CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 9 tháng 10, 2025

MỘT CHÚT TẢN MẠN VỀ NHẠC SỸ TRÚC PHƯƠNG - HUỲNH TÂM HOÀI

 


MỘT CHÚT TẢN MẠN VỀ

Nhạc Sĩ TRÚC PHƯƠNG


1-Tình yêu của tôi và dòng nhạc của Trúc Phương


Hồi đó, rất lâu - vào khoảng thập niên 50. Lúc đó nhạc sĩ Trúc Phương chưa nổi tiếng. Anh Phương ôm đàn thùng cùng anh Văn Xe đàn cho Ban văn nghệ thông tin tỉnh Trà Vinh, với giọng ca chính là Văn Xe và cô Ngọc Ánh. Anh vốn là người sinh trưởng ở quận Cầu Ngang. 

Sau khi đậu tiểu học, tôi ghi danh lớp đệ thất trường trung học Long Đức. Sở dĩ tôi chọn trường này vì trường có chương trình dạy thay vì 4 năm thi trung học thì có khi 2 năm hoặc 3 năm có vài anh chị đi thi và đã đậu trung học.Chủ trường lúc đó là chú thiếm Hai Nhơn.Ngoài chú thiếm ra trường còn qui tụ các thầy cô rất giỏi như thầy Đức, thầy Phổ, thầy Ninh, thầy Tố...Vì trường dính líu đến chính trị nên bị đóng cửa sau mùa hè năm 1957.Tôi cùng một số bạn khác đầu quân vào Trường Nguyễn Quan Anh vì lẻ đa số các thầy bên Long Đức đều qua đây, trừ một số thầy bị bắt như thầy Ninh và thầy Tố . Chú thiếm hai chạy thoát ra ngoài khu cùng các con của chú thiếm. Bé Hai đứa con lớn của chú thiếm nghe đâu bị chết ngoài ấy.Sau năm 1975 người ta thấy chú thiếm hai về Sài Gòn. Chú Hai Nhơn bị mờ cả hai đôi mắt vì bị ảnh hưởng của bom lân tinh, còn thiếm hai chính là bà Bùi Thị Mè.

Niên học 1960-1961 trường trung học Bán Công Trung Học Trần Trung Tiên có mở cuộc thi tuyển học sinh vào lớp Đệ Tam, tôi nộp đơn thi và đã đậu vào lớp nầy. Vào thời gian đó tôi mê cổ nhạc hơn là tân nhạc.Tôi đi xem văn nghệ chỉ chú ý đến mấy cô đào, anh kép cải lương. Nhưng khi vào học trường Trần Trung Tiên, tôi đã thay đổi, tôi lại mê âm nhạc. Ở đây tôi đã yêu và đựơc yêu.Tôi yêu D, một cô bé lớp đệ ngũ. Chúng tôi có những buổi tập dợt văn nghê chung với nhau. Chúng tôi có cùng sở thích đánh vũ cầu. Ngày tháng có dịp gặp nhau nhưng tôi chưa có dịp tỏ tình. Một hôm nàng sang nhà tôi xin mồi lữa, lúc ấy tôi đang thổi nấu dùm thiếm tôi nồi cơm chiều vì thiếm bận việc. Nhìn D lui cui thổi lửa để mồi nhúm cây khô. Tôi đâm đâm nhìn gương mặt nàng với đôi má nàng hồng hào qua ánh lửa, tôi chợt thấy tim mình đập mạnh. Tôi muốn nói: “D ơi! Em đẹp lắm…” nhưng lại ngập ngừng và bổng thốt lên cái câu thầm kín mà tôi muốn nói từ lâu” D ơi! Tôi yêu em..” Nàng lộ vẻ lính quính vì câu nói bất ngờ đó. Nàng nhìn vội về phía tôi và nói “ Anh nầy…” rôi bỏ chạy về nhà…Còn tôi thì đờ đẩn đứng lo âu …không biết D có đáp lại tình mình không…? Mặc dù không nói ra điều đáp lại tình yêu với tôi, nhưng qua bả n nhạc“Đò Chiều” của Trúc Phương là cái duyên thầm kín mà cô bé đã thố lộ tình cảm của nàng đối với tôi, thay gì trả lời câu hỏi. Phòng học của tôi nhìn qua căn bếp nhà em. Mỗi ngày em ra bếp nấu cơm.Tôi ngồi bên nầy nhìn em qua khung cửa sổ. D hát bản Đò Chiều, đến đoạn"trông anh trai phong sương em thấy mà thương " thì nhìn sang tôi với nụ cười tình tứ. Ôi! rung cảm làm sao ấy... Rồi chúng tôi yêu nhau. Chúng tôi có những buổi giao ước hẹn hò chuyện trò thân mật trong một gốc vắng ở gần nhà. Tình yêu chỉ trọn qua một năm, vì sự non nớt dổi hờn của tuổi trẻ đã làm tình yêu chúng tôi bị vở tan.Tôi đau buồn khôn tả. Buổi văn nghệ năm đó tôi hát bản "Chuyện chúng mình" của Trúc Phương. Tôi muốn hát cho riêng D, người yêu đầu đời của tôi" Đêm nay em ngồi, lặng yên nghe tôi kể chuyện xưa bao năm lắng trong tim, tình mình từ thủa tuổi đôi mươi, mà ta chưa biết nên để lở duyên đầu" đã lở duyên đầu làm tôi buồn ngơ ngẩn và quyết định rời TràVinh lên Sài Gòn học để cố quên mối tình chớm nở đã vội tan. Cũng từ đó tôi thường hát nhạc của Trúc Phương qua mấy bản như "Mưa nửa đêm, Bóng Nhỏ Đường Chiều , Buồn Trong Kỷ Niệm, Hai Lối Mộng...nhất là bản "Con Đường Mang Tên Em". Mỗi lần hát bản nầy là tôi nhớ lại con đường hàng me ở Trà Vinh, mỗi ngày hai đứa cùng đi đến trường. Ánh mắt, nụ cười trao nhau trong suốt con đường với cơn gió làm lá me quấn quý́t tà áo trắng, rơi dính trên mái tóc ngắn đuôi gà của em. Đi học ở Sài Gòn, nhiều đêm lang thang ngoài phố một mình, tôi lại hát nhạc của Trúc Phương "Ai cho tôi tình yêu để làm duyên nụ cười.Tôi xin dâng tình tôi trọn đời" hoặc "Nửa đêm ngoài phố vắng có ngừơi mãi đi tìm, một người không hẹn đến mà tiếng bước buồn thêm.Tiếc thay hoài công thôi, phố đã vắng thưa người. Biết rằng chẳng duyên thừa, để ngừơi không gặp nữa,về nối giấc mơ xưa".Và giấc mơ xưa đã trở lại khi tôi gặp lại D trong một buổi tối Sài Gòn mưa bay lất phất, trong dịp đi phép cuối tuần. Lúc nầy tôi đang thụ huấn khóa dự bị sĩ quan Thủ Đức...Tôi chạy chiếc Velosolex chầm chậm ngang qua vũ trường Paramount. Thật hết sức vô tình, tôi đưa mắt nhìn vào bên trong và thấy D vừa bước từ cầu thang lầu đi xuống.Tôi gọi D..D ..Ơi! D chạy vội ra và ôm chầm lấy vai tôi, lúc ấy cách không xa có một người thanh niên mở cửa xe chờ đón D về.Tôi nhìn về hướng ấy, D hiểu ý, nói "thây kệ"......Rồi ngồi lên sau yên xe tôi nói "Anh chở D về dùm". Trên đường về D cho tôi biết nàng phục vụ trong biệt đoàn tâm lý chiến ở Sài Gòn, nhưng bị thuyên chuyển ra miền Trung. Nàng không muốn xa gia đình, vã lại ba má nói ra ngoài ấy nguy hiễm, nên nàng tạm xin làm việc ở đây được vài tháng vừa qua.Tôi đưa D về trong cơn mưa phùn cuối năm, bổng thấy nhói trong lòng đau thay gì thấy hạnh phúc khi gặp lại ngừơi yêu sau bao năm xa cách. Khi biết em làm trong vũ trường lòng tôi chùn xuống xót đau.Tôi từ chối vào nhà em, với lý do phải trở về quân trường sớm.Về nhà tôi không tài nào ngủ đựơc "Xin giả biệt bạn lòng ơi, trao trả môi ngừơi cừơi, vì hai lối mộng hai hứơng trông , mình thương nhau chưa trót thì chớ mang nổi buồn cho đù chưa lần nói ".Cái giáo lý Khổng Tử đã ăn sâu trong đầu tôi trong mấy năm học trung học "Xướng ca vô loại" đã làm hỏng tình yêu của tôi thật sự từ đó.Tội nghiệp cho em và tội nghiệp cho tôi !..

Khói lửa chiến tranh sau Tết Mậu Thân năm 1968 đã đẩy tôi đi suốt 2 năm không ngừng nghỉ ngoài mặt trận với cái chết trong gang tất.“Tôi thường đi đó đây, bùn đen in dấu giày, lửa thù no đôi mắt.Chân nghe lạ từng khu chiến thuật…Áo nhà binh binh thương lính…lính thương quê…vì đời mà đi…Hoặc "Kẻ ở miền xa, trời quen đất lạ nhiều đông lắm hạ, nối tiếp đi qua ,thiếu bóng đàn bà".Cuộc đời binh nghiệp cận kề với cái chết làm tôi lang bạt tình đời. Tôi xem tình yêu như những cuộc chơi rong: gặp đó- ân ái đó- rồi thôi-rồi quên...Không có một cuộc tình nào là trọn vẹn.

"Mựơn em cánh én đeo hồn.

Trong anh thật sự đã mòn dấu xuân".

Những ngày nghỉ phép là những ngày rượu uống bạt mạng và thường khi "Đưa ta đi về nguyên thủy loài người, mùa yêu khi muốn ngỏ, vụng về ngôn ngữ tình nên làm bằng dấu đôi tay". Sau hơn hai năm ngoài chiến trường, tôi có dịp trở về Sài Gòn, ghé Thị Nghè, trong nghỏ hẽm đường Huỳnh Thúc Khoán, nơi căn nhà gia đình D ở.Tôi gỏ cửa, đứa em gái D mừng rỡ mời tôi vào nhà và nói: “Anh đi đâu mất biệt?.Rồi em ngập ngừng."Chị D lấy chồng cách đây 2 tháng".Tôi nghe nhói trong tim.Và sau đó không biết tôi đã nói gì với em của D.Tôi ra về....Từ đó cho tới nay hơn mấy chục năm dài đã trôi qua mà hình bóng cũ vẫn còn trong tôi mỗi khi có dịp hát nhạc của Trúc Phương."Trở lại chuyện 2 chúng mình, khi em với anh vừa biết đam mê, tình yêu tràn trề........"


2 -Cuộc hội ngộ với TRÚC PHƯƠNG


Sau thời gian ở trại "Cải tạo"về, tôi và vợ con tôi sống với gia đình ba má tôi ở Trà Cú. Sau một năm ăn không ngồi rồi, tôi xoắn tay theo làm phụ xế xe đò cho đứa em trai.Trong thời gian nầy tôi gặp và quen với vài người bạn văn nghệ cũ. Hôm đó anh bạn họa sĩ trẻ đang nói chuyên với tôi ở một gốc của bến xe Trà Vinh. Anh chỉ tay về phía một ngừơi cao cao mang kín cận đang đi lại hướng hai chúng tôi, anh bạn hỏi tôi: "Anh có biết Trúc Phương không”, Tôi hỏi có phải nhạc sĩ T.P? vừa lúc đó Trúc Phương đang đứng trước mặt tôi. Anh bạn giới thiệu: "Anh Phương, đây là anh Tâm Hoài . Anh bắt tay tôi một cách ởm ờ lấy lệ và nói năng rất thận trọng. Tôi hiểu cho anh, vì trong thời buổi nầy khó mà tin được ai…! Nhưng nhiều ngày sau đó tình thân giữa tôi và anh tốt hơn nhiều. Có lần anh theo tôi về nhà và ở lại đôi ba ngày. Chúng tôi bắt được nhịp thở văn nghệ với nhau.Tôi nghĩ anh cẩn thận với mọi ngừơi vì lúc đó tình hình rất khó khăn.Tôi biết đựơc anh nhiều hơn. Anh tâm sự "Toa biết không, moa rời Sài Gòn về sống với má moa ở Cầu Ngang ăn không ngồi rồi với nhiều nổi lo vì không hộ khẩu, má moa lại gìa, chỉ sống nhờ mấy đứa cháu, moa về ở gây thêm gánh nặng....Mà đi đâu bây giờ?.Vợ con đã cách biệt trước năm 75, bây giờ thì bặt vô âm tín. Anh sống nhờ sự đùm bọc của những anh em bạn bè yêu mến anh. Nhưng vào thời buổi gạo châu củi quế, đâu có ai đủ sức gánh gòng thêm ...nên anh rày đây mai đó...! Có lần anh nói" Toa biết không, moa bây giờ viết nhạc theo đơn đặt hàng để kiếm cơm". Tôi nhìn anh ngờ vực. Anh đưa cho tôi xem bản nhạc chép tay, bản nhạc viết cho ban quản lý bến xe. Anh nói chưa chắc moa đưa cho họ và vẻ mặt anh buồn buồn!Sau nầy qua sự giới thiệu của anh họa sĩ trẻ, anh trưởng BanVăn Hóa thông tin Huyện Trà Cú vì quý mến tài nghệ của anh ra nên tay đùm bọc. Lúc nầy anh sống tạm với anh em trong nhà tập thể. Chính nơi đây anh sáng tác khoảng 4,5 bản gì đó mà tôi không nhớ tên. Có một bản mà tôi thích nhất đó là bản"Trà Cú Trong Tình Thương Mật Ngọt”. Bài nầy có lẻ anh viết vì cái tình của người Trà Cú đã cho anh. Bài nhạc viết theo âm hưởng ngủ cung:

"Nhớ thủa yêu em,

từngbước Lâm Thôn giai điệu ngày đầu,

Dìa lâu đậm mầu,

Vì ai anh múa qua cầu”

…………..

Mùa chướng trơ…đồng khô nắng cháy

Gánh lưng lưng gào nước chia hai

Bưng ly dừa mát dạ những ai

Thương em quá buổi đường dài"

…………..

Anh lại theo em

Dìa láng Đôn Xuân…

Hai mùa ngọt-mặn

Rửa chân sông cạn

Rồi…ngơ ngẫn ..tím… bông bần…”

………

Nếu phải xa nhau

Trà Cú yêu ơi!

Trong tình mật ngọt

Mà khi rời rồi

Làm sao quên đất…quên người…


3- Lãng Mạn ,Đa Tình


Trong một dịp anh theo tôi về Chợ Lách đễ thăm ba vợ tôi vì ông bị bịnh. Khi về đến nơi thì người nhà cho biết đã đưa ông cụ ra bệnh viện Vinh-Long. Chúng tôi lại xuống đò trở ra Bệnh viện ở Vỉnh Long.Trên đường đi từ bến đò đến bệnh viện, tôi và anh đi song bước trò chuyện, môt lúc tôi thấy anh đi chầm chậm..và lùi dần về phía sau.Tôi vì muốn đi mau để vào nhà thương thăm ông cụ nên cứ để mặc anh đi phía sau. Một hồi lâu tôi nhìn quay lại, không thấy anh đâu. Nhìn kỹ lại thì thấy anh hai tay bấu vào vách tường và nhìn ai đó bên trong.Tôi gọi anh ơi ơí. Bấy giờ anh buông tay tuột xuống và đi nhanh về phia tôi.Tôi hỏi anh làm gì đó. Anh nói "Moa nghía hai cô bé trèo cây hái mận bên trong”. Anh cười xòa và chúng tôi đi về hướng bệnh viện.

Lúc tôi vào phòng thăm ba vợ tôi thì anh tha thẩn ngoài hành lang bệnh viện. Khi tôi trở ra ngoài thì chẳng thấy anh đâu.Tôi ngó dáo dát tìm anh một lúc,thì mới thấy anh ngồi trên cành cây sứ với cây bút và mảnh giấy.Tôi gọi anh lại để ra bến xe trở về Trà Vinh.Tôi hỏi anh viết gì đó?.Anh bảo viết nhạc "Tà Áo Trắng Bệnh Viện".Tôi nghĩ anh viết chưa xong. Sau nầy vì bận rộn với cuộc sống, tôi quên hỏỉ anh có hoàn tất bản nhạc đó chưa?.Ở anh khi có bóng dáng người đẹp, với ly cà phê và điếu thuốc, anh sáng tác nhạc rất nhanh. Mới hay cái lãng mạn của anh đã khơi dậy trong anh, viết ra những nốt nhạc cho những bài nhạc tình mà theo thiển ý của tôi rất đặc biệt Trúc Phương khó mà lầm lẫn với các nhạc sĩ khác .


4 Đôi dòng cuối


Sau năm 1975 một số văn, thơ, nhạc, họa sĩ thoát ra đựơc nước ngoài nên cuộc sống dễ thở.Đa số còn kẹt lại trong nước.Có nhiều người sống dật dờ, âu lo, cạn queo ngỏ cụt hoặc bị tù tội...Rồi thời gian trôi. Có người tháo vát hay có căn cơ còn sống tàm tạm. Còn số còn lại? Phải làm gì đây để sống? Họ chỉ có cây viết! Và họ phải lao lách viết. Rồi họ bị chụp mũ nầy, mũ nọ..!Ai nuôi sống họ?...Trong lúc ngừơi ta sử dụng tác phẩm của họ để làm giàu. Có lúc nào quí vị nghĩ tới họ chưa ?Như nhạc sĩ Trúc-Phương lúc chết đi với cái vốn còn lại là đôi dép, trong ngỏ hẹp nơi thành phố Sài Gòn. { Đọan thông báo cái chết của nhạc sĩ Trúc Phương do Việt Dũng nói trong một chương trình ca nhạc của trung tâm ASIA}.

Xin thấp nén hương lòng cầu chúc cho linh hồn anh sớm siêu thoát nơi miền an lạc nào đó.

Xin cám ơn anh đã để lại cho riêng tôi biết bao nhiêu kỷ niệm qua dòng nhạc của anh và trên thế gian nầy, mọi người yêu nhạc sẽ vẫn nhớ anh muôn đời qua dòng nhạc tình gần như gắn liền với đời sống tình cảm của họ.



HUỲNH TÂM HOÀI

Sacramento mùa lạnh 2006


*Ghi Chú : Moa, toa: Tôi, Anh (theo tiếng Pháp)


MƯỜI NĂM. THƠ NHÃ MY,NHẠC A.I








Thứ Tư, 8 tháng 10, 2025

LOÀI RAU MỌC TỪ KẸT ĐÁ - TỪ KẾ TƯỜNG

 


LOÀI RAU MỌC TỪ KẸT ĐÁ

quê, nhà tôi biệt lập với chung quanh, nhà hàng xóm cách một tường rào khá xa cả trăm mét, con đường nhỏ chạy ngang cổng trước lại vắng vẻ, tôi lại sống một mình, còn hơn nghĩa của giãn cách. Và chính vì ở một mình nên nhu cầu sống, sinh hoạt cũng chẳng có gì nhiều. Nồi cơm điện, bình thủy điện, 2 cái tủ lạnh một sau bếp, một trong phòng riêng, máy giặt, 2 cái bếp gaz, lò vi sóng hư chưa sửa được, cái bếp từ.... Nói chung, điều kiện sinh hoạt tương đối cho người sống một mình không phải bận bịu gì nhiều với sinh hoạt bếp núc, nấu nướng, giặt giũ.
Chỉ có cái ăn hằng ngày. Cũng do sống một mình nên tôi cũng thảnh thơi với chuyện ăn uống. Gạo chục ký lô, tôi không thường xuyên ăn thịt nên không mua thịt trữ tủ lạnh, chỉ ăn cá nhưng cá không mua ở chợ mà dưới hồ câu lên, làm sạch bỏ tủ lạnh ăn dần. Cá dưới hồ đủ loại: Cá tra, cá trê, cá rô phi, cá tai tượng, cá điêu hồng... Nếu không chế biến cá tươi thì xẻ làm khô, phơi 1,2 nắng chiên lên. Chục trứng vịt, trứng gà, chục gói mì, gói phở, hủ tiếu... Vậy là có thể không đi chợ được khoảng một tuần.
Rau tôi cũng bắt đầu trồng: Hành, tỏi, ớt, trái su, khóm, dấp cá, húng quế, tần dày lá, bạc hà, củ hành tây, củ hành tím... Nhưng có một loài rau không trồng vẫn mọc, vừa ngon, có nhiều vị thuốc, dễ chế biến. Đó là loài rau trời cho, mọc từ kẹt đá, sạch từ trong ra ngoài. Đó là rau tiêu, hay còn gọi phổ biến là rau càng cua. Rau này mưa nhiều sẽ mọc nhiều, mọc thành bãi luôn. Ở chợ Sài Gòn và ngay chợ quê tôi không thấy ai bán rau càng cua. Nhưng nhà tôi, trong vườn thì đầy.
Sáng sớm hôm nay tôi vừa làm cỏ vườn, vừa chăm sóc các bãi rau càng cua, vừa hái rau để bữa cơm trưa nay có món rau càng cua bóp giấm thêm trứng vịt luộc xắt mỏng. Lẽ ra có thêm thịt bò xào nữa thì tuyệt cú mèo. Nhưng tôi không đi chợ làm gì có thịt bò? Vả lại tôi chia sẻ bài này trên Facebook của mình không phải là nói chuyện ăn uống mà chủ yếu nói về một loài rau hoang dã, đúng hơn là dân dã, lại mọc từ... kẹt đá.
Không hiểu sao tôi rất có cảm tình với loài rau càng cua, thân mềm, mỏng manh, trắng trong, lá tròn hình cái quạt Ba Tiêu có nhiều phép màu quạt tắt được lửa tam muội mà Tề thiện Đại thánh từng mượn của Thiết Phiến công chúa trên trời để dẹp yêu quái cứu Đường Tăng trong Tây Du Ký. Đây là loài rau quý nhưng sống không đòi hỏi điều kiện gì cho mình, chẳng cần phân bón, công chăm sóc. Chỗ nào có... kẹt đá, gốc cây, chậu kiểng, khi mưa dầm trút xuống vài trận là rau càng cua mọc lên.
Chẳng biết hạt mầm ở đâu, chôn giấu từ bao giờ, mùa nắng lửa ẩn mình sâu trong đất, khi mưa xuống là trồi lên, cho đời những nhánh rau xanh, thân tròn mỏng manh nhưng sức sống thật kỳ diệu. Ăn lại "nên thuốc". Theo tôi, rau tiêu hay rau càng cua là quà tặng của thiên nhiên dành cho con người, không phải trồng, chỗ nào cũng có rau này mọc lên, phát triển mạnh và ngon nhất trong mùa mưa. Việc chế biến rau càng cua lại rất đơn giản, không cầu kỳ. Rau hái ngoài vườn vào, rửa sạch là có thể chấm nước cá kho tăng hương vị cho bữa cơm quê.
Rau Càng Cua là loài rau hoang dại, mọc nhiều khi mưa xuống, không kén đất, rau có thể mọc bất cứ đâu, từ kẹt đá, gốc chuối, chậu kiểng, dưới chân thềm nhà, gốc dừa…lạ nhất là từ kẹt đá, chỉ cần một khe hở nhỏ thậm chí mọc ngay trên mặt phiến đá, cục đá rau cũng có thể mọc lên, phát triển thành một đám rau, bãi rau tự sống không cần bàn tay con người chăm sóc, bón phân. Do đó rau Càng Cua là quà tặng của thiên nhiên ban cho con người như món quà quý, bởi lẽ loài rau này chế biến đơn giản, chỉ cần hái vào rửa sạch để vậy chấm cá kho, mắm kho ăn đã ngon. Còn nếu muốn ngon hơn nữa thì thêm chút giấm, đường, vài lát hột vịt luộc, sang hơn thì thịt bò xào tái với củ hành tây để thành món sà-lách rau Càng Cua trộn dầu giấm. Nam phụ lão ấu đều chế biến được. Ăn lại “nên thuốc”, nhiều dinh dưỡng.
Nếu Lan Huệ hay Huệ Mưa là một loài hoa mọc từ củ vùi sâu trong đất, chờ mưa xuống củ Huệ Mưa trồi lên nẩy mầm lá xanh, theo sau là cọng hoa phong nhuỵ trong một ngày cao dần lên để hôm sau nở ra đoá hoa 6 cánh, 8 cánh màu hồng nhạt, hoặc màu vàng, hiếm quý thì được Huệ Mưa màu trắng mà tôi gọi là Ẩn Lan vốn mang tên loài hoa bí ẩn thì Rau Tiêu hay rau Càng Cua là loài rau bí ẩn không kém vì không ai thấy hột Rau Tiêu nhỏ bé rụng xuống đất khô bao giờ, nhưng mưa xuống chỗ đất nào có hột rau Càng Cua vùi lấp lập tức nẩy mầm hoá một thảm xanh rau quê cho đời, cho người, cho cuộc sống một thứ rau dân dã vừa tăng hương vị cho bữa cơm, vừa là thuốc quý cho sức khoẻ.
Mùa này trong vườn nhà tôi gần như chỗ nào cũng có đám rau Càng Cua hoặc bãi rau Càng Cua, sáng sớm tôi cắp rổ dạo vườn, lướt qua đám rau Càng Cua nào xanh tươi nhất, mơn mỡn nhất ngồi xuống hái, thật ra là nhổ, một loáng là đầy rổ mang vào ngắt hết rễ, chừa cọng rau non xanh, trong trẻo, rửa sạch với nước muối pha loãng, để ráo rồi chế biến, tạo thành món rau trộn cho bữa cơm bình dị. Nếu siêng một chút thì nấu canh tép, canh cá bóng dậm. Rau Càng Cua làm món rau trộn đã ngon, nấu canh càng ngon hơn, tăng hương vị hơn. Rau Càng Cua mọc rộ lên trong mùa mưa và tàn lụi khi nắng tới. Lạ thay, bí ẩn thay về một loài rau quê, trong mùa nắng tưới cách gì ngay chỗ đất rau đã mọc lên cũng không thấy rau đâu. Nhưng chỉ cần mưa xuống vài đám ngay chỗ đất ấy rau sẽ hồi sinh như sự mặc định của thiên nhiên.
Rất nhiều người ở nhiều vùng miền không biết có loài rau Càng Cua vì rau này là đặc sản của Nam Bộ, do đó dễ nhầm lẫn với rau Lá Lốt và Diếp Cá (Nam Bộ gọi là Vấp Cá) do hai loại này có mặt nhiều nơi, lá cũng tương tự như lá rau Càng Cua nhưng nếu đã biết rõ rau Càng Cua rồi thì rất dễ phân biệt về màu sắc và hình dạng. Rau Lá Lốt và rau Diếp Cá là loại rau dây bò trên mặt đất, còn rau Càng Cua là loại rau thân cọng, mọc cao hơn mặt đất 5-10 cm. Cùng gọi là rau nhưng hoàn toàn khác nhau, công dụng và chế biến cũng hoàn toàn khác nhau. Rau Càng Cua là rau trộn, rau Diếp Cá lá rau sống ăn kèm, rau Lá Lốt là để gói hoặc nấu canh, xào… Vườn nhà tôi có đủ 3 loại rau này và cùng phát triển trong mùa mưa. Rau Lá Lốt và Diếp Cá do người trồng, chăm sóc. Còn rau Càng Cua là rau tự mọc và không cần chăm sóc. Đặc biệt, rau Càng Cua có thể mọc bất cứ chỗ nào khi mưa xuống, không chỉ chỗ đất bằng phẳng ẩm ướt mà cả trong kẹt đá.



TỪ KẾ TƯỜNG

Thứ Ba, 7 tháng 10, 2025

MỘNG ĐỜI SẮC SẮC KHÔNG KHÔNG - PHAN NI TẤN

 



MỘNG ĐỜI SẮC SẮC KHÔNG KHÔNG

Người ta nói càng về chiều người già càng ít nằm mộng. Tôi, tuy chưa có gì gọi là "chiều" nhưng lâu nay tôi cũng ít khi thấy mình nằm mộng. Cho đến tối hôm qua, đi sâu vào giấc điệp tôi thấy mình đang lui cui viết xuống những dòng này:
Tôi là một cô nhi xuất thân từ viện mồ côi Ganakata ở Tây Kinh (Miyako), Nhật Bổn vào thế kỷ thứ 14. Thiện mẫu viện chủ có lòng bác ái lượm tôi trước cổng tu viện, trên ngực ghim một tờ giấy nhầu nát đề vỏn vẹn một hàng chữ lòe nhòe dài sọc: Toshiro Harakiri Harachi Zukyo Nihobiicho, tên tôi.
Khi vào đời, tôi là một đứa trẻ thô thiển ngơ ngác bị đời đá lăn đá lốc tả tơi như trái banh rách. Sầu đời, tôi lên núi Fiji đạp tuyết tầm sư học đạo. Đạo đây là tâm đạo, kiếm đạo, hiệp sĩ đạo. Sư phụ tôi là một bậc quái nhân dị khách, một Samurai từng trừ gian diệt bạo. Lần đầu tiên gặp ông, tôi giựt mình. Ông hoàn toàn không phải là một thứ tiên ông đạo cốt, tay cầm phất trần như các bậc thần tiên, mà toàn thân ông, từ đầu chí chân, râu tóc bạc phơ, lông lá đầy mình như con bạch hầu tinh ông nuôi.
Sư phụ tôi, người Tạng lai Mông pha Ấn trộn Hàn gốc Nhật. Thuở nhỏ sống trên rặng núi Népal, ông từng là đệ tử đời thứ tám của kỳ lão Phật đạo thánh nhân chi bảo Tu Bồ Đề tái thế. Trong lịch sử Phật giáo khởi từ năm 530 trước Công nguyên, Phật Thế Tôn giác ngộ lúc 36 tuổi và truyền bá đạo pháp trong 49 năm, Tu Bồ Đề là một trong thập đại đệ tử của Đức Thích Ca Mâu Ni, và là bậc giác ngộ của Ngộ Không Tôn hành giả ngàn năm trước.
Sau nhiều năm hành hiệp vào thời kỳ phong kiến ở Ấn Độ và Nhật Bổn, sư phụ hốt nhiên đốn ngộ, xa lánh trần thế, sống cô độc, bí ẩn trên đỉnh núi Fiji quanh năm tuyết phủ. Trên đường lên núi tu đạo, cơ duyên đưa ông cứu thoát con vượn trắng bị trúng tên của những tay thợ săn bá đạo. Ông mang nó lên núi chữa trị nuôi dạy nó như một đứa con hàng ngày vào rừng hái trái cây, hứng sương núi đắp đổi sống qua ngày. Từ ngày thâu nhận tôi là đệ tử độc nhất, sư phụ chỉ bút đàm với tôi về hạnh từ bi và đạo lực thâm hậu của con người, trừ những lần dạy võ, luyện kiếm, hô bài thiệu.
Sau nhiều năm lao tâm khổ luyện, từ một đứa trẻ vụng về, ốm yếu tôi trở thành một thanh niên Samurai phương phi, vạm vỡ thứ thiệt. Tôi có thể chạy như bay trên đầu ngọn cỏ, đó là chiêu thức thảo thượng phi, phóng phi tiêu sáu cạnh rách cánh ruồi đang bay, chém đứt râu ong đang hút mật, kiếm tôi sắc bén và nhanh như chớp chẻ sợi tóc ra làm tư, chẻ sợi lông ra làm tám, cung tên của tôi có thể bắn xuyên cả một đàn chim nhạn đang bay theo hình chữ V, tiếng sư tử hống của tôi đánh thức mọi lầm mê ngái ngủ, giới hữu tình phải cúi đầu lắng nghe sự huyền diệu của tiếng rống làm tiếng thu tơi tả rụng và tuyết vô tri cũng phải giựt mình tan ra chùi xuống, người Anh gọi là avalanche.
Một buổi sáng mùa đông, tôi lạy tạ sư phụ, mang tinh thần võ sĩ đạo xuống núi vân du hành hiệp. Một Samurai luôn luôn mang bên mình một thanh trường kiếm gọi là Katana và một đoản kiếm Tanto tạo thành một bộ kiếm Daisho.
Vào thời kỳ phong kiến, lịch sử Nhật Bổn được coi là lịch sử của chiến binh Samurai. Họ phục vụ các lãnh chúa (daimyo) hay thủ lĩnh (toryo) với lòng trung thành tuyệt đối cho tới chết. Riêng tôi, một Samurai độc lập không phục vụ cho bất cứ thế lực Shogun hay Daimyo nào. Chính vì đơn thương độc mã như vậy nên tôi thường là một mục tiêu hòng thu nạp dưới trướng các lãnh chúa hay các băng đảng đang ra sức tranh giành quyền lực, kiểm soát đất đai, kể cả quân sự, chính trị, kinh tế và xã hội.
Như đã nói, tôi là một Samurai độc lập, hấp thụ những quy tắc đạo đức, truyền thống võ sĩ đạo từ sư phụ: tính gan dạ, lòng dũng cảm không hề lùi bước trước một bạo lực nào và sẵn sàng đẩy họ đến chỗ diệt vong dưới đường gươm chớp nhoáng Kanata, một kỹ năng chuyên nghiệp của tôi. Chính vì vậy các lãnh chúa Oda, Tokugawa, Masachika hay những băng đảng khét tiếng Yamaguchi, Yakusa ..., tất cả đều coi tôi là một Ninja sát thủ, một Ronin bất trị, nhưng thâm tâm tôi vẫn quả quyết tự coi mình là một loại lãng nhân sống tự do hành hiệp trượng nghĩa, thấy chuyện bất bình rút gươm tương trợ.
Tôi trở thành một Samurai không đối thủ cho đến khi chạm trán Zatoichi, một Samurai kiệt xuất đã trở thành huyền thoại trong lịch sử chiến loạn của Nhật Bổn, đồng thời là một nhân vật giả tưởng, không có thực trong kỹ nghệ phim ảnh của người Nhật.
Có điều trong giấc mơ kỳ lạ của tôi xẩy ra đêm hôm qua, Zatoichi lại là một hiệp sĩ mù có thực, hiện thân bằng xương bằng thịt, không những hồn hậu chỉ dạy cho tôi về nghệ thuật nghe gió kiếm bằng tai mà cả về văn hóa cũng như cách nhận thức tính háo thắng, nỗi phù trầm hư ảo nhất thiết giai không của cuộc làm người võ sĩ đạo.
Sau ba ngày ba đêm chiến đấu liên hồi kỳ trận dưới chân núi Fiji hoang dã đến đá bay, cát chạy, đất lỡ, trời nghiêng. Cuối cùng, bằng một đường gươm sắc bén nhanh hơn tia chớp, Zatoichi đã chặt đứt đầu con mãng xà ở trên cây anh đào bị động lao xuống mổ vào nhân trung tôi.
Tôi còn nhớ rất rõ trước khi tắt thở lìa đời mắt tôi vẫn mở trừng trừng, tay vẫn cầm chắc thanh gươm cắm mũi xuống đât. Những tưởng mình hiên ngang như cây tùng bách đội trời chết đứng trong im lặng, ai ngờ thực tế thân hèn vốn sợ đau, sợ chết tôi ra sức vùng vẫy, xúi cái miệng vô duyên của tôi không ngừng ú a ú ớ đến độ vợ tôi đang coi phim Đại Hàn ngoài phòng khách chạy ù vô lay tôi giựt mình thức dậy.
Trong vô thức phản ứng tự nhiên là tôi vội đưa tay sờ vào nhân trung tìm vết rắn cắn, chân thì run rẩy co lên. Mắt trái tôi sợ hãi tìm con mãng xà, trong khi mắt phải lại láo liêng tìm Zatoichi, hiệp sĩ mù nghe gió kiếm, một đối thủ vô cùng lợi hại của đời võ sĩ đạo trong cơn mộng mị của tôi.
Khi tỉnh mộng mới thấy chuyện đời đúng là sắc sắc không không như trong kinh Bát Nhã mà ngài Quán Tự Tại đã từng hành thâm. Đời của thế kỷ 21 dù không như là mơ nhưng mà thiệt tình không hiểu sao giấc mộng phù du ở thế kỷ 14 kia cứ làm mình ngẩn ngơ suốt cả buổi trời. Đến khi hoàn toàn thoát ra khỏi cõi phù vân, tôi mới hiểu ra giây khắc đẹp nhất trong đời thực, đó là buổi cơm chiều thơm mùi nấu nướng mà người vợ hiền đang sửa soạn ngoài kia.


PHAN NI TẤN

KHÚC DÃ TRÀNG - THƠ NGUYỄN AN BÌNH

 



KHÚC DÃ TRÀNG


Đêm trôi lời biển hẹn

Sao đợi giờ đổi ngôi

Trong thẳm sâu tiền kiếp 

Tiếng hát dã tràng thôi.


Sóng một đời lầm lũi

Vỗ mãi bờ cát đau

Giấu chân người ngã chúi

Một thời trốn tìm nhau.


Chiều sương mờ bóng núi 

Lạc loài cánh vạc bay

Giữa trần gian trần trụi

Bể dâu đầy trên vai.


Trăng soi lồng đáy nước

Lời kinh cầu vỡ tan

Mệt nhoài thân cá vược

Réo gọi lời ăn năn.


Chỉ thương con còng gió

Xe cát hoài biển Đông

Tội phận người bé nhỏ

Xác xơ giữa bụi hồng.


Một ngày ta trở lại

Tìm dấu chân dã tràng

Thấy gì trong đáy mắt

Một vực sầu ngổn ngang.




NGUYỄN AN BÌNH

2/10/2025

Thứ Hai, 6 tháng 10, 2025

NGẬM ĐOÁ VÔ THƯỜNG - THƠ HUỲNH TÂM HOÀI ,NHẠC A.I






NGẬM ĐOÁ VÔ THƯỜNG

Ngậm chi một đóa vô thường
Nhân gian vướng cõi lệ vương cuộc đời
Người sầu ngắt đọt chia phôi
Gỏ lòng phiền muộn suốt đời trần ai
Làm sao quên được những ngày
Dấu chân kỹ niệm đêm cày áo khuya
Trở mình thức giấc đêm mơ
Chiêm bao chộp mở mắt nhòa gối đêm.
Ngậm trầm luân bước vô tâm
Và đeo bên những nhọc nhằn gió sương
Ngồi nhìn bóng nhạt trong gương
Ngập ngừng nghe nắng vô thường hoàng hôn


HTH

NGƯỜI ĐI NHẶT BÓNG. - THƠ HUỲNH TÂM HOÀI ,NHẠC A.I