang một tâm bệnh gọi là bệnh buồn. Lần đó trước bàn thờ tổ, nội cẩn thận giao lại cho tôi một cái hộp mi-ca hình chữ nhật trong đó đựng miếng đất mẻ đã thâm nâu và một hộp mi-ca hình ống đựng một lưỡi chủy thủ hoen rỉ, không có cán. Nội trầm giọng nói: “Đây là di vật của nhà Tây Sơn chúng ta. Con hãy nghe rõ lời ta dặn: Cha con đã mất, con là cháu nội đích tôn của dòng Nguyễn Võ, hậu duệ của nghĩa quân Tây Sơn, có bổn phận phải giữ gìn vật thiêng này cho thận trọng, không được
để thất thoát. Sau này con còn phải truyền lại cho đời con đời cháu của con”.
Tôi nghe trong lòng bồi hồi xốn xang vì trọng trách này. Gọi là “di vật của nhà Tây Sơn” hẳn miếng đất thiêng và lưỡi chùy thủ này đã trải qua gần 250 năm kể từ năm Tân Mão 1771 Tây Sơn tam kiệt khởi nghĩa. Hỏi thì nội nói như mê: “Hai di vật này năm xưa tồ phụ của con đích thân lặn lội từ Bình Định xuống tận vùng Rạch Giá mạo hiểm vào khu rừng hoang miệt ấp Tây Sơn mới đào về được ”.
Nói về lai lịch miếng đó ất nội cho biết: “Cũng nhờ ông Châu Sía, bạn tâm giao của tổ phụ con, về già lưu lạc xuống miền Hậu Giang chọn đất Tây Sơn hẻo lánh làm nơi ẩn cư. Khi khám phá ra “nền vua Tây Sơn” trong một cánh rừng già, ông đã đánh tiếng ra Quy Nhơn báo cho tổ phụ con biết lai lịch nền đất đó". Tôi hỏi sao ông Châu Sía biết đó là "nền vua" thì nội nói uy tín của các bô lão trong ấp một khi đã xác nhận về di tích nào đó thì không thề coi đó là trò đùa , hơn nữa nhờ công trình khảo nghiệm của tổ phụ con mới khằng định di tích đó không phải là truyền thuyết trong dân gian mà nền đất đó có thực từ thời Gia Long tẩu quốc.
Chuyện ông nội tôi kể thật độc đáo.
Trước đời Gia Long, bờ biển Rạch Giá là khu rừng sác, nhiều cây mắm, cây giá, ô rô, cóc kèn, không giúp ích gì cho dân, nhưng nhờ bông tràm và cây giá nên huê lợi chính lá sáp và mật ong. Thời đó, đất Rạch Giá vẫn còn hoang dã, rừng tràm trầm thủy mênh mông, sông rạch chằng chịt, nhiều phèn và thấp. Những đợt Nam tiến tràn đi khai hoang lập ấp, lưu dân phải chọn những gò đất cao dọc theo sông Cái Lớn và Cái
Bé để cư trú, dần dà lập ra chợ Rạch Giá, từ đó mọc lên nhiều địa danh.
Địa danh lả một tên gọi, do thói quen của người bản xứ nó được hình thành trong những hoàn cảnh đặc biệt từ một hoài bão, một ước mơ hoặc nhắc nhớ đến công lao nào đó mà đặt tên như Rạch Sõi, Cù Là, Minh Lương, Tà Niên, Xèo Rô, Tắc Cậu, Bến Trống, Bào Láng, Heo Nằm Bếp, Thứ Ba, Thứ Ba Biền, Thứ Sáu Đình… Ấp thì có ấp Tà Keo, ấp Rạch Vượt, ấp Xoa Áo, ấp Rạch Đùng, ấp Xẻo May… Còn kinh rạch thì có kinh Dài, kinh Cụt, kinh Bà Lò Xén, kinh Chèm Chẹt , kinh A, kinh B… cho tới Thứ Bảy Kinh Làng là giáp mé biển Vịnh Xiêm La.
Nói tới Rạch Cây Giá (về sau đổi thành Rạch Giá) không ít người địa phương lấy làm hãnh diện khi biết thời xa xưa giữa lòng Rạch Giá lại có địa danh Tây Sơn. Nếu ai là dân Cây Xoài có thể biết từ Cây Xoài đi lên hướng Tây Nam khoảng 10 cây số đường chim bay sẽ gặp ấp Tây Sơn.
Trước thời thực dân, Tây Sơn là một ấp vắng vẻ, nghèo nàn, dân cư thưa thớt. Dân chúng ở đó sống bằng nghề ruộng rẫy, bắt rắn, giăng câu. Nhưng ấp Tây Sơn, sáng chim kêu, chiều vượn hú, mùa màng thường thất bát nên nhiều người chuyển qua nghề ăn ong (sáp và mật ong), buôn củi lậu. Chính những người thợ rừng này len lỏi theo các đường quanh nẻo tắt trong rừng để vận chuyển hàng lậu, vô tình họ khám phá ra một nền đất khác lạ. Phải tinh mắt lắm mới phát hiện được nền đất bị mưa nắng vùi dập, cây rừng phủ lấp gần hết. Thấy lạ họ sanh nghi về báo cho ông Châu Sía và các bô lão trong ấp biết. Hôm sau họ theo nhóm thợ rừng lội tới tận
nơi nghiên cứu chứng minh thì biết nền đất này đã có từ lâu đời. Nghĩa là nền nhà bí mật bỏ hoang trong khu rừng rậm đó dân địa phương khẳng định là đồn lũy của nghĩa quân Tây Sơn năm xưa lập căn cứ để truy đuổi Nguyễn Phúc Ánh.
Năm 1782, vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) cùng Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đánh Gia Định lần thứ tư, Nguyễn Phúc Ánh lại thua bị truy đuổi phải bỏ chạy vào Tam Phụ (Định Tường),qua cửa Cần Giờ, về Sóc Trăng, xuống Kiên Giang rồi ra đảo Thổ Chu thuộc huyện Phú Quốc. Khi tới Kiên Giang thì quân Tây Sơn mất dấu Nguyễn Phúc Ánh.
Trước khi lui về Quy Nhơn, anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ cho hạ trại dưỡng quân trong một cánh rừng già. Để tránh rắn rít, thú dữ quân binh Tây Sơn dã nhanh chóng đắp nên một gò đất cao làm đồn binh, chung quanh đào hào đắp lũy khá kiên cố. Đó là đồn lũy đầu não của nghĩa quân Tây Sơn nhằm tiến hành việc bình định toàn miền Nam sau này đồng thời tiếp tục truy tìm dấu vết Nguyễn Phúc Ánh và đoàn tùy tùng.
Ngày nay đồn lũy trên gò đất đó không còn, nhưng nền vua vẫn còn đó, vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt mặc cho nắng mưa xâm hại, nứt nẻ, rỗ chằng.
Lịch sử đã ghi chép về Nhà Tây Sơn là một triều đại quân chù được dựng nên từ những anh hùng áo vải cờ đào. Tuy chỉ tồn tại gần ¼ thế kỷ, nhưng trong lịch sử nước Nam công của nhà Tây Sơn rất lớn; dù công cuộc thống nhất đất nước không thành nhưng đã thành công trong việc mở mang bờ cõi sau hàng trăm năm đất nước bị chia cắt bởi cuộc phân tranh giữa hai thế lực Trịnh - Nguyễn. Để ghi nhớ công lao tiền nhân, dân chúng đã lập đền thờ các anh hùng dân tộc của triều đại
này, một triều đại với những chiến công hiển hách chống ngoại xâm, bảo vệ sơn hà xã tắc đồng thời đưa ra nhiều kế hoạch cải cách kinh tế, văn hóa và quân sự.
Đoạn viết thêm
Truyện Nền Vua kể trên xảy ra trước thời kỳ mất nước. Còn người xưng "tôi" trong truyện này là võ sư Nguyễn Võ Côn, nay đã 80 tuổi, hiện sống cùng gia đình tại một tình nhỏ thuộc miền Nam nước Pháp. Năm ngoái, tôi, người viết cốt truyện này, cư trú ở Toronto, Canada nhận được thư của võ sư Côn mời qua Pháp thăm gia đình ông được ông cho xem hai báu vật thời Tây Sơn khởi nghĩa: một hộp mi-ca đựng miếng đất mẻ và một hộp mi-ca hình ống đựng lưỡi chủy thủ, như đã nói ở phần trên. Sau đó, bên cốc rượu nho tôi nghe ông Côn tâm tình với nhiều chuyện bất ngờ đến thú vị.
Ông nói cha ông đặt tên ông là Côn vì ông sinh tại huyện An Lão, đầu nguồn dòng sông Côn, tình Bình Định. Thuở nhỏ đến lớn ông Côn vốn ưa thích phiêu luu mạo hiểm, thường chọn rừng sâu núi thẳm luyện võ công. Khi nhậm chức chưởng môn của dòng Nguyễn Võ ở Sài Gòn, vai mang trọng trách giữ gìn hai di vật đời Tây Sơn, võ sư Nguyễn Võ Côn đã có ý định khi có dịp sẽ đi Rạch Giá lên Tây Sơn tìm hiểu thêm về "nền vua".
Vậy mà sau khi ông nội của võ sư Côn thất lộc mãi đến hai năm sau ông mới thưc hiện được chuyến đi thăm "nền vua" ở ấp Tây Sơn. Lúc bấy giờ không còn ai biết tung tích ông Châu Sía luu lạc về đâu. Ông Côn hỏi thăm di tích nền vua thì được càc bô lão địa phương chỉ dẫn ông đi sâu vào một cánh rừng ở phía Đông Nam.
Theo con đường mòn ông Côn băng rừng lội rạch đi mãi. Trưa trời đứng bóng, nắng vẫn không xuyên qua nổi những kẽ lá. Lúc quẹo cua tới gốc cây mù u định nghỉ chân bất ngờ ông
Côn bị kẻ lạ từ trong bụi lao ra tập kích. Ông ngạc nhiên không hiểu tại sao hai tên du kích Việt cộng lại muồn giết mình, nhưng ông chợt hiểu vì không muốn bị lộ hành tung, hai tên này đã dùng báng súng đánh thẳng vào mặt ông nhằm diệt khẩu. Là con nhà võ chân truyền võ sư Nguyễn Võ Côn bình tĩnh rùn người xuống tránh đòn ác hiểm đồng thời ông nhanh nhẹn nhích tới xòe hai bàn tay thép vỗ mạnh vào mạn sườn để hở của hai tên địch. Bị dính đòn cả hai tên tức thở buông súng ngã vật xuống đất ú ớ ôm mạng mỡ lăn lộn lộ vẻ đau đớn cùng cực. Ông Côn không muốn giết người, dù họ là Cộng phỉ, nên ông lặng lẽ lượm hai cây AK ném xuống rạch xong quầy quả trở về Sài Gòn ngay. Chuyện tìm nền vua đành phải để dịp khác.
Đang say sưa kể chuyện chợt nhìn thấy ánh mắt của bạn ông Côn biết ngay tôi muốn nói gì, ông tiếp luôn: "Ông bạn à! Võ học là một nghệ thuật siêu đẳng. Tôi học võ gia truyền để không bị thất truyền. Luyện võ cũng có cái lợi là để cường thân kiện thề và để phòng thân mỗi khi gặp bất trắc. Trong đời võ nghiệp tôi từng hạ nhiều đối thủ nhưng chưa bao giờ có ý dụng võ để hạ độc thủ. Năm xưa trong cánh rừng ở ấp Tây Sơn, Rạch Giá nếu muốn giết người bịt miệng tôi chỉ cần điểm vào tử huyệt cùa hai anh du kích là xong ngay. Nhưng họ cũng là con người có cha, có mẹ, có anh, có em; cho dù họ bị chủ nghĩa Cộng sản nhồi sọ dến mất cả lương tri, tôi vẫn sẵn sàng tha thứ cho họ, vì họ không hiểu biết, không ý thức hành động của mình, vạn vật đồng nhất mà. Cho tới bây giờ, biết chắc hai anh du kích năm xưa sau cơn đau sẽ thoát nạn, nhưng thưa bạn, tôi vẫn còn áy náy về hành động tự vệ dù chính đáng cùa mình.
Võ sư Nguyễn Võ Côn còn cho biết dòng dõi gia đình ông xưa kia mang họ Võ theo phò Tây Sơn tam kiệt đổi thành họ Nguyễn nhưng vẫn lót chữ Võ để nhớ họ xưa của mình.
Nhưng hào hứng nhất tôi còn được cháu nội của võ sư Nguyễn Võ Côn biểu diễn những đường quyền Bình Định vô cùng dũng mãnh và đẹp mắt, không hổ danh "con gái Bình Định múa roi đi quyền".
Lúc từ biệt tôi được ông Côn tặng cặp rượu nho do chính tay ông cất. Có nhãn hiệu in ấn đàng hoàng, đề: "Tửu Võ". Ý nói rượu của nhà Nguyễn Võ, ông Côn nói vậy. Về nhà một tuần sau tôi mới khui rượu uống và viết ra truyện ngắn này


PHAN NI TẤN

Thứ Ba, 20 tháng 5, 2025

TIẾNG DẾ SAU MƯA. - TỪ KẾ TƯỜNG

 



TIẾNG DẾ SAU MƯA

Sài Gòn sau những cơn mưa đầu mùa trút xuống vào buổi chiều, tối đến trong sân nhà tôi chợt có tiếng dế gáy rả rích trong vệ cỏ hoặc kẹt đá. Thế là trẻ con trong xóm tụm năm, tụm ba cầm lon sữa bò đi tìm bắt dế dưới ánh đèn khu phố. Điều lạ lùng là những con dế đá cứ thấy ánh đèn néon sáng choang thì từ các hang hốc hoang dại, gốc cây, bờ ruộng sũng nước miệt ngoại ô bay tới cái vùng sáng mơ hồ ấy, rồi bạ đâu hạ cánh ở đó cất tiếng gáy vang gọi bạn tình. Những chị dế mái bụng no trứng tới kỳ sinh nở cũng theo cái quầng sáng quyến rũ ấy mà tấp nập bay về. Chỉ một đêm kết bạn “giao hoan” anh dế trống có thể dắt về “tổ ấm” của mình hai, ba chị dế mái để rồi những ngày sau đó một thế hệ dế ra đời.
Nhưng nếu chẳng may anh dế trống với tiếng gáy kêu gọi bạn tình tha thiết ấy sa vào tay bọn trẻ con thì ngày mai sẽ trở thành một dũng sĩ trên đấu trường nghiệt ngã. Anh nào thắng thì được cho ăn giá sống bồi dưỡng , uống sương ngọt đọng trên lá cỏ non xanh để chờ trận đấu kế tiếp. Anh nào bại trận, dù không “sứt ngoe, gãy gọng” cũng bị cậu chủ…ngắt đầu làm cục mồi nhử cắm vào cây que tăm nhang để ngoáy râu chọc tức chú dế thắng trận cho thêm hăng máu trước khi ra đấu trường tử chiến.
Nếu bọn trẻ con trong xóm lười biếng đi lùng bắt dế đá bay về mọi ngõ ngách nội thành thì sáng ra có thể chực sẵn nơi ngã tư, ngã ba hoặc trước cửa trường học để chọn mua dế nơi người nông dân đạp xe chở giỏ đựng dế từ miệt ngoại ô Hóc Môn, Củ Chi vào thành phố để bán, kiếm thêm thu nhập. Dế được đựng trong hai chiếc giỏ tre to đùng, bò lúc nhúc, dế than, dế lửa lẫn lộn, có những chú dế “sung độ” đập cánh gáy vang, tạo thành âm thanh rộn ràng nơi một góc phố.Tiếng gáy của “những dũng sĩ dế” đầu mùa mưa trước một cổng trường, nghe thôi thúc, hấp dẫn những chú nhóc tì thành phố bỏ tiền ra mang chúng về đựng trong hộp diêm quẹt, hộp thuốc…để bắt đầu cho trò chơi chọi dế.
Nhìn những chú nhóc lom khom tay cầm lon đi tìm bắt dế dưới ánh đèn khu phố sau những đêm mưa đầu mùa, hay nhịn quà sáng, dành tiền mua dế của người nông dân bán dế nơi góc phố, trước cổng trường học tôi không khỏi nôn nao nhớ lại thời tuổi nhỏ của mình nơi góc làng quê cũng với trò chơi đá dế. Nhưng để có được một chú dế “chiến đấu trên từng cây số”, thủa ấy, tôi cũng như những đứa trẻ cùng trang lứa phải vác cuốc, cầm dao đi…rình dế từ lúc trời rựng sáng khi đồng rẫy, bờ rào còn mờ mờ hơi sương. Lũ trẻ chúng tôi khi nghe tiếng dế gáy vang từ xa, cứ hướng đó thẳng tiến, và để bắt được những chú dế từ trong thiên nhiên thật không phải dễ dàng mà phải mất rất nhiều công sức, chứ không sướng như trẻ con thành phố.
Bây giờ ở thành phố, khi những cơn mưa đầu mùa trút xuống, mỗi lần nghe tiếng dế gáy trong sân nhà, lòng tôi cứ nôn nao nhớ lại một thời tuổi nhỏ ở quê làng. Tiếng dế sau cơn mưa đầu mùa hay những đêm trăng đều thôi thúc tôi nhớ về kỷ niệm những tháng năm đẹp nhất đời người và thật sự đó là những đêm khó ngủ cho người nhớ quê đã thành bệnh mạn tính.



TỪ KẾ TƯỜNG

Thứ Hai, 19 tháng 5, 2025

CÂU KINH GIỮA LÒNG TÔI - THƠ MẶC PHƯƠNG TỬ






CÂU KINH GIỮA LÒNG TÔI 


Lâu lắm 

Không làm bài thơ cúng Phật 

Những câu chú 

Vẫn còn nằm yên trong trang kinh cũ 

Chỉ lần theo hạt bụi thời gian 

Tìm nghe hương cỏ bên trời 

Sỏi đá tâm tình ở mãi tấm lòng tôi.

Chúng ta 

Là những người hiện thân vào thế kỷ 

Đã khoát lên chiếc áo đời rất thật 

Màu lá đương xanh 

Mang đầy nghĩa Phật 

Mỗi ý niệm an lành 

Lòng Phật vẫn mênh Mông

Từng bước đi xa, 

Gọi nhau về bổn xứ 

Nghe chim hót 

Vang những lời tình tự 

Mỗi ngày mặt trời lên 

Cho thơm trái tim đời.

Câu kinh kệ 

Khi đã viết vào những trang vui 

Trang lòng mới 

Cho Hồng thêm câu chữ. 

Những vì sao 

Vẫn thức trắng giữa đêm đen 

 Những hạt sương 

Vẫn sáng hồn trên chiếc lá 

Đường ta đi bốn phường về mới lạ 

Thức trắng đời thơ 

Cho ý thức chong đèn. 

Ta gặp nhau 

trên đường đời muôn ngã 

Và chia nhau theo mỗi ngã vào đời 

Như con Ong di tìm hương mật 

Con Kiến tha mồi chia mảnh thời gian. 

Ta mang từng ý niệm xanh 

Cho cây đời thêm sức sống 

Cho trăm nụ chồi xanh 

thêm biếc Lộc 

Để lối về hoa cỏ sắc thêm tươi 

Câu kinh kệ 

Khi đã viết giữa lòng tôi! 



Westminster, hạ 2025

MẶC PHƯƠNG TỬ


Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2025

VỀ LẠI QUẢNG NGẢI, THƠ LUÂN HOÁN ,NHẠC PHAN NI TẤN








VỀ LẠI QUÃNG NGÃI
THƠ LUÂN HOÁN
NHẠC & TRÌNH BÀY PHAN NI TẤN


CÁ BỐNG MẮT TRE - TỪ KẾ TƯỜNG

 



MỘT GÓC TRỜI QUÊ:
CÁ BỐNG MẮT TRE

Cùng họ cá bống, nhưng con cá bống mắt tre rất đặc biệt vì nó không trốn chui trốn nhủi trong hang hốc hay vùi dưới bùn sình mà lôi nhởn nhơ trong dòng nước mát trong như con… cá kiểng người ta nuôi trong hồ kiếng. Cá bống mắt tre cũng là loài cá hiền lành, gần gũi, thân thiện với con người, chúng không hoảng sợ mà lúc nào cũng tung tăng bơi lội khi nước lớn từ sông chảy vào rạch rồi từ rạch bắt đầu chảy vào mương vườn. Cá bống mắt tre ăn phiêu sinh vật trôi theo váng phù sa, chúng sống từng đôi hoặc theo bầy như trang điểm thêm, góp thêm màu sắc cuộc đời và gắn liền với kỷ niệm thời thơ ấu của người sinh ra ở quê, ở miệt vườn, miệt rẫy.
Ngày nhỏ tôi đi học trường xa toàn đi bộ. Lớp nhì, lớp nhất vẫn quần cụt đen (quần đùi), áo sơ mi trắng ngắn tay, chân đất cuốc bộ non 2km đường tới trường. Mùa mưa đất bùn trơn nhầy, có đoạn giống như đi pa-tanh, không quen sẽ “chụp ếch”, té lăn đùng xuống ruộng. Mùa nắng cả một cánh đồng không như bốc cháy nếu không có những cơn gió từ phía sông Bến Bạ thổi qua cánh đồng những đứa học trò chân đất như tôi thuở ấy sẽ bị thiêu sống trên con đường đất trắng xa thăm thẳm.
Nhưng may sao, ở hai đầu con đường đến trường xa thăm thẳm ấy có những vườn dừa nối sát nhau, cắm mặt đi riết rồi cũng tới. Vườn dừa chạy cặp theo hai bên đường, toàn bóng dừa mát rượi và những con mương đầy nước. Tôi thích đi dọc mương vườn tìm lũ cá mắt tre, chúng chọn những chỗ nước trong để bơi lội nhỡn nhơ, hình ảnh những con cá bống mắt tre gợi cho tôi sự thanh bình, trầm mặc. Cá bống mắt tre cỡ đầu đũa ăn, dài khoảng 2cm, thân hình thon gọn, có sọc rất đẹp. Cá bống mắt tre không nhút nhát mà rất dạn dĩ, chúng bơi lội sát bờ mương và tôi có thể cúi sát mặt nước để quan sát chúng.
Tôi không hiểu tại sao gọi là cá bống mắt tre. Có thể do thân hình của chúng có những hoa văn như mắt của cây tre nhiều đốt chăng? Nhưng tôi biết rất rõ cá bống mắt tre gắn liền với mương vườn, mà người miệt ruộng, miệt vườn mới biết. Tôi thường bắt cá bống mắt tre nuôi trong lon sữa bò, nhưng rồi chúng cũng chết vì xa rời vùng nước trong veo lẫn váng phù sa màu mỡ. Không riêng gì tôi mà mấy đứa con gái tuổi với tôi ngày ấy thường bắt cá bống mắt tre nuôi trong lon sữa bò, trong hũ keo thủy tinh để chơi nhà chòi, chăm sóc rất cẩn thận nhưng cá bống mắt tre cũng không sống nổi, Nhiều lần như vậy nên tôi kết luận cá bống mắt tre không thể sống ngoài môi trường quen thuộc của chúng là mương vườn, được tung tăng theo váng phù sa.
Lâu rồi, về quê, đi trên mương vườn lúc nước đang lớn, tôi cố ý tìm những con cá bống mắt tre ngày thơ ấu nhưng tuyệt không thấy. Cá bống mắt tre và cá ốc mít gần như tuyệt chủng trong mương vườn khiến tôi đau đáu những kỷ niệm tuổi thơ. Tôi không hiểu vì sao? Có lẽ chỉ một lời giải thích môi trường nước trong kênh, rạch, mương vườn quê tôi bây giờ bị ô nhiễm không thể cứu chữa bởi những ao tôm công nghiệp bùng phát tràn lan, mất kiểm soát. Những ao tôm công nghiệp tự phát này đã xả nước thải ra môi trường nước mỗi ngày khiến các loài thủy sản bị tận diệt. Huống chi con cá bống mắt tre nhỏ bé, hiền lành thích nhởn nhơ trong dòng nước sạch trong veo như tôi đã từng thấy?


TỪ KẾ TƯỜNG