CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 5 tháng 11, 2025

ĐỌC ''MÙA THU CŨNG VỪA QUA NGÕ THƠ VIẾT ĐỨC - CHÂU THẠCH

 

ĐỌC “MÙA THU CŨNG VỪA QUA NGÕ” THƠ VIẾT ĐỨC
                                          
 
M ù a t h u
c ũ n g v ừ a
q u a n g õ.
 
Nhắn tin em không trả lời
Alo em không bắt máy
Chừ hỏi biết phải làm sao
 
Mưa buồn rơi trên xóm nhỏ
Ta về qua ngõ nhà em
Ướt nhèm đôi vai thấm lạnh
 
Hỏi lòng thầm bao thương nhớ
Hỏi tình dạt mối tơ vương
Mà ngơ ngác dại bên đường..
 
Hôm qua ta về xóm nhỏ
Cố tình trả lại chiều mưa
Mùa thu cũng vừa qua ngõ.
( *Trích trong tập thơ . Tình bọt biển )
                           SG 20/9/2025.
                              Viết Đức
 
Lời bình: Châu Thạch
 
Hôm nay 12 tháng 8 âm lịch, tức là giữa thu, có nghĩa là tất cả nhà của qúy vị đều đã có thu qua ngõ. Thơ về múa thu thì vô số, thơ hay về mùa thu cũng vô số, nhưng sáng nay tình cờ đọc được bài thơ về mùa thu vừa qua ngõ, trong khi thu cũng đã qua ngõ nhà tôi, khiến cảm xúc trong lòng tôi nôn nao như nhận được một món quà mình yêu thích. Hơn nữa bài thơ “Mùa Thu cũng Vừa qua ngõ”của Viết Đức (tên thật Nguyễn Viết Đức) ngắn gọn và xúc tích, phù hợp với tuổi già như tôi, thích những bài thơ cô đọng để khi đọc đôi mắt được nghỉ ngơi, thư giản mà thưởng thức thơ thì dễ sâu nhiệm những điều ẩn sâu sau con chữ.
 
Thật ra, nói bài thơ nầy ngắn vì nó có ít câu, nhưng không ngắn về những ẩn ý chan chứa trong đó, mà nếu ta có thể nói được hết ý nghĩa, thì nhiều như sóng gợn trên dòng trường giang đang chảy.
 
Ba câu thơ đầu viết về một sự cố xảy rá trong tình yêu. Sự cô đó không gây tổn thất vật chất và tinh thần, nhưng chắc chắn nó làm cho ai là người đang yêu sẽ lúng túng để đối phó một nan đề khiến sinh ra nhiều dấu hỏi trong ngăn tim:
 
                                Nhắn tin em không trả lời
                                Alo em không bắt máy
                                Chừ hỏi biết phải làm sao
 
Chừ hỏi biết phải làm sao ? Đến nhà em chăng? Hay chờ em trước ngõ nhà như mùa thu vừa qua ngõ? Có thể nhờ bạn em làm con chim xanh liên lạc với em ?...Vâng, có nhiều giải pháp để đến với em. Nhưng câu thơ không phải là để tìm giải pháp ấy. Câu thơ hỏi mà không hỏi. Câu thơ cho ta suy diễn nỗi băn khoăn, phập phồng, âu lo trong lòng người đang yêu. Câu thơ viết lại tâm trạng của hàng vạn người đang yêu nhau giữa đất trời nầy, họ có những giây phút tưởng là âu lo nhưng là vô vàn hạnh phúc để trở thành kỷ niệm trong cuộc đời.
 
Vậy đó, thơ có thể không có chữ cầu kỳ, thơ có thể không có ý gì độc đáo, thơ có thể như một chiếc lá đang bay, có thể như một vầng mây nhỏ, nhưng lá bay giữa mùa thu, mây trôi trong bầu trời xanh sẽ trở nên lảng mạn vô cùng trong phút giây ta thưởng thức. Như bài thơ nầy, với ba câu như ba chiếc lông hồng bay trong gió, đã làm cho mắt ta đọc, tâm ta nghĩ đến nỗi buồn hay niềm vui khi gặp rắc rối tình yêu, tùy suy tưởng mỗi người.
 
Và rồi, trong ba câu thơ tiếp theo, tác giả đã tìm ra giải pháp cho mình. Nhà thơ “về qua ngõ nhà em”. Có lẽ nhà thơ đi qua đi lại ngõ nhà em nhiều lần trong thời điểm mùa thu cũng vừa qua ngõ nhà em. Bởi vậy ba câu thơ trở thành một đoạn phim ve vuốt nỗi niềm người xem với bóng người đi qua xóm nhỏ trong mưa, làm cho xóm nhỏ, ngõ nhà em và em trở nên những dấu vết hằn lên ký ức, và tình yêu cũng hằn trên đôi vai lạnh mang đi suốt cả cuộc đời:
 
                                     Mưa buồn rơi trên xóm nhỏ
                                     Ta về qua ngõ nhà em
                                      Ướt nhèm đôi vai thấm lạnh
 
Thơ không thây đau khổ khi người trai đi trong mưa lạnh. Thơ không thấy phủ phàn khi chàng trai qua ngõ nhà em cô độc trong mưa. Thơ cho thấy một cuộc tình thám thiết, đam mê, cho thấy xóm nhỏ, ngõ nhà em và cả không gian nơi đó tràn đầy tình tứ, làm lạnh đôi vai tác giả nhưng làm ấm con tìm người đọc. Ta thấy ta ở ngay trong thơ và ta thấy tình ta có nỗi buồn lung linh trong qúa khứ.
 
Ba câu thơ kế tiếp tác giả viết về những biến chuyển của lòng mình trên bước chân qua ngõ nhà em:
 
                                   Hỏi lòng thầm bao thương nhớ
                                   Hỏi tình dạt mối tơ vương
                                   Mà ngơ ngác dại bên đường.
 
Hỏi không có dấu hỏi, tức là trả lời, tức là bày tỏ nỗi thương nhớ, sự băn khoăn vương vấn trong lòng, rồi ngẩn ngơ, ngơ ngác đứng bên đường như một người khờ dại. Đúng thế, lời thơ tình yêu biến ta thành khờ dại có đầy trong các tác phẩm thi ca.
 
Thế rồi tình yêu phải mất mới dễ thành thơ, tình yêu phải tan thành mãnh vụn thì vần thơ mới thành những chuổi hạt kim cương. Hôm qua tác giả trở về xóm nhỏ, cố tình tìm lại chốn xưa, buồn hay vui trong lòng, tác giả không nói, nhưng đúng lúc nhà thơ qua ngõ nhà em thì mùa thu cũng lại trở về qua ngõ nhà em, như một mùa thu của nhiều năm trước:
 
                                   Hôm qua ta về xóm nhỏ
                                   Cố tình trả lại chiều mưa
                                    Mùa thu cũng vừa qua ngõ.
 
Vì sao nhà thơ viết “Hôm qua trở về xọm nhỏ/Cố tình trả lại cơn mưa”? . Có lẽ tình yêu ấy bám theo suốt đời, tác giả muốn quay lại một lần, nhìn lại cảnh củ, để rồi quên đi vĩnh viễn kỷ niệm xưa. Khó lắm người ơi vì nhà thơ lại để cho “Mùa thu cũng vừa qua ngõ” đúng lúc mình về. Hai câu thơ như liên kết nhau khẳng định một mối tình lớn, dầu ngăn cách nhưng nó vĩnh viễn trong lòng cùng với mùa thu của đất trời. Người trở về thì thu trở về, thu còn giữa bốn mùa thì tình còn ở trong con tim máu đỏ của nhà thơ.
 
Bài thơ “Mùa Thu Cũng Vừa Qua Ngõ” có tựa đề đã là một câu thơ. Những câu thơ kế tiếp trong bài thơ tựa như bước đi của mùa thu qua ngõ nhà em. Lời thơ từ tốn, ẩn chứa sâu nhiệm tâm tư của người đang yêu, đong đầy những kỷ niệm được gói gọi trong mỗi câu thơ. Bài thơ thẩm thấu vào lòng tôi khung cảnh diu dàng của thu qua ngõ nhà em và bóng dáng chàng trai đang yêu trong mưa trên con đường thu lạnh!
                                             

              CHÂU THẠCH

Thứ Ba, 4 tháng 11, 2025

NGUYỆT QUẾ THƠ NGOÀI HIÊN - TỪ KẾ TƯỜNG




 NGUYỆT QUẾ THƠM NGOÀI HIÊN

Không chỉ có cuộc đời thăng trầm, biến đổi theo hướng phát triển hay tàn lụi theo thời gian, hoàn cảnh, bước ngoặt xã hội mà cây cỏ vốn tự tại trong thiên nhiên cũng không ra khỏi quy luật nghiệt ngã này. Tôi muốn nói về hai chậu nguyệt quế ngay dưới hiên nhà, sát thềm sân. Sau những năm tháng phơi mưa, chịu nắng hầu như không được bàn tay con người chăm sóc đã gần như tàn lụi, héo cằn khi tôi về đây.
Hai cây nguyệt quế trong chậu lớn này tôi trồng từ cây con, nó lớn dần theo những năm tháng, nắng mưa tôi đi về. Những dịp cuối tuần ấy, tôi chỉ có 2 ngày ngắn ngủi nên không làm được hết mọi việc trong ngôi nhà rộng, khu vườn mênh mông nên nhiều lần, dù hai cây nguyệt quế nằm hai bên lối đi của thềm nhà cũng được lướt qua trong những ngày vội vã đi về ấy. Hay cây nguyệt quế cũng có giai đoạn thanh xuân, hoa trắng ngần, thơm hương khắp hành lan, tràn vào nhà, ngay phòng khách nơi tôi thường ngồi uống cà phê, uống trà lúc sớm mai.
Nhưng đời cây cũng giống đời người. Qua thanh xuân thì đến giai đoạn tàn phai nếu không được chăm sóc, thay đất, bón phân, tưới nước. Hơn một năm nay, tôi đi về nhà thường xuyên, ở lại dài ngày nên ngoài việc quét dọn, sửa chữa nhỏ ngôi nhà, chăm sóc vườn trước, vườn sau tôi đã có thời gian dành nhiều cho khoảng sân, cây kiểng, trong đó có hai chậu nguyệt quế. Tôi cắt bỏ cành khô, thay đất mới, bón phân bò, tưới đủ nước mùa khô. Do đó hai cây nguyệt quế dần hồi sinh. Sau hơn một năm đã xanh tươi trở lại.
Sáng sớm hôm nay khi dậy sớm ngồi làm việc, theo thói quen tôi mở hết những cánh cửa cho thoáng, đón không khí đầu ngày mới ùa vào thì nghe mùi thơm nguyệt quế dậy lên. Mùi thơm nguyệt quế nồng nàn mà thanh thoát, ngào ngạt mà không gắt, xộc thẳng vào mũi. Mùi thơm như lướt qua giúp ta thoáng giật mình, nhớ ra điều gì đó trong lãng quên mơ hồ của ký ức, hoài niệm bùng lên, đủ để đánh thức cảm xúc lắng chìm ngày tháng trôi qua.
Tôi ngỡ ngàng bước theo hương thơm này và nhận ra hai chậu nguyệt quế xanh tươi, um tùm đã trổ hoa trắng ngần trong sớm mai còn đọng hơi sương. Vậy là sau mấy ngày ảnh hưởng của mưa bão áp thấp từ xa, nguyệt quế đã âm thầm đơm hoa trong thời tiết bước sang mùa của ánh trăng thượng tuần còn chìm khuất đâu đó trong góc trời giông tố. Đến hôm nay, sớm mai một ngày mới với tín hiệu dứt mưa, trời hanh khô thì nguyệt quế bừng nở, chi chít những chùm hoa trắng, dậy hương thơm khắp hành lan và tràn vào nhà.
Nguyệt quế lại thơm ngoài hiên. Giống như tít, tựa của một bài thơ, một đoản văn, tạp bút, một truyện ngắn, cuốn tiểu thuyết sắp viết. Ồ không, trước hết giống như tên một ca khúc. Một kỷ niệm về những bước chân, hình bóng, mái tóc, bờ vai, ánh mắt, tiếng nói cười ào về, dâng lên thành cảm xúc đầu ngày.


TỪ KẾ TƯỜNG

Thứ Hai, 3 tháng 11, 2025

NGƯỜI PHỐ NÚI - THƠ PHAN NI TẤN





 NGƯỜI PHỐ NÚI

Ngày xưa tôi cũng người phố núi
lang bạt kỳ hồ lấy tiếng chơi
làm bạn những con đường xuôi ngược
mài thân mưa nắng cọ sương trời

Nhiều phen tưởng mình như chết dúi
chân mây góc biển cuối truông ngàn
có khi nhớ nhà ngồi khóc lén
hổ mặt phong trần bật cười khan

Một hôm bước tới bờ hữu hạn
làm đứa con hoang tôi trở về
cái tâm đạo hạnh xin gầy lại
thay dao cầm sách đời như mê

Lên cao mới thấy mình lận đận
chém cha ba bồ chữ mênh mông
từ trên đại học tôi rớt xuống
thành lính biên thùy trấn núi sông

Đánh giặc rừng xanh vài ba trận
về thành ngất ngưởng ngón ăn chơi
cuộc rượu trời đất say cũng chết
tỉnh ra buồn quá phận con người

Trong cơn quốc biến người hóa thú
sụp bẫy trên rừng hết mấy niên
đói lòng con thú rình ăn cỏ
cuồng chân vượt ngục kế vượt biên

Trên dòng lịch sử ta là rác
trôi giạt phương người sống cũng lâu
khá giống nỗi niềm mang bệnh nước
hồn tôi xanh mướt miếng ăn sầu

Cảm ơn thơ viết về phố núi
trên nẻo mơ hồ tận cõi xa
ánh trăng vàng cũ còn thao thức
soi ta tìm lại dặm quê nhà.


PHAN NI TẤN

Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2025

NỬA HỒN - THƠ LÊ KIM THƯỢNG

 


NỬA  HỒN

 

1. 

 

Nhớ ngày thưở ấy… “Ngày xưa…”

Chung trường, chung lớp… tuổi vừa biết yêu

Thương ngày nắng sớm, mưa chiều

Ngày thơ, ngày mộng, dáng Kiều lung linh

Trao nhau những nụ hôn tình

Nắng soi mặt nước in hình đôi ta

Tình yêu chắp cánh bay xa

Vòng tay ôm ấp, ngày qua, ngày ngày

Người yêu như thể người say

Men tình chuếnh choáng, ngất ngây miệt mài

Yêu người mới biết nhớ hoài

Yêu người mới biết ngày dài quạnh hiu

Trong vòng tay ấm hương yêu

Lời tình thủ thỉ, cho nhiều thiết tha

Hoàng hôn tắt nắng đường xa

Bước về không nỡ… ơi ta… ơi mình…

 

2. 

 

Yêu nhau một thưở cũng đành

Miễn là thưở ấy chân thành đậm sâu

Không còn trẻ để với nhau

Không em chua xót thương đau nửa hồn

Em xưa giờ đã theo chồng

Tôi còn giữ mãi tấm lòng xót xa

Mùa qua, rồi lại năm qua

Thương nhau đứt ruột nói ra chạnh lòng

Trăm năm tôi vẫn ngóng trông

Trăm năm một hướng vẫn không đổi chiều

Nhớ buồn vui một thời yêu

Nỗi đau hóa đá lắm điều chông gai

Nhớ em nỗi nhớ lâu dài

Cồn cào, tha thiết, u hoài, lặng im

Nhớ hai mảnh vở trái tim

Để tôi thương tiếc đi tìm… nửa kia…


                       

              Nha Trang, tháng  10. 2025

                  LÊ KIM THƯỢNG      


Thứ Năm, 30 tháng 10, 2025

VĂN HOÁ LÀNG CÁC DÂN TỘC MIỀN NÚI QUẢNG NAM - HỒ TỊNH

 


     VĂN HÓA LÀNG CÁC DÂN TỘC MIỀN NÚI QUẢNG NAM 

Miền núi Quảng Nam là địa bàn cư trú của các tộc người Cơ Tu, Ca Dong (thuộc nhóm Xê Đăng), Cor, Gié – Triêng. Đối với cư dân miền núi Quảng Nam, cũng như các dân tộc thiểu số cư trú dọc Trường sơn và Tây Nguyên, xưa kia dường như không có khái niệm về ranh giới hành chính xã, huyện, tỉnh, thậm chí cả ranh giới quốc gia, mà chỉ có khu vực cư trú của từng tộc người. Tổ chức xã hội cao nhất của cư dân miền núi lúc bấy giờ là làng, người Cơ Tu gọi là Vêêl, Bươl, Kr’non; người Ca Dong, người Cor gọi là Plơi. Làng dân tộc miền núi không có nơi ở cố định, sau vài mùa trồng tỉa, đất đai không còn màu mỡ, người ta phải tìm nơi khác để đốt nương phát rẫy, khi rẫy mới quá xa nơi ở, phải dời cả làng theo để gần rẫy mới; lúc trong làng có bệnh dịch, có người chết dữ cũng dời làng đi nơi khác, từ đó hình thành tập quán du canh du cư.

Ở miền núi rất khó chọn nơi bằng phẳng để làm nhà, do vậy qua kinh nghiệm dân gian, những ngôi nhà sàn là kiểu kiến trúc phù hợp với mọi địa hình. Ở nhà sàn vừa phòng tránh được thú dữ, bếp lửa giữa nhà có thể sưởi ấm người ta trong những đêm giá rét… Các loại vật liệu để làm nhà như tranh, tre, nứa lại rất dễ tìm ở rừng núi. Như vậy thói quen ở nhà sàn xuất phát từ yêu cầu thích nghi với điều kiện tự nhiên của con người. Xưa kia, để tiện cho sinh hoạt cộng đồng và dễ dàng tương trợ nhau, nhiều gia đình người dân miền núi vùng Trường Sơn – Tây Nguyên thường sống chung trong một ngôi nhà dài, cửa ra vào trổ ở hai đầu hồi, ở giữa là lối đi, hai bên chia ngăn riêng cho từng hộ, mỗi ngôi nhà có thể chứa hàng chục gia đình, chỉ cần vài ngôi nhà dài là đủ chỗ ở cho cả làng. Dần dần về sau người ta tách ra làm những ngôi nhà riêng cho từng gia đình. Ngày xưa, làng các dân tộc thiểu số có tính độc lập và tự quản cao. Địa phận mỗi làng được phân định bằng ranh giới tự nhiên như con suối, cánh rừng, đỉnh núi… Mỗi làng có một nguồn nước sạch để dùng chung, có nơi chăn thả gia súc, khu nghĩa địa trong rừng, vùng rừng núi để săn bắn và hái lượm, những nương rẫy để các thành viên trong làng canh tác… Đứng đầu làng là một chủ làng, đó là người có uy tín, có đạo đức, mẫu mực, am hiểu nhiều tri thức bản địa, nắm vững luật tục, tập quán của dân tộc, được mọi thành viên trong làng nể phục bầu lên. Bên cạnh chủ làng có hội đồng già làng, gồm những người lớn tuổi có uy tín trong các gia đình trong làng, khi chủ làng muốn đưa ra một quyết định, một phán quyết nào đó thì phải được sự thống nhất của hội đồng già làng… Tất cả dân làng phải tôn trọng và tuân theo các quyết định, phán quyết đó. Chủ làng và hội đồng già làng có vai trò quyết định mọi việc trong việc quản lý cộng đồng.

Người Cơ Tu sống quây quần thành từng làng nhỏ. Tùy theo địa hình của khu đất, làng Cơ Tu thường bố cục thành vòng hình tròn hoặc bầu dục, ở giữa là một ngôi nhà chung gọi là Gươl – dùng làm nơi sinh hoạt cộng đồng và tiếp khách. Gươl được xây dựng bằng vật liệu của núi rừng như gỗ, tre, lá nón, lá tranh… Sàn Gươl cao cách mặt đất khoảng 1,5m đến 2m, cầu thang gỗ đặt ở chính giữa hoặc 2 đầu hồi. Bên trong Gươl được trang hoàng bằng những đầu thú mà dân làng săn bắt được, các tượng gỗ người và động vật trong rừng, các cột và vách được trang trí bằng những mô típ hoa văn hình học, hình vẽ diễn tả cảnh sinh hoạt của dân làng được thể hiện bằng nét vẽ mộc mạc và màu sắc tự nhiên… Người Cơ Tu quan niệm Gươl là nơi linh thiêng nhất của làng, là cầu nối giữa con người với thần linh, nơi lưu giữ những giá trị tinh thần thiêng liêng nhất của cộng đồng(1). Nơi đây vừa lưu giữ nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, vừa diễn ra các sinh hoạt văn hóa, cũng là nơi hội đồng già làng họp bàn những vấn đề của làng, giải quyết những vướng mắc, mâu thuẫn trong các gia đình, tộc họ của cộng đồng người Cơ Tu. Làng Cơ Tu nào cũng có một cây cột buộc trâu (xơ-nur) được dựng ở chính giữa sân phía trước Gươl, đây có thể xem như là một tác phẩm về nghệ thuật tạo hình, có sự kết hợp giữa điêu khắc và hội họa. Cột xơ-nur có ý nghĩa rất quan trọng, đây là cây cột lễ của dân làng, nơi để dân làng giao tiếp với các đấng thần linh trong các dịp lễ tế, chính vì thế xơ-nur được chạm khắc và trang trí những hoa văn truyền thống đẹp nhất của người Cơ Tu.

Với người Cor, cây Nêu dựng giữa làng không chỉ có ý nghĩa tâm linh mà còn là một tác phẩm điêu khắc đặc sắc. Theo nhà nghiên cứu Lê Hồng Khánh: Cây Nêu (gơơch) hay còn gọi là cột lễ không chỉ là một nghi cụ trong lễ cúng thần có đâm trâu mà còn là một công trình điêu khắc độc đáo, thể hiện sinh động các sinh hoạt đời sống cùng thế giới tinh thần, tâm linh phong phú của đồng bào Cor. Những đường chạm, khắc, tô màu tạo thành các dải hoa văn, hình vẽ đa dạng trên cây Nêu thể hiện khá tập trung những nét đặc sắc trong nghệ thuật trang trí của một tộc người vốn có trình độ thẩm mỹ rất cao(2). Làng của người Giẻ – Triêng có quy mô nhỏ nhưng có nét độc đáo riêng với kiến trúc nhà sàn dài truyền thống. Những ngôi nhà dài của họ thường dựng ở sườn đồi thấp, dọc theo những dòng suối; ở những nơi có đất rộng thì các ngôi nhà quây quần thành hình bầu dục, chính giữa là nhà Rông – nơi sinh hoạt chung của làng. Nhà có kết cấu vững chắc với sàn cao khoảng 1m, vách gỗ, mái lợp tranh. Từ thời xa xưa, các thế hệ trong một gia đình người Giẻ – Triêng cùng sinh sống với nhau trong một ngôi nhà sàn dài. Mái nhà hình mai rùa, hai đầu đốc được trang trí bằng hai sừng trâu là hai nét đặc trưng trong kiến trúc nhà sàn của người Giẻ – Triêng. Cách bố trí mặt bằng sinh hoạt trong nhà dài thường theo nguyên tắc: giữa là một hành lang dùng làm lối đi, hai bên là nơi làm chỗ nghỉ ngơi của các hộ gia đình. Trang trí và sắp đặt các vật dụng sinh hoạt trong một ngôi nhà truyền thống của người Giẻ – Triêng luôn bố trí theo hướng từ Đông sang Tây. Người Giẻ – Triêng quan niệm hướng Đông là nơi ánh mặt trời buổi sáng bắt đầu cho một ngày, là hướng của thần linh, từ đây ánh nắng mặt trời tỏa đi khắp các hướng khác sưởi ấm cho vạn vật, để con người mạnh khỏe, muôn thú sinh sôi đông đúc, cây cối tốt tươi, đem lại hạnh phúc cho dân làng, vì thế, hai cửa ra vào mở ở hai bên hông của ngôi nhà, cửa chính được mở ở hướng Đông, cửa phụ nằm ở hướng Tây.

Nguồn nước đối với người Ca Dong rất quan trọng và linh thiêng. Người Ca Dong chọn những vùng có nguồn nước để lập làng (Plơi) và đặt tên cho làng của mình theo tên của con suối dẫn nước về làng đó (như Tak Pỏ, Tak Chanh, Tak Xa…). Mỗi Plơi của người Ca Dong có từ 20 đến 30 nóc nhà (spôk), làng nào cũng có một máng nước (lang-tak). Nhà ở thường san sát nhau, xen vào giữa là kho thóc của từng gia đình. Mỗi plơi có một ngôi nhà chung (Ưng) dựng ở giữa làng làm nơi hội họp của mọi người trong Plơi, đây cũng là nơi tiến hành các nghi thức tín ngưỡng.

Khi dẫn nước từ những con suối đầu nguồn về sinh hoạt họ làm lễ cúng rất trang nghiêm. Lễ cúng máng nước là nét đẹp văn hóa của người Ca Dong. Theo Nguyễn Văn Sơn: Hằng năm, cứ vào thời điểm thu hoạch lúa mùa xong  (khoảng tháng  10, tháng 11), lúa đã phơi khô cất hết vào nhà kho  là thời gian nông nhàn, rảnh rỗi để  người Ca Dong tổ chức nhiều lễ hội tưng bừng theo nghi thức truyền thống riêng của cộng đồng. Trong  đó, có tục sửa chữa  lại máng nước và làm lễ cúng máng nước. Người Ca Dong cho rằng, cúng máng nước là hình thức củng cố tình đoàn kết cộng đồng và xã hội, và giáo dục con cháu nhớ về cội nguồn tổ tiên, nhớ về nguồn nước nơi cộng đồng đã định cư, sinh sống lâu đời(3). Xuất phát từ môi trường sống, phương thức sản xuất, tổ chức xã hội cổ truyền và tín ngưỡng dân gian, luật tục trong các cộng đồng dân tộc thiểu số được hình thành. Luật tục là một loại hình luật pháp sơ khai có tính quy ước nhưng rất được tôn trọng trong cộng đồng các dân tộc miền núi. Trong bối cảnh xã hội các làng sống mang tính khép kín, không chịu sự quản lý của một tổ chức nào cao hơn thì luật tục hết sức cần thiết để giữ gìn trật tự của cộng đồng. Ngày nay, các dân tộc thiểu số ở nước ta đều là thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, đều cùng phải tuân thủ luật pháp chung, bên cạnh đó vẫn còn nhiều quy định của luật tục mang tính tích cực, có thể hỗ trợ đắc lực cho luật pháp quốc gia; song cũng có không ít nội dung không phù hợp, thậm chí trái với pháp luật hiện hành, do đó phải biết phát huy những nội dung tích cực, hạn chế hoặc loại bỏ những điều không phù hợp đối với xã hội hiện nay.

Các tộc người thiểu số miền núi luôn quan niệm rằng ở đâu có rừng, có con sông, dòng suối thì ở đó làng mới tồn tại và phát triển vững bền được. Cuộc sống của dân làng luôn gắn với rừng, rừng không chỉ mang đến cho họ sự sống, rừng còn là cội nguồn văn hóa của họ… Chính vì thế, ngày nay khi thực hiện việc tái định cư cho đồng bào miền núi, phải chọn nơi phù hợp với tập quán của đồng bào để lập làng, không thể tách rời dân làng ra khỏi núi rừng. Thực tế cho thấy người dân một số vùng tái định cư theo mô hình hiện đại đã bỏ làng mới để trở về lại nơi gắn bó với đời sống của họ. Từ ngàn xưa, đồng bào đã có ý thức rất cao về việc bảo vệ môi trường sống của mình, nhất là cánh rừng già, rừng đầu nguồn… Để giữ được rừng, người Cơ Tu đã đặt ra luật tục quy định việc hạn chế khai thác cây rừng, phát nương làm rẫy… Luật tục bảo vệ rừng của người Cơ Tu luôn được cộng đồng làng tuân theo, không ai dám vi phạm vì sợ làm hại đến làng, đến thần linh. Người vi phạm phải chịu các hình phạt của làng hoặc bị đuổi ra khỏi làng. Vận dụng luật tục bảo vệ rừng vào đời sống cư dân miền núi sẽ mang lại hiệu quả cao trong việc bảo vệ môi trường núi  rừng.

Ngày nay, với cơ cấu tổ chức xã hội hiện đại, người chịu trách nhiệm điều hành ở cơ sở là trưởng thôn, tuy vậy, các già làng vẫn được nhân dân kính trọng, nghe theo. Việc điều hành xã hội theo mô hình hiện đại là điều tất yếu, tuy nhiên những giá trị văn hóa truyền thống của làng, những tri thức bản địa được sáng tạo, chắt lọc, lưu giữ và trao truyền từ bao đời vẫn còn nguyên giá trị, cần phải được bảo tồn và phát huy. Để giải quyết mối quan hệ giữa già làng với trưởng thôn, cần có một cơ chế linh hoạt, mềm dẻo nhằm kết hợp kinh nghiệm, uy tín, khả năng cố kết cộng đồng, duy trì vai trò truyền thống của già làng với trách nhiệm quản lý của trưởng thôn.

Vận dụng và phát huy giá trị văn hóa làng của đồng bào các dân tộc miền núi vào việc quản lý xã hội hiện đại sẽ nâng cao hiệu lựccủa bộ máy chính quyền từ cấp tỉnh đến cơ sở, giúp thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa xã hội khu vực miền núi, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, cải thiện đời sống đồng bào miền núi, đồng thời góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân địa phương trong việc bảo tồn, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ tốt đất đai và chủ quyền lãnh thổ.


HỒ XUÂN TỊNH

------------

Chú thích:

(1) Tấn Vịnh. Nhà Gươl Cơ Tu. Góp phần tìm hiểu văn hóa Quảng Nam. 2008 tr 377

(2) Lê Hồng Khánh.Nghệ thuật trang trí trên cây Nêu của người Cor. Thế giới Di sản điện tử.

(3) Nguyễn Văn Sơn. Tục cúng máng nước của đồng bào Ca Dong. Báo Quảng Nam, thứ Sáu 27.10.2006


Thứ Ba, 28 tháng 10, 2025

TÌNH SẦU BIÊN GIỚI - TRẦN HỮU NGƯ






 TÌNH SẦU BIÊN GIỚI

Những bài hát hay trước 1975 ở miền Nam nhiều quá! Nhớ sao hết được!
-Tôi không phải là Tề-Thiên-Đại-Thánh nên không nhớ hết ( bắt chước một câu nói gần đây của… ai đó, mà bỗng dưng tui quên tên!)
Có thể nhớ nhạc sĩ, còn hằng ngàn bài hát thì làm sao mà nhớ hết? Chỉ riêng nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ thôi, cũng không thể nào nhớ những ca khúc của ông, mặc dù có rất nhiều bài hát của ông đã được toàn dân cất cao và vang xa trong những ngày miền Nam Chiến tranh mỗi ngày một lan rộng.
Tôi đã viết về nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, người nhạc sĩ mà tôi đinh ninh rằng, sẽ có ngày sau Hòa bình tôi được gặp, nhưng ông đã kẹt lại ở ngoại quốc trước 1975!
Hằng trăm bài hát của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đã từng đi qua tôi trong Chiến Tranh… Nhưng có một một bài hát quen lắm, tôi thuộc nằm lòng từ ngày xửa ngày xưa, có lẽ hơn nửa thế kỷ trôi qua, và cũng kể từ ngày đó cho đến hôm nay không nghe thấy ca sĩ nào hát? Họ cũng quên chăng?
-Đó là ca khúc TÌNH SẦU BIÊN GIỚI của Hoàng Thi Thơ.
Một vài dòng ngắn về nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ:
-Sinh năm 1929 tại làng Bích Khê, Triệu Phong Quảng Trị
-Mất năm 2001 Hoa Kỳ
-Viết chừng 500 ca khúc (lấy con số tròn)
-Chủ đề: Quê hương, Chiến tranh, Tình yêu và Con người…
-Nghề nhiệp: Nhạc sĩ, Đạo diễn, Giáo viên
-Bút hiệu: Tôn Nữ Trà My, Tôn Nữ Diễm Hồng, Triệu Phong, Bích Khê.
Ông bắt đầu gia nhập làng Văn nghệ và viết nhạc từ năm 1946, nghĩa là lúc đó ông mới 17 tuổi!
500 bài hát của Hoàng Thi Thơ nếu so với nhạc sĩ Phạm Duy, Trịnh Công Sơn… thì chả thấm vào đâu, nhưng điều đặc biệt, người ta hát được, thuộc được chừng 200 bài của Hoàng Thi Thơ, cũng đủ nói lên con số khủng khiếp! (Con số 200 này cũng giống như những bài hát của Lam Phương. Hoàng Thi Thơ và Lam Phương là thiên tài âm nhạc).
Sau đình chiến 1954, người ta nghe và hát (nhất là những người ở miền quê) nhạc gì?
-HOÀNG THI THƠ.
Có ba nhạc phẩm lan truyền thời bấy giờ:
-Gạo trắng trăng thanh
-Trăng rụng xuống cầu
-Đường xưa lối cũ
Và một bài hát của Hoàng Thi Thơ ra đời từ năm 1954, đã được truyền miệng nhau , đó là TÌNH SẦU BIÊN GIỚI. Tôi đoán chừng “Biên giới” ở đây là Vĩ tuyến 17 chăng?



Cũng từ đó cho đến nay 2025 đã là 71 năm, nhưng tôi vẫn còn thuộc, vì bài hát hay quá. Nghe lại TÌNH SẦU BIÊN GIỚI, vẫn làm tôi cảm động, và những kỷ niệm thời Chiến tranh hiện về… Hình ảnh những người vợ đợi chồng trong Chiến tranh, và có một ngày chồng trở về:
“… Đêm hôn qua anh trở về
Về bên sông, sông mờ mờ
Mắt ngước nhìn
Nhà ta chìm trong khói súng thù
Đên hôm qua lòng biết lòng
Nghe tin chồng về bên sông
Lòng biết lòng
Nhưng mong gì thấy đôi mắt chồng
Em ơi
Mướp cà mấy độ lên hoa
Hương cau còn tỏa mái nhà
Khóm trầu tô đậm duyên ta
Héo rồi khói lửa bao la
Ai khơi dòng lệ trắng đường
Oán thù dâng ngập quê hương
Có ai khóc những đêm trường
Ai gây thương nhớ
Ai gợi mong chờ
Những chiều mái tóc buông lơi
Những chiều đem áo ra phơi
Lòng thấy chơi vơi
Nói không nên lời
Tiếng lệ thắm qua muôn đời
Xa nhau cách mấy phương trời vì ai…”
(Bài hát này lâu quá, nên tôi viết có thể có một vài từ sai. Nhưng xem trên mạng, lại còn sai nhiều! Tin trên mạng, có ngày mất mạng!)
Biết rằng trong Chiến tranh là có đau khổ, ly biệt, chết chóc, đòi nghèo… nhưng TÌNH SẦU BIÊN GIỚI và hàng ngàn ca khúc khác được viết trong Chiến tranh như những thông điệp gởi đến tất cả mọi người, dùng những lời lẽ thương cảm, gắn kết tình người, đậm tình quê hương, thương yêu tràn đầy, dù cho:
-Oán thù dâng gập quê hương
-Có ai khóc những đêm trường
(Lời bài hát TÌNH SẦU BIÊN GIỚI)
Một bài viết ngắn, thương nhớ nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ (*)


TRẦN HỮU NGƯ
(Chi Bộ Xóm Gà, ngày 27.10.2025)

-(*) Tôi đính kèm chữ ký của Hoàng Thi Thơ, chữ ký có một không hai ở Việt Nam. Với chữ ký này, đáng lẽ ông phải làm xếp ở kho bạc, vì không có ai làm giả chữ ký ông được!