CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2025

CON DẾ HUẾ - PHAN NI TẤN





 CON DẾ HUẾ

    Huế năm nào mà không lụt. Trời hành cơn lụt mỗi năm đó thê. Mà năm ni 2025 không riêng chi Huế, cả nước Việt Nam đều lụt. Nhớ nhất là năm 1964, ba cơn bão lịch sử Iris, Joan, Kate hay Két chi đó hùa nhau gây thiệt hại nặng nề cho Huế, lũ hắn cướp đi sinh mạng của sáu, bảy ngàn người và cả ngàn gia đình mất nhà mất cửa. Thương dân tình lâm cảnh hoạn nạn đã đành, tôi thương luôn cả bầy gia súc hiền lành vô tội vạ; trâu bò, heo, dê, gà, vịt, chó, mèo… trôi lềnh bềnh, nhất là mấy chú dế than, dế lửa cất trong ba cái hộp quẹt giấy của tôi để dưới gầm giường, đêm đêm nghe hắn gáy ru tôi vào giấc ngủ mộng mơ. Nhớ có lần gặp lụt tôi mới có 9 tuổi, trèo lên rầm thượng mà tiếc ba con dế chết đuối quá chừng.

    Trời sinh con dế để…người lớn ăn và để trẻ con tụi tôi chơi đá dế, một trò chơi hồn nhiên nhất của tuổi thơ. Dế thì ở đâu mà không có. Có đất, có đá, có cỏ, có hang là có dế. Dế trống, dế mái, dế than, dế lửa, dế cơm, dế chó, dế nhũi, dế ma, dế mọi, dế mèn…đâu đâu cũng có. Nhóc! Huế của tôi cũng thiếu chi, dế gáy điếc cả tâm hồn tuổi thơ trong veo véo của tôi một thời đó nờ. 

    Nhưng mà Huế ơi! Huế có còn ai nhớ cái làng Hà Khê sau chùa Linh Mụ không? Hồi xưa Ba Mạ tôi ở làng nớ. Chùa Linh Mụ gắn liền với Huế tuy hai mà một thì làng Hà Khê và chùa Linh Mụ tuy hai cũng là một luôn. Ở đó thiếu chi dế. Dưới Hà Khê hay trên chùa Linh Mụ đều có dế. Vạch bụi cỏ, vẹt đám lá khô, lật mấy cục đá là có dế, không cần đợi hắn gáy mới biết. Nhưng bắt dế ở làng Hà Khê thì được, chớ dế ở chùa Linh Mụ là… dế của Phật, của các sư. Nhớ hoài có lần hai anh em tôi bắt được con dế cồ dưới chân tháp Linh Mụ, đang hí ha hí hửng thì – hình như là thầy Trụ Trì từ tốn bước tới, tay lần chuỗi miệng khuyên các con là Phật tử không nên băt dế… của chùa, thả dế đi các con sẽ được phước. Dù tiếc đứt ruột anh em tôi cũng lắm lét thả chú dế lửa về miền tự do.

    Rồi tôi theo gia đình lìa xa Huế lâu đến nỗi tôi quên cả đường về quê Huế xưa; có gần bảy chục năm chớ ít ỏi chi. Chừ thì tôi… trên đầu già đến rồi tưởng không còn chi để nhớ. Người ta nói người già ít ngủ mơ, rứa mà có lần nằm mơ tôi thấy mình già đầu vẫn giành chơi đá dế với mấy đứa con nít dưới xóm Hà Khê. 

    Bây giờ là mùa đông, mới đầu tháng 11 mà tuyết đã rơi trắng trời trắng đất của xứ Lá Phong tôi. Ngồi co ro bó gối trong nhà rảnh rỗi không biết mần chi bèn bổn cũ soạn lại kể Quí vị nghe chuyện dế. Có điều, dế có hàng trăm hàng ngàn loài dế, kể sao cho hết. Nhưng gần gũi nhất là mấy chú, mấy thím dế dưới đây:

Dế cơm

    Tôi không biết tại sao con dế cơm lại có tên là... dế cơm. Nó có giống... hột cơm xí nào đâu. Hay là dế cơm có thân mình trăng trắng, mấy cái chân của nó cũng có đốm trăng trắng nên người ta đem nướng ăn với cơm bèn gọi nó là dế cơm? Đã vậy nó thuộc giống bự chảng, bự nhất trong tất cả loài dế. Nó to cỡ ngón chân cái, to gấp ba lần chú dế cồ. Nội cái giò của nó búng "pặt" một phát, chú dế lửa nổi tiếng hung hăng nhất loài dế đá cũng bị bắn văng xa... cả cây số.

Hồi nhỏ, con nít Huế tụi tôi không ai bắt dế cơm cho đá lộn; cũng không phải để... nướng ăn như người ta. Í ẹ. Có lần theo Ba Mạ lên Bản Thuột chơi, chính mắt tôi thấy thằng Đê con trong buôn Cô Thôn chợp được chú dế cơm liền ngắt đầu, lặt cánh, "bọp" lòi ruột xong nó làm bộ đưa con dế vô miệng nhai nhai cho tôi sợ để nó khoái chí cười chơi. Thật ra sau đó nó lấy que xuyên bụng dế đem hơ lửa cho chín xong vừa chu mõ thổi phù phù vừa nhai rào rạo ngon lành. Thằng ni còn khoe nó từng ăn rắn, rít, bò cạp, ếch, nhái nướng trui. Hồi đó dân Huế tụi tôi sức mấy có thằng nào dám... "rừng" như thằng này.

Ra đồng ra ruộng lật cục đất lên thấy chú dế cơm là tôi nghĩ ngay tới thằng Đê dễ sợ nớ. Nói không ai tin, có lúc bất ngờ gặp phải anh dế cơm bá đạo thấy tôi con nít con nôi vô hại nó bèn nghênh mặt dòm lên thấy bắt ghét. Nếu con dế cơm biết "xì" thì nó cũng xì một phát rồi... phủi đít lững hững bỏ đi.

Dế chó

    Cũng như dế cơm, không biết tại sao con dế chó có tên là... dế chó. Nó có giống xí xì xi nào hình dáng của con gâu gâu mô!? Ngay cả con mắt, cái mũi, cái lưỡi, cái tai, cái móng chân hay sợi lông đuôi cũng không mảy may tương cận nữa là! 

Ngoài dế chó mình mẫy đen thủi đen thui còn có dế chó mình đen, đầu đỏ. Trẻ con tụi tôi thấy nó còn không thèm dòm, ở đó mà bắt chơi. Nó nhỏ xíu hà. Đâu chừng 1 hoặc 2cm là cùng. Sau này nghe nói dế chó dùng để nuôi chim chóc hay làm mồi câu. Tội nghiệp cái kiếp... dế chó.

Dế mèn

    Nói tới dế mèn người ta thường nhớ tới câu chuyện Dế Mèn Phiêu Lưu Ký của nhà văn Tô Hoài, một loại truyện ngụ ngôn thật hay, hoặc ư ử bài hát thiếu nhi Thằng Cuội của nhạc sĩ Lê Thương mộc mạc dễ thương từ âm điệu tới lời ca. Tội nghiệp ông nhạc sĩ nhân từ. Thương thằng Cuội cô đơn ngồi ôm một mối mơ nên tác giả nhét vô bản nhạc đủ thứ món trên trời dưới đất, từ bóng trăng, ngọn gió, cây đa, ánh sáng cho tới cái thang, trong đó "có con dế mèn, suốt trong đêm khuya, hát xẩm không tiền, nên nghèo xác xơ".

Vậy dế mèn là dế gì, ai mà không biết. Đây nè:

    Dế mèn là chú dế có hình dáng nhỏ xíu xìu xiu, thân dẹt, râu dài, thường có màu tro. Hồi đó trẻ con tụi tôi sợ quê nên không đứa nào chơi dế mèn. Hầu hết ở đâu cũng thấy nó: đồng ruộng, bụi cỏ, đống đá, hang hóc, góc nhà.... Dế mèn thường sống về đêm, con trống có tiếng gáy rỉ ra, rỉ rích dai dẳng suốt canh khuya để dụ con mái.

Dế Nhũi

    Dế nhũi còn gọi là dế trũi là thứ dế trẻ con tụi tôi ghét nhất, vì nó có hình dạng xấu xí nhất trong các loài dế. Thân dài khoảng 3 tới 5cm, mắt tròn tròn, hai chân trước như hai cái xẻng đào đất cát để nhũi xuống trốn kẻ thù nên gọi là dế nhũi. Dế nhũi thường ở dưới đất, trong các hang động nên ít khi thấy, chúng thường kiếm ăn ban đêm.

Dế đá

    Hồi nhỏ, ngoài các trò chơi như "Rồng rắn lên mây, bịt mắt bắt dê, u mọi, ô quan, đánh thẻ, thảy lỗ, tạt lon, tạt hình, búng thun, chọi đáo, bắn bi, đánh trõng, đá cầu v.v... , đá dế là môn trẻ con tụi tôi đứa nào cũng mê tít thò lò. Đi học về là quăng cặp sách ôm hộp dế chạy đi chơi đá dế với đám con nít quỉ hàng xóm

    Phải nói dế than dù to con hơn nhưng không ngon bằng dế lửa. Vì ít khi bắt được dế lửa. Dế lửa đã hiếm mà xung trận lại hăng hơn dế than, hầu như đá đâu thắng đó. Dế cũng giống như... người, trước khi xáp -lá -cà có nhiều chú dế hù địch thủ bằng cách nhe càng, gáy ren rét, toàn thân giựt giựt thị oai. Ê càng hay thua thì xoay đầu bỏ chạy, thắng thì dế nhà ta phùng cánh gáy vang lừng. Không có gì hấp dẫn cho bằng tiếng dế gáy "rét rét rét" lúc thắng trận.

    Dế đá có hai lớp cánh xếp gọn gàng đẹp mắt trên lưng, phủ từ ngấn cổ xuống đít. Dế màu đen thì gọi là dế than. Dế màu lửa thì gọi là dế lửa. Ông bà mình nhìn mặt đặt tên không trật cái chỗ mô. Cặp cánh phía ngoài dầy và khá trong suốt. Lúc gáy hai cánh phùng lên cọ vào nhau liên hồi tạo nên âm thanh "rét rét" nghe đã cái lỗ nhĩ.

    Dế mà mất lớp cánh phía trong thì gọi là dế trục. Không những không tổn hại chi tới dế mà nhiều khi càng..." trục" càng dễ nổi khùng, đá rất hăng. Tui có thằng bạn học tên Sơn khoái chơi dế trục nên chết danh "Sơn trục". 

    Hình như dế gáy bất kể giờ giấc. Dế gáy lúc tinh sương, hay giữa trưa hè nắng gắt, gáy lúc chiều tà hay đêm khuya lơ đều làm cho trẻ con tụi tôi không ngớt xốn xang, háo hức. Đặc biệt là tiếng "chịch mái". Nghe tiếng "chích chích" đều đều, liên tục là biết anh dế trống đang "dê" chị dế mái. Lúc "dê", hai cái đít anh chị cạ vào nhau trông thiệt ngộ. Dế trống không có hai cái kim nhọn ở đằng đít như dế mái. Hai cái kim đó để cắm xuống đất khi dế mái đẻ con. Trời sanh nhiều cái thiệt ngộ hè.

    Tuổi thơ tôi ở Huế có nhiều bạn bè. Nghĩ mà thắc cười. Trong băng thằng nào cũng có hỗn danh để gọi. Anh tôi có gương mặt dài như mặt ngựa, coi già già thì tụi hắn đặt tên là Khánh già. Tôi mắt hí chết danh Hòa hí. Quế mập xịt thì gọi là Quế ù. Vì là hàng xóm nên tụi tôi đi học cũng rủ nhau đi, về cũng chờ nhau về, chơi trò chơi gì cũng có mặt, nhất là đi bắt dế. 

Bắt dế có nhiều cách: bỏ kiến bù nhọt hoặc đổ nước xuống hang, một chặp sau dế nhà ta bị kiến cắn hoặc ngộp nước là trồi đâu lên ngay. Dế bắt được đem về đựng trong hộp bánh bích quy hoặc trong lon sữa bò hay trong hộp quẹt giấy. Thức ăn của dế thường là cỏ, giá sống, rau sam, bánh mì, cơm nguội. 

    Tôi thật sự không biết Huế bây chừ thay da đổi thịt ra răng, nhưng thập niên 1950, 1960, khu vực bao quanh tỉnh Thừa Thiên, Huế có nhiều rừng và núi. Biết rứa song dĩ nhiên dấu chân tuổi thơ tụi tôi đi bắt dế cũng chỉ quẩn quanh trong làng trong xóm chớ có dám đi mô xa. Mỗi lần bắt được dế tôi khoái chí tủm tỉm cười hoài. Đêm đêm nghe hắn ngứa cánh hồn nhiên gáy rèn rẹt trong lon sữa bò là tôi… xuất hồn một khi. Ấy rứa mà có lần tôi lớ quớ thò tay vô lon sữa bò bắt dế ra đá bị nó cạp cho một phát la làng. Đau toé khói tôi rút tay ra vẫy mạnh một cái ra gì. "Bịch!". Vừa rẫy rẫy ngón tay tui vừa nhìn xuống đất thì ôi thôi chết cha con dế của tôi rồi. Thuở đời nay, con ruồi con muỗi tôi còn không dám giết huống hồ con dế thân yêu. Thấy nó bẹp di mà tôi ngẩn ngơ tiếc đứt ruột. 

    Chuyện mới đó thoắt một cái đã xuýt xoát 70 năm trời. Ngày nay tôi đã lưu lạc xứ người, xa Huế của tôi đến nửa vòng trái đất. Đôi khi ngồi một mình nhớ lại chuyện đời xưa tôi không biết ông anh Khánh già của tôi và hồn mấy con kiến, con dế đang làm gì. Nhưng tôi biết chắc một đìều khi gặp lại nhau, bằng một trái tim dịu dàng, trong sáng và chân thành họ đều gợi đến sự cảm thông, tha thứ cho nhau, cùng nhau san sẻ niềm hạnh phúc trên thiên đàng.

    Trong thi ca Việt Nam, có những câu thơ nói về con dế thiệt hay mà cũng thiệt bồi hồi:

Con dế vẫn là con dế ấy

Hát rong bờ cỏ giọng thân quen (Tô Thùy Yên)

Nghe con dế gáy sao em thương cái góc nhà (Cao Huy Khanh) 

Vì lý tưởng du dương bất tử

Con dế thất tình vấp phải giọt sương (Phan Huyền Thư).


PHAN NI TẤN


Thứ Năm, 4 tháng 12, 2025

PHONG KIỀU DẠ BẠC - TRƯƠNG KẾ ,ĐÕ CHIÊU ĐỨC DIỄN NÔM



 


Góc Đường Thi :  
   
                                 PHONG KIỀU DẠ BẠC   
                                              Trương Kế


        Tương truyền, khi làm xong 2 câu đầu của bài "Phong Kiều Dạ Bạc 楓橋夜泊" nầy là :

               月落乌啼霜满天,    Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên,    
               江枫魚火對愁眠.    Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên.  

     … thì nhà thơ Trương Kế 張繼 (715~779) của ta bí lối, bí vần, "bí xà lù"... không biết phải làm tiếp 2 câu kế như thế nào, nên cứ trằn trọc mãi, không ngủ được. Thời may, từ đâu vọng đến tiếng chuông chùa trên núi Hàn San gần đấy, làm cho ông xúc cảnh sinh tình mà hạ nốt 2 câu chót rất bất hủ là :

              姑蘇城外寒山寺,    Cô Tô thành ngoại, Hàn San tự,               
              夜半锺聲到客船.    Dạ bán chung thinh đáo khách thuyền.    
              
       Tiếng chuông vừa khuấy động không gian tĩnh mịch của đêm thanh, vừa như cảm thông với người lữ thứ cô đơn mà vọng đến để an ủi, dỗ dề....Nhưng, tại sao giữa đêm khuya (dạ bán : là nửa đêm) lại có tiếng chuông chùa vọng đến thế kia ? Thường thì rựng sáng chùa mới có hồi chuông công phu, sao chùa Hàn San lại công phu giữa đêm. À, thì ra lại có một câu chuyện giai thoại văn chương như thế nầy :


                  
       Tương truyền, đêm hôm ấy, khoảng mùng 3, mùng 4 gì đó, nên vành trăng non đầu tháng treo lơ lửng trên không, khiến cho Sư Cụ trong chùa ngắm trăng rồi xúc động mà ngâm thành 2 câu thơ sau :

              一片玉弧分两段,   Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn,    
              半沉水底半浮空.   Bán trầm thủy để, bán phù không.         
    Có nghĩa :
             Một cây cung bằng ngọc, được chia ra làm 2 đoạn. Một nửa chìm dưới đáy nước, một nửa nổi ở trên không trung. Ý thơ hay quá, vì 2 mảnh trăng lưỡi liềm, một trên trời, một dưới nước, nếu ráp lại với nhau thì như là một vành cung bằng ngọc.
       Nhưng, khổ nỗi, là thầy cũng không tìm ra được 2 câu nối để hoàn tất bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt. Nên chi, thầy không ngủ được, thao thức mãi mới bật dậy đi quanh chùa, tình cờ thầy gặp một chú Tiểu cũng đang thơ thẩn cạnh hồ sen. Sau phút ngạc nhiên, hỏi ra, thì ra chú Tiểu ta cũng thấy trăng non mà xúc động nên làm ra 2 câu thơ, và cũng không tìm được 2 câu nối, nên cũng không ngủ được mà còn thơ thẩn ở đây. Quả là sự ngẫu nhiên trùng hợp. Sư Cụ mới bảo chú Tiểu đọc ra 2 câu thơ đó xem sao. Chú Tiểu bèn đọc là :

               初三初四月朦朧,   Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung,        
               半似银钩半似弓.   Bán tự ngân câu, bán tự cung.            
     Có nghĩa : 
               Mùng 3 mũng 4 ánh trăng còn mông lung mờ ảo, Nửa giống như là cái móc bạc, nửa giống như là cánh cung...                         

  ... thì cũng vừa vặn ráp với 2 câu của Sư Cụ thành một bài Tứ Tuyệt như sau :

                初三初四月朦朧,    Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung,           
                半似银钩半似弓.    Bán tự ngân câu, bán tự cung.               
                一片玉弧分两段,    Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn,    
                半沉水底半浮空.    Bán trầm thủy để, bán phù không. 
      Có nghĩa :
                    Mùng ba mùng bốn trăng mờ,
                Nửa như móc bạc nửa ngờ cánh cung.
                    Ngọc bình hai nửa chia phân,
                Nửa chìm đáy nước nửa phần trời cao.        

       Hay quá, lại vừa đúng niêm luật, lại vừa đúng vận, thành một bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt hoàn bích. Sư Cụ mới bảo với chú Tiểu là : Không biết sau nầy thầy trò ta có cùng tu thành chánh quả hay không, chứ hiện nay thì thầy trò ta đã cùng gặp nhau trong văn chương rồi, âu đây cũng là ý của Phật Tổ chứng chiếu, vậy thì con hãy vào nấu nước pha trà, để thầy trò ta cùng tạ ơn Phật Tổ. Chú Tiểu vâng lời thầy, nên sau khi thắp nhang cúng Phật, mới có tiếng chuông chùa nửa đêm vọng xuống thuyền của Trương Kế, để nhà nhơ hoàn tất bài thơ bất hủ "Phong Kiều Dạ Bạc" là thế ! (楓橋夜泊 Đêm ghé thuyền ở bến Phong Kiều).





       Sau đây là bài thơ diễn nôm bằng thể Lục bát của nhà thơ Tản Đà :

                       Trăng tà, tiếng quạ kêu sương
                   Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ
                        Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
                  Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

     ... Và sau đây là bài diễn nôm của Đỗ Chiêu Đức :

                     Trăng lặn qụa kêu sương khắp trời,
                     Bờ phong leo lét lửa chài phơi.
                     Cô Tô chùa lạnh Hàn San ấy,
                     Chuông vẳng nửa đêm não dạ người.
         Thơ Tám chữ :
                     Trăng tà lạnh, tiếng quạ kêu sương xuống
                     Giấc sầu miên, sông vắng, đối lửa chài
                     Chùa Hàn San ngoại thành Cô Tô ấy
                     Nửa đêm buồn, chuông vẳng đến thuyền ai !
                      


       Giai thoại trên đây có thể do người đời sau đặt ra để tô điểm thêm cho bài thơ "Phong Kiều Dạ Bạc 楓橋夜泊" càng huyền hoặc và hấp dẫn hơn, đồng thời cũng giải thích cho việc tại sao vào lúc nửa đêm lại có tiếng chuông chùa công phu bất chợt. Nhưng dù sao thì chúng ta cũng được thưởng thức thêm môt bài thơ hay nữa, chả tốt hơn sao !?...

        Hẹn bài dịch tới !

                                                          杜紹德
                                                         ĐÕ CHIÊU ĐỨC
                        

Thứ Tư, 3 tháng 12, 2025

SÀI GÒN TRONG TRÁI TIM NHAU - THƠ NGUYỄN AN BÌNH

 



SÀI GÒN TRONG TRÁI TIM NHAU


Sài gòn đỗ bệnh bất ngờ

Trong anh sao lại ngẩn ngơ nỗi niềm

Sáng giãn cách, chiều giới nghiêm

Buồn giăng Gia Định sầu nghiêng Thị Nghè.


Vòng qua Phú Nhuận dừng xe

Loanh quanh Phù Đổng lặng nghe tiếng cười

Guộc gầy mấy chiếc lá rơi

Phố hun hút vắng biết người nơi đâu?


Sài Gòn trong trái tim đau

Vẫn tươi máu đỏ vẫn dào dạt xanh

Tình em vẫn mãi trong anh

Vẫn con chim nhỏ chuyền cành líu lo.


Sài Gòn sẽ lại như xưa

Thêm rưng rức nhớ chiều mưa ngoại thành 

Mai về qua ngõ Hàng Xanh

Nút giao điểm hẹn tình anh đấy mà.



NGUYỄN AN BÌNH

Thứ Ba, 2 tháng 12, 2025

CÁCH DÙNG HỌ VÀ ĐẶT TÊN CÁC DÂN TỘC Ở VIỆT NAM- NGUYỄN KHÔI (BÀI 1)

 



BÀI THỨ NHẤT




DÂN TỘC ÊĐÊ

Ê Đê có nghĩa là người sống trong rừng tre . Dân tộc Ê Đê có trên 270 nghìn người , cư trú tập trung ở Đắc Lắc , Gia Lai , Khánh Hoà và Phú Yên.
Các nhóm địa phương gồm : Rađe Đe, Kpa, Adham, Krung, Ktul, Đlie, HrueBlô, Epan, Mdhuna,Bih. 

Về kinh tế đồng bào này làm nương rẫy , nhóm Bih làm ruộng nước dùng trâu giẫm đất thay cho cày cuốc , ngoài ra là chăn nuôi, săn bắn , dệt…

Tổ chức đời sống chặt chẽ. Làng gọi là ” Buôn” , các địa danh gọi tên rất gợi như ” Buôn chư mơ ga “9 nghĩa là làng núi lửa., Sông Đực, Sông Cái , Sông Tóc… Gia đình theo mẫu hệ, chủ nhà là phụ nữ . Con cái mang họ mẹ , con trai không được hưởng thừa kế. đàn ông ở nhà vợ. Nếu vợ chết mà bên nhà vợ không còn ai thay thế thì người chồng phải về ở với chị em gái mình. Nếu chết , được chôn bên người thân của mẹ đẻ.

Nhà ở của người Êđê là nhà sàn và nhà sài. Trang phục màu chàm có điểm các hoa văn sặc sỡ . đàn bà mặc váy áo , đàn ông đóng khố mặc áo . Ngày xa có tục cà 6 răng cửa hàm trên. Người Êđê rất thích uống rượu cần , đặc biệt là vào các dịp lễ tết. Về tín ngưỡng , thờ nhiều thần linh. Người Êđê có kho tàng văn hoá đồ sộ to lớn như các sử thi ” Khan Đam San ” , cồng chiêng cũng rất nổi tiếng , đã được Unesco công nhận là văn hoá phi vật thể của nhân loại. 

Người Êđê có Lễ đặt tên. Khi đứa trẻ sinh ra trong vòng một tháng , gia đình sửa soạn đồ cúng để làm lễ đặt tên cho trẻ.Thầy cúng hướng dẫn gia đình chuẩn bị lễ vật . Họ quan niệm : Khi mới sinh ra , con người cha có hồn , nên lúc đặt tên là lúc nhập hồn cho đứa trẻ . Gia đình sẽ chọn rất nhiều tên trong dòng tộc của ông bà nội ngoại , tên những người tài giỏi , có uy tín được lấy để đặt tên cho đứa trẻ. Ý nghĩa việc này là mong trẻ mới sinh ra được nhập hồn của một trong những người tài giỏi của dòng họ. Muốn làm được như thế , người trong nhà khi đi mời thày cúng sẽ nói trước với thày cúng những tên dự kiến đó để thày cũng nhập tâm . Lễ vật cho lễ đặt tên thường là một con gà , một ché rượu . Lễ được tổ chức vào đêm khuya, khoảng 11-12 giờ đêm., khi cả buôn đã đi ngủ thì bắt đầu làm lễ . Ché rượu được đặt vào cột chính gian trước , lễ vật đặt phía đông. Thày cúng ngồi đối diện với ché rượu , quay mặt về phía đông để cúng.

Thầy khấn: ” Ơ Yàng , hiện giờ gia đình đã dâng lên một con gà , một chén rượu để làm lễ đặt tên cho con. Mời tất cả các Yàng về uống rượu , ăn thịt , giúp đỡ cho trẻ ăn no , chóng khoẻ, không khóc. Mời các ông , các bà trong dòng tộc của gia đình : Mảng , Ma Choá , Mí Thơ, Mí Thơm, Ma Đam … về ăn thịt, uống rượu , giúp đỡ cho trẻ lớn… “. Thày cúng khấn đến tên nào, đứa trẻ không thấy khóc lại tỏ ý thích thúc (vui) thì gia đình sẽ lấy tên đó để đặt tên cho trẻ. Khi cúng xong , cả gia đình và thày cũng sẽ ăn cơm , ăn thịt gà , uống rượu . Sau khi ăn uống xong thì toàn bộ xương , lòng , lông gà , cơm dư thừa sẽ được gói lại cẩn thận, ché rượu úp xuống , bỏ lại gian khách (tiếng ÊĐê là Gah) của gia đình đúng 3 ngày . Sở dĩ làm thế , bởi người Êđe quan niệm rằng con người khi mới sinh còn rất yếu ớt, mới được nhập hồn người chết còn rất mỏng , nên phải giữ tất cả những lễ vật đã cúng đúng 3 ngày rồi mới mang đi thả xuống suối. Khi đó hồn mớí nhập hoàn toàn vào trẻ mới sinh.

Các họ của người Êđê : 

Adrâng, Ayun, Ayun C, Ayun Tul H, Wing Atul, Atul Buon Yah, Buon Krong , Duot, Eban, Eban Rah Lan, Eman, Emo, Enoul, Hđok, Hrue, Hmok, Hwing, Jdrong, Ktub, Kebour, Knul, Kpa, Kpor, Ksor, Ktla, Ktul, Mjao, Mlo, Mlo Duon Du , Mlo Hut, Mlo Ksei, Nie Blo, Nie Buon Dap, Nie Buon Rit, Nie Cam , Nie Mkriek, Nie Mla, Nie Mlo, Nie Sieng, Nie Sor , Nie Sok , Nie To, Nie Trang …

Xin có ví dụ : 

Nam : Y Ngong Nie Dam ( 4 chữ này có nghĩa là Trai-Tên-Họ – Chi họ)
Nữ :Hlinh Mlo Duon Du ( 4 chữ này có nghĩa là Gái- Tên-Họ- Chi họ) 

Người Êđê xưng hô : Khi vợ chồng có con thì gọi theo tên con . Tục này có ở nhiều dân tộc , kể cả người Kinh , ví ma Thuột có nghĩa là Bộ thằng Thuột. Chính về thế mới có tên ” Buôn Ma Thuột ) tức là làng bố thằng Thuột , nên nay có thành phố Buôn Ma Thuột . Còn nếu gọi Ban mê Thuột là gọi theo tiếng Lào có nghĩa là mẹ thằng Thuột. 
Như vậy dùng tên con để gọi bố mẹ . Thật là độc đáo bản sắc văn hoá Việt nam ./.

BÀI THỨ HAI

DÂN TỘC CHĂM

Dân tộc Chăm có trên 132 nghìn người. Sống ở Ninh Thuận ( 50%), Bình Thuận, An Giang, Đồng Nai , Sài Gòn, . Người Chăm là cư dân bản địa lâu đời. 
Đồng bào trồng lúa nước thâm canh có trình độ cao. Các nghề thủ công như đồ gốm , dệt thổ cẩm rất nổi tiếng. 

Người Chăm theo chế độ mẫu hệ . Mỗi làng có từ 1000 đến 8000 người. 
Văn hoá nghệ thuật rất phong phú với các sử thi, lễ hội, mua hát , ca nhạc… Tháp Chăm là công trình thờ cúng đặc sắc của người Chăm.

Cũng như địa danh làng Palei Chăm , tên người của dân tộc Chăm thường có hai (2) tên : tên khai sinh theo hộ khẩu tương tự như người Kinh và tân dân tộc .
Các họ Chăm : Bá, Bạch , Báo, Bố, Chế, Dương, Đàng, Đạo, Đạt ,Đổng, Fatimah, Hàm , Hán, Hứa, Kiêu, La, Lâm,Lộ, Lu, Ma, Mohâmch, Miêu, Nại , Não, Nguyễn, Ông (ôn), Phú, Qua, Quảng Đại, Samách, Tài , Từ, Thanh, Thập, Thị (nữ), Thiên Sanh, Thiết, Thổ, Trà , Trương, Trượng , Văn.

Ví dụ Tên thường goi là Phú Trạm (tên dân tộc là Inrasa), Chế Bồng Nga (Ceibingu), Chế Mân (SimhavarmanIII), Phạm Phật (Bhadravarman).
. Nam: Ka Sô Liêng (Họ- Lót – Tên)
. Nữ : Sô Mơ Đinh .
Theo nhà thơ Inrasara thì : Họ ngày xưa của các vua Chăm Pa gồm có :

. Inđra/Indravarzman
. Jaya/Jờyinhavarma
. Cri/Cri Satyavirman
. Maha/MahaVijaya
. Rudra/Rudrravarman...

Ngày nay các họ này vẫn còn được một số người sử dụng :

Inra/Patra (là biến thái của inđra)
. JayaMrang
. JayaPanrang
. Inrasara (Inra là sấm , Sara là muối)
. Puđradang

Các họ này được phiên âm ra tiếng hán là Chế (Cri) như Chế Mân , Chế Củ, Chế Bồng Nga, Chế Linh , Chế Lan Viên…

. Họ Ong (hay Ông) như: Ông ích Khiêm,Ông Văn Tùng … 
. Họ Ma có lẽ phiên âm từ chữ Maha.
. Họ Trà (có lẽ từ Jaya)

Bốn họ Ông, Ma , Trà, Chế xưa kia là họ Vua.

Họ người Chăm bình dân : ở người Chăm thường thì cứ Ja (Nam) hay M (nữ) được đặt trước tên để phân biệt giới tính, nó như Văn nam Thị nữ của người Kinh , thời xa coi đó là họ ?
Gần đây có khuynh hướng đặt tên cho mình như thế , ví dụ Lờy “nó” làm bút danh như Jantâhrei (nhà nghiên cứu Thiên Sanh Cảnh), Talau (Nhà thơ Trương Văn Lỗu) được coi là đẹp và sang.

Họ người Chăm theo dòng tộc: Như trên đã trình bày , trước đây người Chăm không có họ như kiểu người Kinh như Trần , Nguyễn , Phạm , Lê…, mà người Chăm chỉ có chữ Ja hoặc M (Mng) đặt trước tên mình để phân biệt nam nữ, ví dụ Ja Phôi, Ja Ka (Nam) M Ehava, Mng Thang Ôn (nữ) , giống như Văn Thị của người Kinh .

Người Chăm chỉ có hoàng tộc mới có họ : Ôn, Trà , Ma, Chế . Quan lại thường đựoc gọi bằng chức như Po Klăn Thu (ngài Trấn thủ) , Pô Phok Thăk (ngài phó trấn thủ tên Thak hoặc như Đwai Kabait (ông đội Kabait).

Cũng có dòng họ đặt theo tên vua : họ Po Rome, họ Po Gihlw hoặc đặt theo tên lòai cây trụ trong kut chính , họ Ga dak, họ Mul Pui , nhưng không dùng họ này đặt tên riêng.
Họ và tên còn đặt theo tôn giáo ( Islam) :Thường do sự tiên đoán tương lai của đứa con mà người cha chọn 1 trong 25 vị thánh đặt tên :

. Con trai là Ali, Ibrohim, Mousa, Ysa…
. Con gái là : Fatima,Khođijah,Maryam…

Cách đặt tên theo giấy khai sinh :

Vào đời vua Minh Mạng ( 1820-1840) , năm thứ 14 , nhà vua ban cho người Chăm các họ theo phong tục Việt Nam :

. Bá
. Đàng
. Hứa
. Lưu
. Lựu
. Hán
. Lộ
. Mà
. Châu
. Nguỵ
. Tử
. Tạ
. Thiên
. Uc
. Vạn
. Lâm
. Hải
. Báo
. Cây
. Dương
. Quảng
. Qua
. Tưởng
. L…


Số người có công với triều đình được mang họ Nguyễn . 

Như vậy có sự giao lưu văn hoá Kinh – Chăm , nhưng nét đặc sắc của văn hoá Chăm là Họ tộc Chăm là theo Mẫu Hệ , ví dụ Nguyễn Văn Tỷ (khai sinh) , họ mẹ là Po Đăm hoặc Phú Trạm (khai sinh) , họ mẹ là Inrasara ./.

BÀI THỨ BA

DÂN TỘC THÁI 

Dân tộc Thái có trên 1,32 triệu người, cư trú ở các tỉnh Tây Bắc, Hoà Bình, Thanh Hoá và Nghệ An.

Người Thái có nhiều họ khác nhau. Họ Lò không ăn thịt chim Táng Lò ( vật tổ). Họ Quang kiêng ăn thịt hổ…

Đồng bào Thái thờ cúng tổ tiên , trời , đất, cúng bản Mường , không theo tôn giáo nào.
Văn hoá nghệ thuật Thái rất độc đáo rạng rỡ với nghệ thuật ” Múa Xoè”, ” Múa Nón” , Khèn Thái, Pí Pặp, Quăm Khắp (Hát).

Các tác phẩm truyện thơ nổi tiếng như “Sống Trụ Son Sao ” (Tiếng dặn người yêu – như Truyện Kiều) mà Nguyễn Khôi đã chuyển dịch rất thành công sang thơ Song thất lục bát , tái bản nhiều lần ), Khun Lua – Nàng ủa , Em bé – Nàng Hổ ( như Tấm Cám của người Kinh .
Lối hát giao duyên ” Hạn Khuống” ( như Quan họ Bắc Ninh ) , rất hấp dẫn.
Nhìn chung người Thái là dân tộc phát triển trồng lúa nước , dệt thổ cẩm, làm được súng săn…

Thường được goi là ” người Kinh ” ở miền Núi.Có rất nhiều nhà hoạt động chính trị , tướng tá , văn nghệ sỹ khá nổi tiếng.

Người Thái có các họ : Bạc , Bế, Bua, Bun, Cà, cầm, Chẩu , Chiêu, Đèo , Hoàng, Khằm , Leo, Lỡo, Lềm, Lý, Lò, Lô, La, Lộc , Lự, Lường, Mang, Mè, Nam, Nông , Ngần , Ngu , Nho, Nhọt, Panh, Pha, Phia, Quàng, Sầm, Tụ, Tày, Tao, Tạo, Tòng, Vang, Vì, , Sa, Xin, .
12 họ gốc là Lò, Lường, Quàng, Tòng, Cà, Lỡo, Mè, Lù, Lềm, Ngần, Nông.
Người Thái có một số dòng họ quý tộc ( thường là các họ lớn ) tuỳ theo từng nơi đó là Cầm, Bạc, Xa, Đèo,Hà, Sầm, Lò…

Các tên khác của một số họ :

Họ Lò còn gọi là Lô, La, sau còn đổi là Cầm, Bạc, Điêu (Đèo), Tao (Đào), Hoàng , Lò Cầm (Lò Vàng) , Lò Luông (Lò Lớn).
Họ Lường còn gọi là họ Lương
Họ Quàng còn gọi là họ Hoàng, Vàng.
Cà còn gọi là Sa , Hà , Mào .
Vi còn gọi là Vi, Sa.
Lêm còn gọi là Lâm , Lim.

Ngành Thái đen còn có các họ Cầm , Bạc thường hay giữ các chức vị Chảu Mường . 

Ngành Thái trắng thường là các họ Đèo Lò làm Chảu Mường 

Các tên thường gặp , ví dụ như : 
Lò Văn Muôn (vui) 
Lò Văn ứt (đói) 
Hoàng Nó (vua măng). 

Xưng hô hàng ngày của người Thái thường không gọi tên tục của nhau Thưòng là hai ngưôi ” Cu-mưng ( như ủa- nỉ của Tàu, Toa- moa của Pháp , hiểu đơn giản như Tao-Mày – tôi- anh (chị). 

Thường gọi ” dựa ” con : Đàn ông là ải nọ… , ải kia… , người tôn trọng nhất gọi là “ải ộ”, anh là “ải luông”, bác là “ải lung” rồi ” ải thẩu”; đàn bà là Êm (ếm) nọ …, Êm kia , già nhất là Êm thẩu. 

Các vị chức sắc xưa thì gọi là Tạo nọ , Tạo kia hay Phìa nọ , Phìâ kia ( con cháu những người này cũng được tôn trọng gọi là Tạo con…, Nàng… già là bà Nàng…) 
Sau năm 1945 bà con dân tộc được đổi tên mới , đặt tên không theo truyền thống mà phù hợp với đời sống văn minh hiện đại.Ví dụ nhà văn nhà thơ lấy bút danh như Tòng ín là Ban Pún (Hoa ban nở). 

Dân tộc Thái có Huyền thoại về dòng Họ : Sau nạn hồng thuỷ , chỉ còn sống sót một cặp vợ chồng. Người vợ có một thỏi đồng liền đem ra nấu và đúc thành dụng cụ. Quá trình đúc đồng được chia làm mấy giai đoạn như : lúc đầu làm đồng nguyên , sau nấu gọi là lô, muốn tăng sức nóng thì phải quạt , rồi đảo quấy đều , sau đó thành nước loãng , đem luyện lại , tô luyện thành công cụ rắn chắc . 

Vì vậy khi sinh con , họ đặt cho con đầu lòng mang họ Tông (đồng), con thứ hai là Ló nay gọi là Lò (lô), con thứ ba họ Ví ( quạt) , con thứ tư họ Quá( quàng) , con thứ năm họ Đèo( đồng thành nước), con thứ sáu họ Liếng ( đã luyện ) nay gọi chệch là Lường , con thứ bày họ Cả ( tôi luyên rắn thành công cụ ) , nay gọi là Cà. 

Quá trình phân hoá giàu nghèo nên các họ trên đều có ngày giỗ riêng . 

Đến nay tên đệm Văn cho Nam và Thị cho Nữ khá phổ biến như người Kinh. 
Theo nghiên cứu của chúng tôi thì nét đắc sắc văn hoá dùng họ và đặt tên có thể thấy ở Thanh Hoá, Nghệ An và Lai Châu . 

Người Thái Trắng ở Lai Châu rất chú trọng lễ đặt tên cho con. Đồng bào cho rằng: Trẻ con mới sinh do vía yếu , không muốn người lạ lên nhà người ta gài vào đầu cầu thang một cành lá xanh và giắt tấm phên đan mắt cáo (Ta Leo). Đến ngày trẻ đầy tháng (Hết Hoóng) làm lễ cúng đầy tháng và cũng là lúc đặt tên cho trẻ . Cách đặt tên không trùng với tên gọi ông bà họ hàng nội ngoại là được. 


Ngườì Thái Nghệ an do Lê Thái Tổ cho di từ Thuận Châu vào Miền Tây Nghệ An. 

Người Thái ở Thanh Hoá có câu tục ngữ :” Người có họ , cây có vườn (con mi họ, co mi xuân). Người Thái gọi là ” Chao ” có nghĩa là nòi giống. 

Tại Tây Bắc họ Lường làm thày mo , họ Lò làm Tạo , nhưng ở Thanh Hoá thì họ Hà làm Tạo. 
Người Thái theo phụ quyền (huyết thống cha), ở Việt nam người Thái mang cả tên họ gốc và tên phiên âm sang tiếng Việt , ví dụ Chao Lộc là họ Lục. Đó cũng là nét văn hoá Thái trong cộng đồng 54 dân tộc Việt nam ./.

BÀI THỨ TƯ

DÂN TỘC MƯỜNG

Nguyễn Khôi ( Đình Bảng ) Cách dùng họ và đặt tên các dân tôc ở Việt Nam Dân tôc Mường Dân tôc Mường có trên 1,1 triệu người, chiếm hơn 1,5 % dân số Việt Nam 
Ngoài ra có các tên khác gọi : Mol, Mual, Mọi, Mọi bi, Au tá,. Tên Mường mới xuất hiện khoảng hơn một thế kỷ nay, để chỉ cộng đồng dân có nét tương đồng với người Kinh (Việt) sinh sống ở các bản Mường Hoà Bình,Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Sơn La,Thanh Hoá…”Mường” là một loại tổ chức hành chính cơ sở ở vùng núi , trở thành tên gọi của tộc người .

Xét về nguồn gốc lịch sử , người Mường là người Việt cổ ( bản địa) từ 3000 năm trở về trước, từ sau thế kỷ 10 có sự cách biệt của nhóm người Việt ở đồng bằng với người ở miền núi nên dần dần có sự khác biệt thành người Kinh – người Mường.

Về kinh tế , đồng bào Mường trồng lúa nước là chính. Trên nương dẫy có ngô, khoai, sắn , đậu , đỗ. Một số nơi trồng tre , luồng, trẩu , gai, sở , đay, bông, quế, mía. Về chăn nuôi có trâu, bò,ngựa, lợn ,gà, ngựa, lợn, gà, vịt. Đồng bào có các nghề thủ công : dệt,đan lát, mộc… Ngoài ra còn thu hái các lâm thổ sản, săn bắt các lọai thú rừng để cải thiện bữa ăn hàng ngày 

Xã hội Mường Hoà Bình trước năm 1945 là một xã hội có đẳng cấp , trong đó mỗi con người được ” chính danh định phận “. Quý tộc gọi là Lang , bình dân gọi là Jan ( dan ) . Trong một mương ( Mường) gồm nhiều xóm , quý tộc thống trị đều là thành viên một dòng họ. Ví dụ dòng họ Bạch Công thống trị ở Mường Rếch ( 12 xóm ) . Con trai trưởng thống trị toàn bộ thung lũng 12 xóm gọi là Lang Cun ( cun ) . Lang Cun Mường Rếch là Cun Đếch ( Chiềng Rếch hay Cun Rếch là Cun Đếch ) Chiềng Rếch , tức là Chiềng của Mường Rếch). Các chi thứ chia nhau thống trị các xóm khác ở phạm vi ngoài Chiềng ( ý là trung tâm) . Đứng đầu xóm Đúp là con trai trưởng của một chi thứ của họ Bạch Công , đó là Lang Tạo ( Lang Đạo ) , nói rõ là Tao Tuúp ( Đạo Đúp , tức Lang Đạo xóm Đúp).

Nội bộ bình dân phân hoá thành từng lớp Âu. Người bình dân được cất nhắc vào bộ máy thống trị của Cun ở Chiềng hay Đạo ở xóm chức Âu, cao nhất là Âu Eng ( Âu anh) được ăn phần ruộng tốt nhất , chức nhỏ là Âu ún ( Âu em ) là tay chân cho Lang và các Âu anh sai phái.

Dưới Âu đến nóc dân thường được ăn ruộng công gọi là nhà nưóc , cấp thấp nhất là Noóc K,Loi (Nóc Trọi) sống bằng nước rẫy , đó là Tứa Roong , có ý khinh miệt..

Sau năm 1945 mọi người Mường đều được bình đẳng..

Gia đình Mường tổ chức theo mô hình gia đình nhỏ phụ quyền . Con trai là người được hưởng quyền thừa kế tài sản..
.
Dân tộc Mường theo hôn nhân một vợ một chồng bền vững , cư trú bên nhà chồng. Tục cưới xin giống người Kinh (chạm ngõ, ăn hỏi , xin cưới và đón dâu)..
Khi trong nhà có người sinh đẻ , đồng bào rào cầu thang chính bằng một phên nứa. Khi trẻ lớn một tuổi mới đặt tên..

Khi có người chết , tang lễ được theo nghi lễ nghiêm ngặt..
Tiếng Mường là một ngôn ngữ thống nhất , là hình ảnh của tiếng Việt ở giai đoạn tiếng Việt- Mường chung với đăc điểm chính là lưu giữ lại quá trình vô thanh hoá các phụ âm đầu. Ví dụ gà (Việt)/ ka (Mường), đi/ti, ba/pa….

Dân tộc Mường chưa có chữ viết riêng. Mo “đẻ đất đẻ nước” là tài liệu văn học dân gian có giá trị nhất trong kho tàng văn học dân gian dân tộc Mường..
Dàn cồng chiêng là nhạc cụ dân tộc đặc sắc nhất của dân tộc Mường. ở Phú Thọ còn dùng ống nứa gõ vào những tấm gỗ trên sàn nhà tạo thành những âm thanh để thưởng thức gọi là Đâm Đuổng.. 

Lễ sinh con; Ngày đứa trẻ ra đời cả gia đình mở tiệc ăn mừng , mời Mo đến cúng cho hai mẹ con khoẻ, bé ăn no chóng lớn . Cả gia đình vui như hội . Thời gian kiêng cữ từ 7-12 ngày . Con trai goi là Thóc giống (lọ me), con gái gọi là Rau cỏ (cách tắc) . Khi ở cữ , phụ sản phải qua tục Sưởi lửa . Bất kể mùa nào cũng phải ngồi bên bếp lửa , với ý là lưu thông khí huyết , ba ngày sau mới được lau tắm thân thể. Sau một tháng mới được ăn thịt gà (chỉ ăn đùi bóc sạch da) nướng với rau bệ. 

Ngay sau khi sinh đặt tên tạm , chờ đến đầy tuổi tôi (12 tháng) mới làm lễ đặt tên chính thức. Để cầu mong cho trẻ hay ăn chóng lớn người ta còn làm lễ cúng Mụ . Lễ vật gồm xôi, rượu , cá chép . Mâm cỗ đặt trên cửa sổ nhà sàn. Gia chủ cầu khấn mong cho đứa trẻ “thốt như cách, mách như đác” nghĩa là :” Tốt như ót , mát như nước”. 

Khi đứa trể lọt lòng mẹ , người Mường ở Vĩnh Phúc đặt đứa trẻ trên cái Cúm (mẹt to) có lót lá chuối rừng đã được nướng mềm . Người mẹ nằm ngay bên cạnh con.Nếu là con gái thì lấy cái hông nồi xôi bằng gỗ khoét rỗng (chõ) đập nhẹ xuống sàn , nếu là con trai thì lấy cái chài cũ , đập nhẹ xuống sàn , miệng nói: ” hỡi con trai dậy mà ti chài ti lứa. Hỡi con tứa dậy mà tháo thơ tháo thằm “, đại ý là : “Hỡi con trai dậy mà đi kéo chài, đánh lưới. Hỡi con gái dậy mà kéo tơ, kéo tằm”. Gọi và đập như vậy ba lần chờ đứa bé khóc to mới bế lên quấn tã lót. Ba tháng sau mới làm lễ Vía cho bé. 

Người Mường có họ tên như người Kinh . Do xưa kia, hình thái tổ chức xã hội đặc thù của người Mường là chế độ Lang đạo, các dòng họ Lang đạo (Đinh , Quách, Bạch, Hà) chia nhau cai quản các vùng. Đứng đầu mỗi Mường có Lang Cun , dưới Lang Cun có các Lang Xóm hoặc Đạo Xóm cai quản một xóm. Ngoài bốn họ trên còn có một số họ tiêu biểu như Bùi , Hoàng , Lê, Phạm, Trịnh, Xa, họ Phùng …

Ví dụ như
Đinh Công Vợi, Quách Tất Công, 
Bùi Thị Phệu, Phùng Thị Lợi , 
Hà Công Rộng , Bạch Thành Phong , Bùi Văn Kín./.

BÀI THỨ NĂM

DÂN TỘC MÔNG

Dân tộc Mông có trên 784 nghìn ngư­ời. cư­ trú tập trung ở các tỉnh Hà Giang , Lào Cai, Tuyên Quang, Yên Bái,Lai Châu , Sơn La, Cao Bằng , Nghệ An… 

Còn có tên là Mông roi ( Mèo Trắng ) , Mông Lềnh ( Mèo hoa), Mông roi ( Mèo đỏ), Mông đú( Mèo đen) , Mông súa ( Mông mán). Mông có nghĩa Ngư­ời. 

Dân tộc Mông có bản sắc văn hoá rất độc đáo. Gốc gác ở vùng Quý Châu Trung Quốc , gọi là Miêu Tộc (miêu gồm bộ thảo và chữ điền nghĩa là mạ , là mầm , là dáng diệu xinh đẹp , một tộc ngư­ời biết trồng lúa từ xa x­a). Do bị phong kiến Hán tộc tàn sát nên di cư­ xuống Việt nam… , tên đồng bào tự gọi nhau là H’Mông, có nghiã là Ng­ười. 

Từ trư­ớc đến nay , các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc vẫn kiên trì coi ngôn ngữ nhóm H’Mông – Dao thuộc ngôn ngữ Hán Tạng. 

Ngư­ời H’Mông , có ngư­ời nghiên cứu tìm ra có nhiều cái nhất: 

Ngôn ngữ có nhiều thanh nhất 8 thanh chia thành nhiều âm vực ; Vốn từ láy dồi dào . 
Hệ thống âm đầu rất phong phú có từ 51-57 phụ âm đầu ; Âm nhạc H’Mông có tiếng Sáo , Khèn Mèo, đàn môi nổi bật gai điệu ở dạng gãy khúc “nhâp nhô” như­ đỉnh non cao mà họ cư­ trú . 

Ngoài ra còn có Gạo Mèo, Rư­ợu Mèo, Táo Mèo là ngon nhất; Lợn Mèo , bò Mèo là to nhất ; Cày Mèo, cối xay Mèo bằng đá độc đáo bền nhất, ruộng bậc thang với hệ thống t­ới tiêu ở lưng chừng núi tuyệt vời nhất; Váy Mèo, áo Mèo sặc sỡ đẹp nhất ; Múa Mèo , hát Mèo vào loại hay nhất; Súng Mèo tự tạo , dao Mèo tốt sắc nhát; Đi bộ leo dốc giỏi nhất; Dũng cảm , vư­ợt gian khó , hiên ngang nhất . 

Tại Việt nam cùng thời với Hoàng Hoa Thám đánh Pháp ngư­ời H’Mông cũng có Giàng Chỉn Hùng ( Bắc Hà ) Thảo Nủ Đa ( Mù Cang Chải ) Giàng Tả Chay ( Tây Bắc) . Sau nay có Vừ A Dính( Tuần Giáo ) ­ Kim Đồng ( Cao Bằng ). Nhân vật lịch sử Vua Mèo Vàng Chí Sình ( Bắc Hà ) sau cũng theo Việt Minh đánh Pháp. Thời nay có nhiều ng­ời H’Mông học tới Cử nhân , Tiến sỹ , ví dụ Tiến sỹ Thào Xuân Sùng , bí thư­ tỉnh uỷ Sơn la. 

Về văn học có “Tiếng hát làm dâu” “Tiếng hát mồ côi” nói lên thân phận con ngư­ời thật là thống thiết , dù ai “cứng lòng” mà đọc cũng phải rư­ng rư­ng nư­ớc mắt! . “Dân ca Mèo”, truyện cổ tích Mèo cũng rất phong phú. Quan hệ dòng tộc rất đặc sắc , mỗi dòng họ cư­ trú quây quần thành từng cụm , có một trưởng họ đảm nhiệm công việc chung “đi đâu ở đâu” có họ hàng , sống chết không rời nhau. Có tục “Háy Pú” , cư­ớp vợ rất đặc sắc. Đồng bào có chữ viết riêng. 

Lễ cúng khi sinh đẻ: Đồng bào quan niệm rằng: Con ngư­ời ta có hai phân (thể xác và linh hồn) , họ không quan tâm nhiều đến phần thể xác. Họ cho rằng con ngư­ời sinh ra trên cõi đời chỉ cần nhìn thấy ba lần ánh mặt trời cũng là một kiếp ngư­ời. 

Một con ngư­ời có ba linh hồn : 

Hồn thứ nhất ở đỉnh đầu, do đó kiêng xoa đầu trẻ em vì hồn nó yếu , xoa đầu hồn sẽ bỏ đi , vì thế ai xoa thì phải làm lễ gọi hồn về. 
Hồn thứ hai ở vùng ngực , hồn này ít bỏ đi lang thang , như­ng khi đã bỏ đi thì bệnh sẽ nặng 
Hồn thứ ba ở rốn, hồn này cai quản thân xác và nội tạng , hồn này bỏ đi là đau nội tạng , đau bụng (hồn này ở phụ nữ yếu hơn nam giới , nên phụ nữ hay đau bụng hơn , hồn bỏ đi không về sẽ chết). 

Khi chết hồn thứ nhất bay lên tầng cao nhất cùng tổ tiên trên trời (cõi tiên) . 
Hồn thứ hai bay lên chỗ Ngọc Hoàng chờ đầu thai vào kiếp khác (ai xấu sẽ đầu thai làm con vật); Hồn thứ ba gác phần mộ , lởn vởn nơi tầng thấp của Ngư­u ma vư­ơng , thư­ờng bay về quấy nhiễu. Vì thế ngư­ời H’Mông rất quan tâm đến việc thờ cúng gắn với chu kỳ đời ngư­ời. 
Khi bà mẹ sắp sinh em bé thì nhà có lễ cúng “đề ca súa” , cầu cho mẹ tròn con vuông. 
Đồng bào cho rằng : Khi trẻ sinh ra chư­a có linh hồn ngay, phải sau 3 ngày mới tổ chức lễ gọi hồn (húp hi) – đây là lễ lớn , thông báo cho sự ra đời của một thành viên trong gia đình . Đây cũng là lúc đặt tên cho trẻ. Tên trẻ không đư­ợc trùng với tên ông bà , tổ tiên , họ hàng . Cuối lễ , thầy cúng xem chân gà “bói” tư­ơng lai cho trẻ. 

Về họ và tên , những người có chung một họ như­ Giàng , Vừ , Thào , Lầu , Lý… đều coi nhau như­ anh em , dẫu không chung một tổ. 

Ngư­ời H’Mông ở Lào Cai , Thanh Hoá và Nghệ An có nhiều nét văn hoá đặc sắc. Ng­ười H’Mông ở Lào Cai có hơn 30 họ, các họ lấy tên con vật như­ Sùng (gấu), Hầu (khỉ) ,Lồ (lừa), Mã (ngựa) Giàng (dê) và Lùng (rồng). Có họ lấy màu sắc đặt họ ví dụ Hoàng (màu vàng), Lù (màu xanh) Hùng (màu đỏ). Có họ lấy tên cây , ví dụ như­ Lý (mận) Thào (đào). Họ còn lấy tên đồ vật , ví dụ như­ Cư­ (trống), Thèn (thùng) . 
Đồng bào đặt tên nhiều lần : 

Khi bé đầy tuổi , có lễ mừng tuổi , Lễ đội tên đệm của bố cùng lúc với lễ mừng con đầu lòng 1 tuổi. Khi ấy con trai tặng nỏ , súng , dao , cháu gái tặng cuốn chỉ thêu, tấm vải . ư­ớc nguyện trai tài gái đảm. 

Lễ đặt tên lần thứ hai “Tì bê lầu” , thịt một con lợn tặng bố mẹ vợ nửa , cầu khấn những điều tốt lành , buộc chỉ cổ tay , đặt tên đệm mới cho con rể. Bố mẹ vợ tặng vật kỷ niệm cho con rể thư­ờng là đồng bạc trắng , cái địu con . 

Có trư­ờng hợp ngư­ời đàn ông có đến 3-4 tên , khi đau ốm hoặc rủi ro , tai nạn thì lại làm lễ đặt tên lại . 

Đồng bào quan niệm “thùng sếnh, thùng đang” tức là cùng họ cùng ma vì làm ăn làm uống ta có thể học ngư­ời khác , như­ng làm ma thì không thể theo ngư­ời ta đựơc.
Lễ ma có 4 lễ : 

. Lễ ma tư­ơi 
. Cúng ma bò 
. Cúng ma lợn 
. Cúng ma cửa

Đúng là , cách đặt 3-4 tên của ngư­ời H’Mông mang bản sắc văn hoá thật độc đáo ./.  

BÀI THỨ SÁU

DÂN TỘC KHƠ ME

Dân tộc Khơ Me có trên 1 triệu người , sống tập trung ở các tỉnh Sóc Trang , Vĩnh Long, Trà Vinh , Cần Thơ, Kiên Giang , An Giang . 
Còn có các tên khác Khơ Me Krom, Cur, Cul , Thổ, Việt gốc Miên .
Tên Khơ Me bắt nguồn từ tiếng Phạn ( Ấn Độ ) Khêmara có nghĩa là “An Vui Hanh Phúc.”

Đây là một cư dân sống lâu đời ở Đồng bằng Sông Cửu Long, sống xen kẽ với người Kinh và người Hoa.

Đồng bào biết thâm canh lúa nước từ lâu đời, biết làm thuỷ lợi và lợi dụng thuỷ triều để thay chua rửa mặn, xổ phèn cải tạo đất.Có địa phương trồng nhiều dưa hấu . Chăn nuôi gia súc , gia cầm , làm các nghề thủ công (dệt , gốm…) và làm đường Thốt nốt.

Dân tộc Khơ Me sống quần tụ thành các phum , sóc( như thôn ấp của người Kinh , gồm từ 17-70 nóc nhà. Trên các phum sóc không có đình mà có chùa , gọi là chùa Khơ Me . Các chùa này có cấu trúc khá giống nhau tuy quy mô khác nhau . Chùa là nơi thờ Phật và là nơi hành lễ của dân làng.

Về trang phục : đàn ông đóng khố sampôt. đàn bà mặc váy xà rồng , dài chấm mắt cá chân , màu gụ, có nhiều hoa văn đẹp . Ngày xưa phụ nữ không mặc áo mà dùng một tấm vải vắt chéo qua vai để che ngực , có thói quen quấn khăn Khrâm lên đầu . Nhà sư cọc trọc đầu , râu và lông mày. Khoác áo cà sa , mang khố vàng màu nghệ và ô trắng hay vàng.

Đồng bào Khơ Me có ba hình thức tôn giáo , theo tín ngưỡng dân gian , đạo Balamon,Phật giáo tiểu thừa . Trong mỗi chùa có nhiều s sãi( gọi là các ông Lục ) và do s cả đứng đầu . Con trai Khơ Me trớc khi trởng thành thờng đến ở chùa để tu học, trau dồi đức hạnh và kiến thức. Nhà chùa thờng dạy kinh nghiệm sản xuất , dạy chữ. Hiện nay có trên 400 chùa Khơ Me.

Ngời Khơ Me ghi chép lại một nền văn học rất phong phú của mình trên lá buông gọi là Xatra . Văn học dân gian truyền miệng cũng vô cùng phong phú . Nghệ thuật sân khấu gồm nhiều loại Dù kê, Rô băm . Các điệu múa nổi tiếng : Lăm vông, Múa kiếm ( Răm khách ), Lăm Lêu…

Các ngày lễ lớn là Choi Chnăm Thơ Mây( Mừng năm Mới ) , Lễ Phật đản , lễ Đôn ta ( xá tội vong nhân ) , Oóc Bom boóc ( cúng trăng ).

Các họ của người Khơ Me :

Bàn , Binh , Chau , Chiêm , Danh , Dơng, Đào, Điêu, Đoàn , Đỗ, Hiùnh, Hứa , Kỷ, Liêu, Lộc , Lục, Lu , Mai , Neang, Nuth, Ngô, Nguyễn, Panth, Pem, Pham , Sơn, Tăng, Tô, Từ , Tng, Thạch, Thị , Thuấn, Trà , Trần, U, Uônth, Xanh, Xath,Xum…

Các họ tên tiêu biểu của người Khơ Me Danh , Sơn, Kim, Thạch , Châu , Lâm , ví dụ :

Danh út, Ngọc Anh ( Nam )
Lâm Phú Thạch Thị ( nữ). 

Phụ nữ thường phân biệt bằng chữ Thị hoặc Nêang . Người Khơ Me có họ từ thời Nguyễn , vua Minh Mạng , để kiểm kê hộ khẩu dân số. Trước đó người Khơ Me không có họ.
Nét văn hoá đặc sắc trong văn hoá dùng họ và đặt tên của ngời Khơ Me chính là : Để phân biệt những người cùng tên và có quan hệ huyết thống thì người Khơ Me thường gọi kèm tên người cha ( phụ tử liên danh) , tên người cha thành họ của người con./. 


          NGUYỄN KHÔI