BLOG CỦA NHÃ MY
Thứ Hai, 22 tháng 12, 2025
Chủ Nhật, 21 tháng 12, 2025
CÓ MỘT THỜI NHƯ THẾ - THƠ NGUYỄN KHÔI
Lời thưa : Bài thơ "Có một thời như thế" - đó là thời "Xây dựng chủ nghĩa" - THỜI BAO CẤP...NK viết cách nay đã 27 năm, tưởng là "Cái thời ấy đã qua " rồi...nhưng thực nó lại chưa qua, nó tự chuyển biến/ chuyển hóa sang một Xã hội đang bị xuống cấp/ tha hóa một cách toàn diện...Xin đăng Bài thơ làm Tư liệu về "một cái nhìn của một Quan chức cùng thời" để mọi người suy ngẫm, cùng chia sẻ, để thế hệ con cháu biết được " à , Xã hội Việt Nam thời đó , nó là như thế..." :
CÓ MỘT THỜI NHƯ THẾ
Ta đã trải một thời đầy biến động
nay Tổng Bí Thư mai đã bị "đòm" (1)
bao "lãnh tụ" hết đường kiếm sống
đến Lê nin cũng hết thuở tôn sùng.
Có một thời Đảng là Thần thánh
Nghị Quyết ra thành Luật thi hành
ăn "định suất", yêu đương phải báo cáo
Sống như trong Trại lính...luôn phải cảm ơn.
Có một thời Đình chùa bị phá
Lý tưởng là Chủ nghĩa Mác- Lê nin
Hát tập thể, ngắm trăng tập thể
"Đoàn thể" lo cả việc cưới xin.
Có một thời Bán buôn là phạm pháp
làm như Trâu mà chẳng được ăn
Nuôi Lợn để bán cho Nhà nước
V.A.C của Hợp tác, cấm làm riêng.(2)
Có một thời tự hào là Bần , cố
Văn hóa lớp 3 nắm đủ chức quyền
"Dép cao su" được toàn dân chiêm ngưỡng
Áo trắng, quần xanh là "mốt" của thanh niên.
Có một thời Con gọi Cha là "đồng chí"
cụ 80 thì gọi là "anh"
Chủ tịch Nước, toàn dân kêu là "Bác"
Mọi người làm theo "kẻng" điểm danh.
Có một thời họp hành vất vả
Gà gáy rồi Hợp Tác họp chưa tan
Một người sống bị mọi người "theo dõi"
đến chết rồi còn cảm thấy bất an
Có một thời "Phở không người lái"
Muốn mua gì ra Mậu Dịch mà mua
"Xếp hàng cả ngày" sống bằng tem phiếu (3)
"Kế hoạch hóa" mọi điều đến cả chuyện riêng tư.
Có một thời "ông chủ" lại núp danh "đầy tớ"
"Cu ly" được tôn là "giai cấp cầm quyền"
"Đầy tớ" sống cuộc đời Vương giả
"Giai cấp cầm quyền" lại khổ quá Dân đen.
Có một thời Chân Lý hạ xuống thành Định Lý
mọi lời thề như gió bay đi
mọi lời Hứa nhàm như Công Lý
mọi Quyết định do Cấp Ủy đưa ra...
Có một thời ai cũng có thể là "Người lãnh đạo"
Cán bộ đầy đường ăn/ phá/ hà hiếp nhân dân
Kẻ ngu nhất luôn tự khoe sáng suốt
Bài bản nực cười bắt cả Nước phải tuân...
Có một thời "Đẹp" là tội lỗi
"cái Tôi" bị phê, bị đánh tơi bời
Nói theo Đảng, đi theo lời Đảng gọi
"Mình vì mọi người" phải hát, phải vui...
Có một thời chỉ hút thuốc lá Trường Sơn và đọc thơ Tố Hữu
"Sống như anh", "Bất khuất" (4) là sách gối đầu giường
Toàn dân sống và làm theo lời Bác
phải biết căm thù, phải biết yêu thương.
Có một thời mọi hành động rất "duy Ý chí"
Phá rừng đi để lập Nông trường,
làm cầu Thăng Long, xây Lăng vĩ đại
Dân cuồn cuộn đi bới đất tìm vàng...
Có một thời sống chỉ vì Xã hội
Gia đình chia ly để vì Đảng/ vì Dân
-Vợ liệt sĩ...bây giờ ai thăm hỏi ?
Con bụi đời, mù chữ chạy lông bông...
Có một thời luôn họp hành kiểm điểm
-Ăn nói ra sao, tư tưởng thế nào ?
Sống cảnh giác và làm ăn giả dối
trả Lương vờ, làm cũng vờ thôi...
Có một thời như sống bằng hy vọng
Kế hoạch vẽ ra trên gió trên mây
Các Quan chức ăn giỏi, nói giỏi
mặc Nhà quê tăm tối, sình lầy...
Có một thời hão huyền, không tưởng
Sống cực đoan và thiên kiến cực kỳ
- đã là Mỹ thì cái gì cũng xấu
còn Liên Xô là tốt đến mê ly.
Có một thời đến như là phi lý
- ai cũng muốn thoát ly, không thích ở nhà mình
Vinh dự được vào Đoàn, vào Đảng
Mình chẳng còn là mình hơn Kịch sĩ trứ danh.
Có một thời những con người chân chính
phải về vườn sống cảnh lầm than
Bao chiến tích cũng trở thành vô ích
tức (khí) ngồi nhìn Lũ Cơ Hội tham lam...
Có thời Đảng độc quyền lãnh đạo
mọi riêng/ chung có Đảng lo rồi
Nhân danh Đảng- lũ đặc quyền/ đặc lợi
Vô kỷ cương, tiêu cực đẻ như Ruồi...
Có một thời Trí thức thành "Học giả"
bị trói hoài trong cơ chế Quan liêu
làm đầy tớ cho những thằng ngu dại
vì vợ con chẳng còn "sĩ" bao nhiêu.
Có một thời mình nghĩ mình tài giỏi
luôn dạy đời và lớn tiếng tự ngợi ca
Mình tự khen mình là Vĩ đại
Ta nhìn rốn ta bảo "Tầm nhìn xa" (5)
Đấy là thời vĩ cuồng ấu trĩ
Tự cho ta tốt đẹp nhất trên đời
rất khoái chí xơi "Quả Lừa" to tướng
Nay vẫn còn vị đắng trên môi.
Cái thời ấy qua rồi như Ác mộng
có bao điều còn nhức nhối lương tâm
còn hậu quả di căn cho hậu thế
là Hồn Ma lởn vởn khắp thôn làng.
NGUYỄN KHÔI
Hà Nội , ngày 3-4-1990
-----
(1) Xê au xe cu- Romania
(2)vườn, ao ,chuồng
(3) XHCN
(4) tác phẩm của Trần Đình Vân, Trần Đĩnh
(5) của Nguyễn Khải
Nguồn :từ email của tác giả Nguyễn Khôi gửi
Thứ Bảy, 20 tháng 12, 2025
TRƯỚC 1975, NHẠC NÀO TỰA CÓ CHỮ “HƯƠNG” LÀ… SỐ DZÁCH! - TRẦN HŨU NGƯ
TRƯỚC 1975,
NHẠC NÀO TỰA CÓ CHỮ “HƯƠNG” LÀ… SỐ DZÁCH!
Thằng đó “Số dzách”, con đó “Số dzách”… của một thời xa xưa, hình như… có từ Bảo Đại mới chấp chánh. Và rồi, nó biến mất kể từ Chiến tranh bùng phát từ năm 1963(?). Và cũng kể từ đó không còn “Số dzách” nữa mà chỉ là “Số con rệp”.
Tôi, ngày ấy, một thằng bé nhà quê, suốt ngày chỉ chơi với dế (đúng nghĩa đen). Lật bãi cứt trâu khô, bắt con đế cồ than, dế cồ lửa là… trúng mánh. Nhốt trong hộp que diêm, lon sữa bò, tối nghe nó gáy vui tai lắm. Sáng hôm sau cho nó đá nhau. Một trò chơi thật lý thú, không tốn tiền, không tranh giành mua vé.
Lớn lên, đi học làm bạn, chơi với bạn, bỏ dế.
Bây giờ già rồi, bạn thì ít, bè thì nhiều, nên tôi chơi với nhạc. Nhưng nhạc thường buồn nhiều hơn vui.
Có những ngày nghỉ, tôi thấy tuần lễ sao nó dài thoòng, ngày nó rộng thùng thình, đêm thì “Đêm qua chưa mà trời sao vội sáng…” (Chiếc lá cuối cùng của Tuấn Khanh).
Và một buổi sáng đẹp trời, tôi đưa bài “Buồn nhớ quê hương” lên Fb, chừng nửa tiếng sau, ca sĩ Thu Vàng từ Hoa Kỳ gọi điện cho tôi. Chúng tôi nói chuyện về bài hát nào có từ “Quê hương”. Và nhờ ca sĩ Thu Vàng, tôi đã nghĩ ngay đến những tựa bài hát có chữ “Hương”, và Quê Hương là… số dzách. Tôi tạm liệt kê, những bài hát có chữ “Hương” mà tôi đang nghe:
-Quê hương (Hoàng Giác)
-Tình quê hương (Việt Lang)
-Sầu ly hương (Lam Phương-Lê Mộng Bảo)
-Hương xưa (Cung Tiến)
-Chiều tha hương (Hoàng Trọng-Quách Đàm)
-Kiếp tha hương (Lam Phương)
-Mái tóc dạ hương (Đinh Hùng-Phạm Đình Chương)
-Chờ nhìn quê hương (Trịnh Công Sơn)
-Khúc nhạc ly hương (Lâm Tuyền)
-Bài Hương ca vô tận (Trầm Tử Thiêng)
-Thiên lý bên đời vẫn ngát hương (Thanh Trang)
-Đi vào quê hương (Phạm Duy)
-Giấc mơ hồi hương (Vũ Thành)
-Nhớ quê hương (Phạm Ngữ)
-Buồn nhớ quê hương (Hoàng Trọng)
-Ôi quê hương (Dương Thiệu Tước-Minh Trang)
-Hương rừng (Phạm Duy-Sơn Nam)
-Quê hương hòa bình (Tâm Anh)
-Tình yêu cho quê hương (Đắc Đăng)
-Quê hương chiến tranh (Tâm Anh)
-Từ Đàm quê hương tôi (Nguyễn Thông-Tâm Đài)
-Quê hương là người đó (Phạm Đình Chương)
-Hương quê (Nhật Bằng)
-Xuân tha hương (Phạm Đình Chương)
-Người tình và quê hương (Trịnh Lâm Ngân)
-Tình hoài hương (Phạm Duy)
( …)
Có thể còn nhiều chữ “Hương” khác, nhưng theo tôi, nó không phải là “số Dzách”, mà là “số Dzì” thôi. Tôi nói tiếng Tàu cho vui, nhưng Tào… lao!
Tôi đã nghe những bài hát có cái tựa “Hương” này rất nhiều lần, nghe hoài không chán. Biết rằng nó vẫn còn thiếu sót, nhưng vì nhiều “Hương” quá, lại thơm lâu làm tôi ngất ngay mà quên…
Và tôi không biết sau 75 có bài nhạc nào có tựa chữ “Hương” không? Nếu có, chắc nó không thơm, không bay xa, nên chưa đến mũi tôi!
Có một điều rất lạ, là mấy bài hát có chữ “Hương” tôi nêu trên, không có tựa bài nào trùng bài nào, quả là trái ngược câu nói: “Những tư tưởng lớn thường gặp nhau!”, nhưng ở đây, tư tưởng lớn, lại không gặp nhau!
Có hai nhạc phẩm QUÊ HƯƠNG mà tôi mê từ thời đá dế, chăn trâu, đó là:
“… Ai qua miền quê binh khói
Nhắn giúp rằng nơi xa xôi:
Tôi vẫn mơ tùm tre xánh ngát
Tim sắt se cảnh xưa hoang tàn…”
(Nhạc phẩm Quê hương – Hoàng Giác)
Và TÌNH QUÊ HƯƠNG của Việt Lang:
“… Ngàn dâu xanh ngát mấy nếp tranh xa mờ
Tiếng sáo bay dập dìu đường về thôn xưa
Tình quê lai láng dưới trời thu
Khói xây thành chập chùng mây đưa…”.
Nhạc sĩ Hoàng Giác và nhạc sĩ Việt Lang không chết ở chiến trường, mà “chết” ở hậu phương vì nhạc phẩm “Ngày về”, và “Đoàn quân đi”. Tôi sẽ trở lại hai nhạc phẩm này để biết tại sao.
Rồi đến thời đi học trường làng, thầy dạy chúng tôi hát bài “Chiều tha hương” của Hoàng Trọng-Quách Đàm:
“… Chiều nay mưa rơi ướt vai người dưới quán vắng
Chàng niên thiếu miền xa thân dầm sương
Đời phiêu lưu mang máu giang hồ đi bốn phương
Chí lớn say sưa cuộc đời mưa nắng…”
Nghe nhạc có chữ “Hương”, tôi nhớ quê hương, nhớ con dế cồ đỏ như than, nhớ cánh đồng ngập nắng, nhớ buổi chiều hoàng hôn, nhớ thời “đổi đời” tôi bỏ quê, lang thang đi về phía Saigon…, và nhớ từ… số dzách!
Bây giờ, nếu tuổi trẻ sau 75 không được nghe những bài hát quê hương này, thì chắc chắn rằng có một ngày không xa, nó sẽ mất vĩnh viễn, và điều này, sẽ có tội với nhạc sĩ tiền nhân.
TRẦN HŨU NGƯ
(Saigon-Giađinh, một ngày nghe những bài hát quê hương… số dzách.)
Thứ Sáu, 19 tháng 12, 2025
CON NỢ MẸ MỘT LỜI NÓI - THƠ HUỲNH TÂM HOÀI, NHẠC A,I
CON NỢ MẸ MỘT LỜI NÓI
Con đã nói yêu ngàn lần trước gió
Nói với người qua ánh mắt môi cười
Lời yêu ấy con trao không đắn đo
Mà sao trước mẹ… tim con nghẹn lời
Con đã hát yêu trong bao bản nhạc
Viết tên người lên giấy trắng đêm khuya
Những câu thương con quen lòng bày tỏ
Riêng với mẹ… con lặng lẽ ngồi im
Con nợ mẹ một lời yêu rất nhỏ
Nhỏ như hạt nắng cuối chiều rơi hiên
Nhỏ đến mức con mang hoài trong tim
Lớn đến chừng… không dám nói thành tên
Mẹ lặng lẽ suốt đời không đòi hỏi
Chỉ mong con mạnh khỏe tháng năm dài
Chưa một lần mẹ cần con nói rỏ
Chỉ cần con còn nhớ lối quay lại
Bao bữa sớm mẹ chờ con thức giấc
Bao đêm dài mẹ vá hộ đời con
Con lớn khôn giữa vòng tay rất thật
Mà chưa từng nói một tiếng… con thương
Nếu một ngày mẹ không còn ngồi đợi
Con sẽ tìm lời ấy giữa hư không
Xin tha thứ cho đứa con vụng dại
Yêu mẹ nhiều… mà nói chẳng nên câu…
HUỲNH TÂM HOÀI
Thứ Năm, 18 tháng 12, 2025
TỪ CHÈ TÀO THƯNG ĐẾN BÒ BÍA - PHIẾM LUẬN CỦA ĐỖ CHIÊU ĐỨC
Tạp Ghi và Phiếm Luận :
Từ Chè TÀO THƯNG đến BÒ BÍA
Nhân đọc bài "Đi tìm nguồn gốc CHÈ THƯNG" của tác gả Minh Lê đăng trên Web. http://nhungnguoibanspsg. blogspot.com/2021/12/i-tim- nguon-goc-che-thung.html, đã làm cho tôi đâm ra "ngứa nghề ngứa miệng" mà viết bài Tạp ghi và Phiếm luận nầy.
Bỏ qua hết những nguồn gốc nhiêu khê bác học có dẫn chứng một cách nghiêm chỉnh theo phương pháp khoa học "Nói có sách, mách có chứng" của tác giả Minh Lê ra, ở đây, tôi chỉ nói về ngữ nghĩa của từ "CHÈ THƯNG" mà thôi... Theo giai thoại của bài viết nêu trên về "CHÈ THƯNG như sau :(trích)...
"Trên trang nhà của Giáo sư Trần văn Khê, ông tả lại một buổi đi thuyền trên sông Sầm Giang với hai nhà thơ Xuân Diệu và Huy Cận vào năm 1939. Thuyền đi từ Vĩnh Kim ra Rạch Gầm.
“Đáp lời mời của thi sĩ Khổng Nghi, hai nhà thơ lớn Xuân Diệu và Huy Cận đến Sầm Giang để cùng chúng tôi thưởng thức một đêm trăng trên sông, có nhạc, có thơ, có người đẹp và có cả những thức ăn đặc sản. Đêm đó có cháo gà xé phay, tráng miệng ngoài trái cây còn có món “tào thưng” (chè thưng gồm có bột khoai, bún tàu, nước dừa, đường cát)… Chén “tào thưng” làm cho hai thi sĩ Miền Bắc tấm tắc khen ngon.” Sau này gặp lại, nhà thơ Xuân Diệu vẫn nhớ buổi du thuyền đêm đó và viết tặng Giáo sư một bài thơ, trong đó có câu:
Dưới trăng, mời chén tào thưng,
Mà ba mươi lẻ năm chừng đã qua.” (Ngưng trích)
.............................. .............................. .............
Theo giai thoại trên thì "CHÈ THƯNG" là từ nói gọn lại của "CHÈ TÀO THƯNG". CHÈ là tiếng Nôm của ta; còn "TÀO THƯNG" là âm tiếng Triều Châu 潮州 (ta quen gọi là Tiều Châu, rồi gọi tắt luôn là tiếng TIỀU). Nên TÀO THƯNG là do tiếng Tiều phát âm 2 chữ ĐẬU THANG 豆湯 mà ra :
* ĐẬU 豆 là Hạt đậu. THANG 湯 là Canh : Bỏ đậu xanh vào nồi rồi đổ nước nấu lỏng bỏng như nấu canh. Khi đậu đã chín và nở ra thì bỏ đường vào (đường thẻ, đường sắc "Saccarozo", đường cát...) đường gì cũng được. Xong múc ra chén, cứ thế mà húp sùm sụp khi chè còn đang rất nóng. (Ăn nóng là phong cách của người Tiều Châu : Cháo nấu lỏng bỏng vừa chín tới là đã múc ra chén, cho chút ít muối, đường hay nước tương, xì dầu gì cũng được là họ đã húp một cách ngon lành).
TÀO THƯNG là món ăn dặm vừa tiện, vừa rẻ, vừa ngon, vừa đem lại năng lượng làm việc cho các lão Tiều trồng rẫy làm ruộng ở vùng Phú Lâm khi xưa. Tiện vì làm rẫy có sẵn đậu xanh trong nhà; Rẻ vì chỉ có nước và đường gì cũng được; Ngon vì giữa trưa đang đói, có chén canh ngọt ngọt húp vào thì còn gì bằng; Vừa tăng thêm calories để tiếp tục công việc đồng áng. Nên...
* TÀO THƯNG 豆湯 : nghĩa đen là "CANH ĐẬU", ở đây chỉ "CHÈ ĐẬU XANH. Người Hoa không có tiếng để gọi CHÈ, họ gọi tất cả những món ăn có nước là THANG (canh), như người Tây phương gọi "Soup" vậy. Vì đậu xanh không có nấu canh mặn, nên TÀU THƯNG là "canh ngọt" là "Chè Đậu Xanh" nguyên hột còn để vỏ.
Nói thêm một chút về Ngũ Bang 五邦 của người Hoa ở Chợ Lớn Việt Nam : 1. Người Phước Kiến thuộc tỉnh Phúc Kiến, 2. người Quảng Đông, 3. Tiều Châu, 4. Hải Nam và 5. người Hẹ, thuộc tỉnh QUẢNG ĐÔNG (Hải Nam trước mắt là một đơn vị hành chánh độc lập). Người Quảng Đông giỏi buôn bán kinh doanh, nên hiện diện đầy cả Chợ Lớn Mới; Người Hẹ (còn gọi là Khách Gia 客家) giỏi nghề thầy thuốc, trị bệnh; Người Phước Kiến thường theo nghề dạy học, xuất nhập khẩu; Người Hải Nam làm các nghề dịch vụ như mở quán nước, nhuộm đồ, bịt răng...; Người Tiều Châu thì đa số làm ruộng làm rẫy, nên thường sống ở vùng ngoại ô như Phú Lâm, Lục Tỉnh, như Sóc trăng, Bạc Liêu. Ta thường nghe câu hát :
Bạc Liêu là xứ cơ cầu,
Dưới sông cá chốt, trên bờ Tiều Châu !
Nên, người Tiều Châu rất khắc khổ, chịu thương chịu khó trong công việc đồng áng, và cũng chính người Tiều Châu hòa nhập vào cuộc sống nông thôn của người Việt Nam nhiều nhất, sớm nhất; và cách hòa nhập "hòa nhập nhất" là lấy vợ Việt Nam. Chính những bà vợ Việt Nam nầy thương chồng cần cù vất vả nên mới thêm "Phổi-tai", nấm mèo, nước cốt dừa vào cho món CHÈ THƯNG được đa dạng và ngon hơn. Dần dà, thấy trong nhà làm rẫy có thứ nào thì thêm thứ đó vào, như khoai môn, khoai cao, khoai lang, khoai mì... và khi cuộc sống khấm khá hơn, thì không bỏ đường thẻ đường đen nữa mà bỏ bằng "đường cát trắng" và thêm bột khoai, bột báng vào...
Khi món Chè Thưng đã đủ ngon thì mời bà con lối xóm cùng ăn, và thấy có nhiều người thích thì người vợ Việt Nam cũng vì thương chồng cần cù mà tỏ ra đãm đang hơn bằng cách bỏ "Nó" vào quang gánh, gánh đi bán cho làng trên xóm dưới. Từ Phú Lâm ra Chợ Lớn, rồi từ Chợ Lớn ra Sài Gòn... tiếng rao lanh lảnh :"Ai ăn chè đậu xanh nước dừa đường cát...hông ?" cứ vang vang từ giữa trưa cho đến nửa đêm về sáng...
Diễn tiến của chè "TÀO THƯNG 豆湯" qua các giai đoạn
Ngoài "TÀO THƯNG 豆湯" là món ăn chơi được phát âm bằng tiếng TIỀU CHÂU 潮州 ra, trong các món ăn quen thuộc mà ta thường nghe hằng ngày còn có rất nhiều món có âm gốc từ tiếng Tiều Châu mà ra như :
- TÀU XỌN 豆串 : là Chè đậu xanh cà lột vỏ có pha bột mì tinh vào cho sệt sệt. Đậu màu vàng phân biệt từng hột một trong dung dịch sền sệt của patioca. Người Việt Nam ta lại chan thêm một muỗng nước cốt dừa màu trắng lên trên nữa, trông vừa đẹp mắt vừa béo hơn ngon hơn.
- TÀU HỦ 豆腐 : ta gọi là Đậu Hủ, Miền Bắc gọi là Đậu phụ, có ngọt có mặn. Được xay và nấu bằng Đậu Nành. Tàu Hủ Nước Đường thường ăn nóng vào buổi sáng, ăn lạnh vào buổi trưa chung với bánh lọt, gọi là Tàu Hủ Bánh Lọt. Món nầy, ta cũng chan thêm nước cốt dừa cho thơm cho béo. Còn Tàu Hủ mặn thì có rất nhiều loại : Tàu Hủ Non vừa mềm vừa thơm, dùng để nấu với canh hẹ thịt bầm. Tàu Hủ Miếng, Tàu Hủ Chiên dùng để kho với thịt sườn, thịt ba rọi; Ăn cơm rất bắt ! Tàu Hủ Miếng còn dùng để chế biến các món ăn chay, nhiều không kể xiết.
- TÀU HỦ KY 豆腐枝 : Lớp mặt của nước đậu nành được vớt lên để khô thành từng miếng mỏng, có thể chiên, xào, nấu canh, nấu chè...và còn rất đắc dụng trong việc chế biến các món ăn chay.
Tàu Hủ nước đường, Tàu Hủ chiên, Tàu Hủ kỵ
- XẢO QUÈ 炒粿 : Từ Hán Việt là SAO QUẢ 炒粿 : XẢO QUÈ là âm Tiều Châu; Có nghĩa là BÁNH BỘT CHIÊN. Bánh được hấp bằng bột gạo (có khi còn được độn khoai cao, khoai môn hoặc củ cải trắng vào trong bột). Bánh được xắt nhỏ thành từng miếng hình chữ nhật, rồi đem chiên trong chảo cho vàng 2 mặt, đoạn bỏ hành lá xắt nhỏ vào cho thơm, ăn sang thì đập thêm một quả trứng vào. Chiên xong xúc ra dĩa bỏ thêm ngò rí , tiêu lên mặt bánh cho thơm rồi chấm tương ớt, xì dầu là sẽ có một bữa ăn ngon miệng quên thôi.
"XẢO QUÈ" Bánh Bột Chiên và Hủ Tiếu gỏ, Hủ Tiếu giò heo.
- HỦ TIẾU 粿條 : là phát âm Tiều Châu của từ QUẢ ĐIỀU 粿條 : QUẢ là Bánh; ĐIỀU là Sợi. Nên QUẢ ĐIỀU là bánh bằng bột gạo được xắt thành từng sợi từng sợi một, nấu với xương súp, bên dưới độn giá hẹ, bên trên thêm vài lát gan và thịt khìa xắt mỏng, có nơi còn thêm một miếng bánh tôm chiên dòn, bỏ thêm mỡ tỏi, hành ngò, rắc tí tiêu lên là sẽ có một tô Hủ Tiếu thơm phứt ngon lành. HỦ TIẾU là món điểm tâm duy nhất bằng tiếng Triều Châu hiện diện trong các tiệm nước Quảng Đông, âm Tiều Châu chính gốc của từ QUẢ ĐIỀU 粿條 là "CỦI TÉO" được bà con ta gọi trại thành HỦ TIẾU, CỦ TIẾU, PHỞ TIẾU... (Không biết là từ PHỞ có phải từ đây mà ra chăng ?!).
"XẢO QUÈ" Bánh Bột Chiên và Hủ Tiếu gỏ, Hủ Tiếu giò heo.
- BÁNH PÍA 餅 : Âm Tiều Châu BÍA có nghĩa là BÁNH; BÁNH PÍA là từ kép chỉ BÁNH mà thôi. Ở miệt Sóc Trăng, Vũng Thơm, Bạc Liêu... người Tiều Châu dùng đậu xanh nấu cho nhừ rồi tán nhuyễn ra xào chung với đường cho ngọt gói trong bột mì được cán thành nhiều lớp làm thành loại bánh ngọt ăn "La-sét"(tráng miệng) rất ngon hoặc để ăn dặm vào các buổi trưa khi ngồi quán cà-phê vừa nhâm nhi cà -phê vừa thưởng thức bánh Bía thì ngon không gì bằng. Bánh Bía Vũng Thơm, Bánh Pía Tân Huê Viên là thương hiệu nổi tiếng nhất của vùng Lục Tỉnh lên đến Sài Gòn Chợ Lớn và ra đến nước ngoài. Có đủ các mùi như : Bánh Bía Nhưn hột sen, nhưn đậu xanh Xoài Riêng, nhưn đậu đen, nhưn Khoai Cao...
Còn một món ăn có chữ BÍA rất phổ biến trong giới bình dân, trên các dĩa hè, trước các cổng trường học, cho nên cả giới học sinh cũng rất mê món ăn nầy, đó chính là món :
- BÒ BÍA 薄餅 : Chữ Nho là BẠC BỈNH, BẠC 薄 là Mỏng; BỈNH 餅 là Bánh, nên BÒ BÍA nghĩa đen là Bánh Mỏng, chỉ Bánh Tráng. Có hai loại : Loại ngọt, dùng bánh tráng mỏng được tráng bằng bột bắp gói đường mạch nha sốp, rắc thêm mè và dừa nạo, rất ngon. Ăn hoài không chán ! Loại mặn, xào củ sắn với củ cải đỏ, thêm tôm khô lạp xưởng trứng tráng xắt nhỏ, rồi cuốn bằng bánh tráng được tráng bằng bột gạo, chấm vào tương xay, ớt xay hoặc "sa-tế" cũng rất ngon. Có thể ăn chơi hoặc ăn thế cơm cũng được. Trông như gỏi cuốn của ta vậy, nhưng hương vị thì rất khác, rất ngon !
Bánh Piá và Bò Bía ngọt mặn.
Đó là các món ăn, còn trong cuộc sống thì có các từ như :
- QUA 我 :chữ Nho là NGÃ, có nghĩa là Tôi. Tiếng Tiều Châu đọc là "WẮ", ta nói trại thành QUA. Thường dùng để tự xưng cho người hơi lớn tuổi. Ví dụ ví dõm mà ta thường nghe nhất là :
"Hôm qua, QUA nói QUA qua, mà QUA hổng qua;
Hôm nay, QUA hổng có nói QUA qua, mà QUA qua !"
- BẬU 𡚸 : Có nghĩa là Vợ, là em gái. Âm địa phương của Tiều Châu là "BẤU". Người chồng Tiều Châu gọi vợ Việt Nam là BẬU. BẬU trong tiếng Tiều Châu còn có nghĩa là CÔ GÁI, là "Cha-Bấu 㜁𡚸". Mời nghe bài thơ của nhà văn, nhà viết kịch vĩ đại nhất nước Anh William Shakespeare, nguồn tin khác cho là của Bob Marley, lại có người bảo của nha thơ Thổ Nhĩ Kỳ tên là Qyazzirah Syeikh Ariffin, bài thơ như sau:
... và tôi đã dịch cho vui cùng các bạn trong Vườn Thơ Thẩn như sau đây :
You say that you love rain,
But you open your umbrella when it rains.
You say that you love the sun,
But you find a shadow spot when the sun shines.
You say that you love the wind,
But you close your windows when wind blows.
This is why I am afraid,
You say that you love me too.
BẬU rằng BẬU rất CHỊU mưa,
Mưa vừa nhỏ giọt... BẬU vừa giương ô,
BẬU rằng BẬU THÍCH nắng khô,
Trời vừa hé nắng... BẬU vô mái nhà.
BẬU rằng BẬU MẾN gió qua,
Gió vừa thoang thoảng... rèm đà buông xuôi,
Bây giờ BẬU nói THƯƠNG tui,
Lòng tui thấp thỏm rối nùi ... hỏng yên !
- NHỊ TÌ 義地 : chữ Nho là NGHĨA ĐỊA, nơi chôn người chết. Âm Tiều Châu là "Nghì-Tì", âm Quảng Đông "Dì-Tì". Ta nói trại thành NHỊ TÌ.
- PHỔI TAI 海帶 : chữ Nho là Hải Đới, HẢI là Biển, ĐỚI còn đọc là ĐÁI là một dãy dài,(như sợi dây nịt, dây lưng quần chẳng hạn, được gọi là QUẦN ĐÁI 裙帶). Nên HẢI ĐỚI là những sợi rong dài to bảng ở dưới biển. Tiếng Quảng Đông đọc là "HỔI TAI". Ta đọc trại thành Phổi Tai. Loại rong biển to bảng nầy xắt sợi trộn chung với "lười ươi hột é" ăn rất mát.
Phổi Tai và chè Phổi Tai.
Trong bài viết của bạn MINH LÊ có nhắc đến từ "lục tàu xá", (trích) :
"Rồi vì chè bột khoai, chè tào thưng và chè bà ba có nhiều nguyên liệu giống nhau, lại thêm lục tàu xá (chè sáu món của người Hoa, gồm đậu xanh, phổ tai, táo đỏ, hạt sen, nhãn nhục, hoa móng tay hay vỏ quýt)" (ngưng trích)
- LỤC TÀU XÁ 綠豆沙 : Chữ Nho là LỤC ĐẬU SA, Lục Đậu 綠豆 : là Đậu có màu xanh lục, chữ Lục ở đây không phải là số 6. Nên Lục Đậu Sa : có nghĩa là chè đậu xanh lột vỏ được nấu nhừ như Cát (sa), cho màu vàng rất đẹp. LỤC TÀU XÁ là âm của tiếng Quảng Đông. Cũng như...
- CHÍ MÀ PHỦ là âm Quảng Đông của nhóm từ CHI MA HỒ 芝麻糊. CHI MA 芝麻 miền Bắc gọi là VỪNG, miền Nam gọi là MÈ, ở đây chỉ MÈ ĐEN; còn HỒ là HỒ, là bột gạo bột nếp khuấy thành HỒ. Nên CHÍ MÀ PHỦ là một loại "Chè Mè Đen". Dùng mè đen rang cho thơm, xay nhuyễn rồi khuấy với bột nếp hay Tapioca, cùng với đường, nước cốt dừa khuấy cho sệt lại như hồ. Ăn rất thơm ngon vừa bổ khoẻ vừa huợt trường.
- CẤY TẢN XÀ là âm Quảng Đông của nhóm từ KÊ ĐẢN TRÀ 雞蛋茶. KÊ ĐẢN là Trứng Gà, XÀ là Trà. Đây cũng là một loại chè bổ dưỡng được nấu bằng Trứng Gà luộc chín lột vỏ nấu chung với nước đường mía đen cùng một bọc trà Thiết Quan Âm được gói trong vải the, nên món CẤY TẢN XÀ (Chè Hột Gà Trà) có màu vàng nâu của trà trông rất hấp dẫn.
- SÂM BỔ LƯỢNG là âm Quảng Đông của nhóm từ THANH BỔ LƯƠNG 清補涼. THANH là làm cho Trong, BỔ là Bổ dưỡng, LƯƠNG là mát mẻ. Nên SÂM BỔ LƯỢNG là một loại chè ăn để thanh lọc tạng phủ cho sạnh sẽ, mát mẻ và bổ dưỡng nữa ! THANH BỔ LƯƠNG thường được nấu bằng nhãn nhục (cơm trái long nhãn phơi khô), hạt bo bo, hạt sen, củ sen, phổi tai, táo đỏ, kỷ tử, cánh hoa bách hợp và hoài sơn... cùng với đường phèn. Có thể ăn nóng hoặc ăn lạnh gì cũng được.
Còn một từ thoat thai từ âm Quảng Đông không thể không nhắc trong bài viết nầy, vì NÓ rất quen thuộc với các bơm nhậu bình dân dĩa hè, đó là từ :
- XÍ QUÁCH 豬骨 : Chữ Nho là TRƯ CỐT. TRƯ là Heo, CỐT là Xương; nên XÍ-QUÁCH là âm tiếng Quảng Đông của "Xương Heo", là Xương heo được hầm nhừ trong nồi xương nấu súp để nấu Hủ Tiếu Mì. Các tay bợm nhậu rất thích "gặm" những cục Xí-Quách nầy, vừa ngon vừa béo đủ để đưa cay khi nhậu rượu mà lại không sợ bị đầy bụng vì quá no; nhất là những mảnh thịt, mảng gân còn sót lại trên Xí-Quách thì nhậu "bắt" vô cùng. Trong xương heo còn có tủy xương, nên từ "Xí-Quách" đi vào dân gian còn có nghĩa là "Xương tuỷ", là sức lực , là sinh lực của con người; Khi làm việc gì quá sức hay khi quá mệt mõi thì giới bình dân hay nói là : "Hết xí-Quách" rồi ! Nhớ khi xưa, khi còn học chữ Nho với Bác Sáu trong trường, Bác có đọc cho nghe bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt ví dõm sau đây :
二八佳人體態酥, Nhị bát giai nhân thể thái tô,
夜間伏劍斬愚夫。 Dạ gian phục kiếm trảm ngu phu.
雖然不見人頭落, Tuy nhiên bất kiến nhân đầu lạc,
但教郎君骨髓枯。 Đản giáo lang quân cốt tủy khô !
Có nghĩa :
- Giai nhân hai tám với thân hình thật đẹp, thật giòn !
- Đến đêm thường dấu thanh kiếm để chém thằng chồng ngu khờ.
- Mặc dù không thấy có đầu người rơi rụng, nhưng..
- Lang quân của nàng thì xương tủy đều khô khan cả; hết Xí-Quách rồi !
Lục bát :
Giai nhân hai tám xuân xanh,
Đến đêm giấu kiếm chém anh chồng khờ.
Mặc dù đầu vẫn trơ trơ,
Nhưng "hết Xí-Quách" bơ phờ, chồng ngu !
Ta còn hay nghe các tay bợm nhậu kháo nhau bằng câu : CẨU XỰC XÍ QUÁCH 狗食豬骨 là CẨU THỰC TRƯ CỐT có nghĩa như "Cho Chó Gặm Xương" của ta vậy.
Còn rất nhiều rất nhiều tiếng Hoa hòa nhập vào tiếng Việt mà phạm vi quá rộng không thể kể hết ra đây được...
Như bà con lối xóm thường nói chơi với nhau khi học nói tiếng Tiều Châu là :
XẠi hành, XẠI hẹ, XẠI tần-ô,
HỨ lóc, Hứ trê, Hứ sặc rằn...
"XẠI" âm Tiều Châu của chữ THÁI 菜 là CẢI; "HỨ" âm Tiều Châu của từ NGƯ 魚 là CÁ. Nên câu trên là :
Cải hành, cải hẹ, cải Tần-ô,
Cá lóc, cá trê, cá sặc rằn !...
Hay nói chơi với câu "XA XÍ NÁN ngầu lôi tăng kể !" XA XÍ NÁN là âm Tiều Châu của TAM TỨ NHÂN 三四人 là "Ba bốn người"; Còn "Ngầu lôi" là nói lái của "Ngồi lâu", "Tăng kể" là "Tê Cẳng". Nên câu :
XA XÍ NÁN ngầu lôi tăng kể !
là :
Ba bốn người ngồi lâu tê cẳng !
.............................
Trên đây chỉ là những hiểu biết thông thường bình dân của một người rất bình dân thông thường. Nếu có gì sai sót, mong các bậc thức giả vui lòng hỉ xả, chỉ giáo cho !
Hẹn bài viết tới !
杜紹德
ĐÕ CHIÊU ĐỨC
Thứ Tư, 17 tháng 12, 2025
THƯƠNG CON SÁO HUẾ - PHAN NI TẤN
THƯƠNG CON SÁO HUẾ
Cho tới bây giờ tôi vẫn không sao quên được con sáo Huế của chị Mành, chị họ của tôi. Con Sáo Huế là tên họ chị đặt cho nó khi chị thấy nó đang ngắc ngoải trong tổ đan trên cây trứng cá. Chị nghĩ chắc cha mẹ con sáo bị gì mà đành bỏ con, dù nó đang mọc lông cánh. Mang chim về nhà chị cẩn thận đặt tổ chim vô trong hộp cạt-tông lót thêm vài miếng vải vụn cho chim khỏi lạnh. Từ đó, ngày nào hai chị em tôi cũng ra đồng bắt cào cào, châu chấu về cho chim ăn. Khi chim lớn lên mới biết đó là chim sáo đá đầu trắng có khả năng bắt chước tiếng người. Mỗi lần đút mồi chị luôn miệng huýt sáo, kêu tên nó: "Con Sáo Huế ới ời…" Cái giọng Huế của chị sao mà ngọt xờ ngọt xợt chi lạ.
Không thể nói chị Mành của tôi không đẹp. Dù không sánh như chim sa cá lặn nhưng ở tuổi mười ba chị khác nào một bông hoa mặn mà, tươi thắm. Có điều, tính khí chị Mành cứ y như là con trai. Chị hay vật lộn với đám con gái lẫn con trai cùng trang lứa trong xóm Cầu Lòn (*) thuộc phường Phường Đúc, thành phố Huế của chị. Đi đâu chị cũng khệnh khạng như con trai, nói cười thì văng mạng. Tôi chậm lụt, rụt rè bao nhiêu thì chị thẳng thừng, bỗ bã bấy nhiêu.
Chị Mành là con gái rượu của bác Hai, anh của ba tôi. Hồi trước, hè nào tôi cũng theo ba mẹ từ Hương Cần về Cầu Lòn ở nhà bác Hai đổi gió, sau này ba mẹ tôi dọn luôn về Cầu Lòn cho gần anh gần em. Bác Hai và ba tôi là hai anh em sinh đôi, tuy ba tôi sinh sau bác Hai vài phút nhưng lớn lên ông lại có vợ trước bác Hai một tháng, ngược lại bác Hai gái sinh chị Mành trước tôi năm năm. Vậy mà éo le thay, mẹ tôi chết vì một trận cảm đột ngột, bác Hai gái thì trúng gió sau đó không lâu. Thành ngữ "Gà trống nuôi con" tôi nghe đã nhiều không ngờ lại vận vào gia đình bất hạnh của chúng tôi. Đời người vốn ngắn ngủi mà buồn thì nhiều.
Nhà bác Hai có nhiều sách, tôi thích đọc sách nhưng hầu như ngày nào cũng bị chị Mành không lôi đi câu cá thì cũng kéo tôi đi bắn chim sẻ về nướng ăn. Chị ăn ngấu ăn nghiến a thần phù một hơi ba con trong khi tôi ăn chưa xong một con. Chị Mành tôi thích nuôi chim sáo nhưng lại thích bắn chim sẻ để ăn. Ngược đời rứa nạ.
Ngày tháng trôi nhanh như nước chảy qua cầu. Chớp mắt, chị Mành đã là một thiếu nữ đương thì, tôi cũng nhổ giò cao vượt chị một cái đầu. Ngày tôi từ biệt Huế lên đường nhập ngũ, chị không còn ồn ào, năng động mà bình thản tiễn tôi đi. Riêng con sáo mồ côi suốt ngày nó hót líu lo và luôn miệng gọi "Mành ơi…" rất bài bản y lời chị dạy nó.
Nhưng đời tôi không như con sáo ở hoài một chỗ. Từ ngày ra trường đáo nhậm đơn vị ở miệt Đầm Dơi, Cà Mau tôi đi hành quân liên miên. Hết ngã ba biên giới lại sang Lào, Campuchia, lao mình vào những mặt trận ác liệt nhất. Sau những trận đánh trở về hậu cứ, chiều chiều nhìn đàn cò trắng bay là là trên sông Cửa Lớn tôi lại nhớ chị Mành, nhớ con sáo Huế của chị. Sau ba năm tôi giã từ Huế, được tin bác Hai mất đã đành, lúc ba tôi mất, tôi bị thương nặng nằm bệnh viện Cộng Hòa chữa trị. Chị Mành gởi thư thăm, cho biết con sáo Huế cũng đã chết vì trúng nước mưa, chị chôn nó dưới gốc cây Đề.
Từ ngày đi lính, ít khi tôi có dịp về thăm nhà. Phần vì đường xa cách trở, ngày phép lại ngắn, hơn nữa chiến tranh ngày càng leo thang khốc liệt. Cho tới một ngày tôi bị loại ra khỏi vòng chiến vì một tràng đạn địch cầy mất nửa bàn chân. Ngày tôi trở về Huế dưới hình thù của một người tàn phế, nhìn bước đi khập khiễng, nhất là nhìn thấy vết sẹo nổi cộm trên cổ tôi, chị Mành khóc. Giọt nước mắt lăn nhanh xuống gò má chị là nét động duy nhất như thấm vào vết thương trên cổ tôi, vết thương tạo bởi một viên đạn quái ác xẹt qua cổ trong một trận đánh ở rừng U Minh Hạ. Cái nét bệ vệ, oai phong của một anh lính chiến miền xuôi hoàn toàn chìm sâu trong nước mắt của chị. Tôi nhận ra chị Mành đã khác xưa nhiều rồi. Tóc chị đã pha sương. Ở tuổi này lẽ ra chị đã có một gia đình ổn định, vậy mà chị vẫn một mình. Bản tính, nhất là hình tướng con trai để tóc ngắn dữ dội một thời đã được chị thay bằng chiếc áo dài mang phong cách Huế và mái tóc thề buông nhẹ sau lưng, một mẫu mực muôn đời của người con gái Huế.
Ở Huế với chị Mành, thỉnh thoảng tôi thấy mình như trở lại ngọn nguồn của tuổi thơ, cái tuổi hoàn toàn vô tư ở Cầu Lòn cùng chị Mành mươi năm trước. Cầu Lòn thật chân chất, bình dị như người, như tên gọi.
Chị Mành đã mất mấy năm nay. Nhớ chị, chiều chiều tôi hay ra sau hè ngồi cạnh gốc cây Đề thả hồn theo mây gió. Cây Đề còn gọi là cây hoàng lan, chị em tôi trồng lúc nhỏ nay đã cao gần năm mét. Hoàng lan có cánh hoa dài, màu vàng cam, mùi thơm rất nồng, đầy quyến rũ và ma mị. Con sáo Huế của chị Mành thường đứng hót trên cành cây này, không những hót rất hay mà nó còn biết nói "Mành ơi!..." Tôi thương chị Mành cũng như thương con sáo Huế mồ côi của chị.
PHAN NI TẤN
(*)
Cầu Lòn là chiếc cầu có đường sắt ở trên và đường bộ trải nhựa nằm phía dưới cầu thì gọi là cầu Lòn. Người Huế mình thật khéo đặt tên.
Thứ Ba, 16 tháng 12, 2025
BAO LA, MÊNH MÔNG,BÁT NGÁT GIỐNG VÀ KHÁC NHAU NHƯ THẾ NÀO ? LA THUỴ
BAO LA, MÊNH MÔNG, BÁT NGÁT GIỐNG VÀ KHÁC NHAU NHƯ THẾ NÀO?
BAO LA
Chúng ta thường dùng “bao la” để chỉ thứ gì đó “rộng lớn đến mức vô cùng tận” (Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên), chẳng hạn như “vũ trụ bao la”, “biển rộng bao la”… Tuy nhiên, nghĩa đen của từ này không hẳn ai cũng rõ.
Thực tế, “bao la” là một từ gốc Hán, vốn có Hán tự là 包羅. Trong đó:
Nói đến không gian rộng lớn, ta còn có từ “bát ngát". Thực tế, từ này vốn có nghĩa gốc là “thương nhớ, lo buồn" (xem Tiếng Việt ân tình, tập 1)
Tóm lại, “bao la” là một từ gốc Hán, có nghĩa đen là “cái lưới bao trùm tất cả”.
Lê Trọng Nghĩa
*
Phiếm luận của La Thụy:
Từ định nghĩa trên, tôi liên tưởng đến Thánh kinh: “Ta là Alpha (A) và là Ômêga(Ω), là Khởi nguyên và là Cùng tận!”
Chúa là Vua Vũ Trụ, Chúa là Alpha và Ômêga, là Đấng Toàn Năng.
MÊNH MÔNG
Mênh mông 冥 蒙 (chữ Nôm): rộng lớn đến mức như không có giới hạn
Có 5 kết quả về MÊNH chữ Nôm đều nói về “mênh mông”
冥 mênh • 明 mênh • 溟 mênh • 𣷠 mênh • 𫸏 mênh
MÔNG (chữ Hán) có đến 20 kết quả và nhiều nghĩa khác nhau, tôi thấy có chữ Hán có thể có ý nghĩa liên quan đến chữ “bao” 包 trong “bao la” đó là:
Phiếm luận của La Thụy:
Như vậy MÊNH MÔNG là từ thuần Việt từ láy âm đầu, và là từ láy tượng hình có nghĩa “rộng lớn đến mức như không có giới hạn”
đồng ruộng mênh mông"Núi cao biển rộng mênh mông,Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!"(Ca dao)
BÁT NGÁT
Bát ngát 叭兀 (chữ Nôm):
- Tra chữ Hán thì BÁT có đến 32 kết quả với những ý nghĩa khác nhau, nhưng tôi không tìm thấy ý nghĩa nào có liên quan đến “sự rộng lớn”
- Tra chữ Nôm thì BÁT có đến 17 kết quả với những ý nghĩa khác nhau, trong đó có 叭 được dùng với “bát ngát”
Tra từ điển Hán Nôm, tôi thấy chỉ có NGÁT trong chữ Nôm, không thấy có NGÁT trong chữ Hán.
Có 6 kết quả về “ngát” chữ Nôm đều nói về “bát ngát” hoặc “thơm ngát”
兀 ngát • 吃 ngát • 咯 ngát • 𠯪 ngát • 𠿸 ngát • 𬳜 ngát
Trang “Tiếng Việt giàu đẹp” viết:
“Ngày nay, hầu hết chúng ta đều dùng “bát ngát” với nghĩa là “rộng lớn, mênh mông”. Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên cũng giảng: “Bát ngát: Rộng lớn đến mức tầm mắt không bao quát hết được. Cánh đồng bát ngát. Bốn bề bát ngát”. Ít ai biết được rằng, từ này xưa kia vốn được dùng với nghĩa hoàn toàn khác.
Từ điển từ cổ của Vương Lộc giảng: “Bát ngát: Ở trạng thái lo buồn, thương nhớ dai dẳng, bâng khuâng”. Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của ghi chép ngắn gọn hơn: “Bát ngát: Lo xa, lo buồn nhiều nỗi”. Từ điển Việt - Pháp của J. F. M. Génibrel cũng đồng tình: “Bát ngát: U sầu, lo âu, nghĩ ngợi”.
Các tư liệu này không hề giảng sai. Bằng chứng là sắc thái “lo âu, thương nhớ” của “bát ngát” đã xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm văn học xưa, chẳng hạn:
“Bát ngát mặt ngừng chau giọt ngọc,Dùng dằng chân ngại bước đường mây”(Hồng Đức quốc âm thi tập, Nhân đạo, bài 34)“Cảnh li biệt nhiều phần bát ngát,Mạch sầu tuôn ai tát cho vơi”(Ai tư vãn, câu 145, 146)“Bát ngát thay cành hoa trôi nước,Chiếc nhạn về nam”.(Nguyễn Hữu Chỉnh, văn tế chị)
Như vậy, rõ ràng “bát ngát” xưa kia vốn được dùng với nghĩa lo buồn, thương nhớ. Và có lẽ từ đó mới hình thành nên cụm “bát ngát mênh mông” là cảnh vật rộng lớn, hiu buồn. Chắc hẳn do lưu truyền trong dân gian, “bát ngát” dần bị mất nghĩa, và do thường đặt cạnh “mênh mông” nên người ta đã hiểu từ này thành “rộng lớn”.
(Tiếng Việt giàu đẹp)
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=4122771034467773&id=296435410434707&set=a.4352358648175676
Phiếm luận của La Thụy:
Sự rộng lớn đến mức như không có giới hạn của “mênh mông” và “bát ngát”, làm tôi liên tưởng tới từ ngữ “vô thủy vô chung”
Vô thủy: không có điểm bắt đầu.
Vô chung: không có điểm kết thúc.
Cụm từ "vô thủy vô chung" có hàm ý chỉ những điều vô cùng vô tận, không có điểm khởi đầu, cũng không có điểm kết thúc. Tôi liên tưởng đến chữ ĐẠO 道 của Lão Tử
Theo Đạo Đức Kinh:
“Đạo là Nguồn gốc của Vũ Trụ. Vì nó là một cái gì Lớn tuyệt đối nên mới nói: “nghinh chi nhi bất kiến kỳ thủ, tùy chi nhi bất kiến kỳ hậu”迎之不見其首, 隨之不見其後
(Đón nó thì không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi). Tức là “vô thủy vô chung” 無始無終 vậy.”
Cụm từ "vô thủy vô chung" làm tôi liên tưởng đến Phật giáo
Cụm từ "vô thủy vô chung" làm tôi liên tưởng đến Phật giáo
Cụm từ này đồng nghĩa: Vô lượng vô biên 無量無邊
Chỉ PHẬT, theo tín ngưỡng, là không đếm được, không có giới hạn.
Như vậy, BAO LA là từ ghép Hán Việt, nhưng MÊNH MÔNG và BÁT NGÁT là từ láy thuần Việt. Chúng có ý nghĩa gần giống nhau, nhưng vẫn có điểm khác biệt.
Kỳ sau, nếu có thời giờ, chúng ta sẽ thử so sánh chúng với các từ "bạt ngàn", "ngút ngàn" nhé!
LA THUỴ sưu tầm và biên tập
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)




