CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 29 tháng 4, 2020

RA ĐI ,TÌM VỀ - THƠ NGUYÊN LẠC










. RA ĐI, TÌM VỀ
.
Tang thương một thuở ba đào
Trùng dương cuồng nộ xác nào vùi sâu!
(Nguyên Lạc)
.
1. RA ĐI:
.
Đêm nay chợt nhớ con kính
Hai bờ dừa nước dòng tình xuôi êm
Hậu Thạnh đồng lúa êm đềm
Anh ra Đại Ngãi tìm em má hồng
Trường xưa còn nhớ hay không?
Phượng hồng. mắt biếc. tình nồng duyên quê
.
Tháng Tư dâu bể não nề!
Anh đi "cải tạo" em về quê xưa
Lưng còng. sáng nắng chiều mưa
Trên dòng kinh cũ sớm khuya tảo tần
.
Nuôi con ngấn lệ đợi chồng
Đợi bao năm nữa? Tù không có ngày!
Thôi anh. tha lỗi phận này!
Tội trời xin chịu bỏ người em đi!
.
Trời bày cay nghiệt lắm chi?
Biển khơi cuồng nộ xóa đi bóng hình!


.



.
2. TÌM VỀ:
.
Dã nhân trại thẳm rừng xanh
Về tìm. hụt hẫng. hư không một trời!
Vợ con mất dấu lâu rồi
Chỉ dòng kinh cũ hoa trôi tím màu!
.
Tìm người. thôi biết tìm đâu?
Gây chi bao cảnh đớn đau khốn cùng?
Biển dâu mất dấu tình chung
Sinh ly!
Tử biệt!
Trùng phùng kiếp nao?!
.
Tháng tư!
Lại Tháng Tư nào!
Vết thương thời cũ...
Làm sao hở người?!
.
NGUYÊN LẠC

Thứ Ba, 28 tháng 4, 2020

MỘT THỜI EM TÔI - THƠ NGUYÊN LẠC


Steven Nguyen
07:28 (3 giờ trước)
tới tôi

Gởi NM thêm 1 bài thơ, tùy nghi sử dụng. Chúc sức khỏe NL 4/27/2020
.....................................


CHUYỆN THÁNG TƯ QUÊ TÔI
.
(Gởi Trần Phù Thế - Hậu Thạnh, Đại Ngãi, Hậu Giang)
.

"Ai muốn chép công ta chép oán,
Công riêng ai đó oán ta chung" (Vô danh thị)
.
.




 MỘT THỜI EM TÔI

.

"Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi
Buôn bán không lời, chèo chống mỏi mê" (ca dao)

*
Nhánh lục bình trổ chùm bông tím biếc
Vướng bãi bùn khóc dòng xiết trôi xa!
Con thòi lòi trố mắt nhìn thương tiếc
Bỗng giật mình trái bần rụng chiều tà
*
Người về đâu lệ lưng tròng rưng rức
Bỏ lại sau bờ bến khói sương và...
Xuôi về đâu chiều bóng ngả bờ xa?
Buồn con nước bìm bịp kêu đôi tiếng!
.
Người năm cũ đâu còn áo lụa!
Trên dòng kinh bờ lở bờ bồi
Đôi mái chèo cùng đứa con côi
Vạt tóc khét lưng còng đời cô phụ!
.
Người năm cũ đâu còn cười nụ
Bên dòng đời khóc nỗi tàn phai!
Người "chinh phu" trên ngàn đẵn gỗ [*]
Ngày khổ sai lệ đổ đêm dài!
.
Ai gây chi oan khiên dâu bể?
Để em tôi cơ khổ phận người!
Để héo hon tuổi mộng đôi mươi
Trang đài cũ tả tơi cùng năm tháng!

*
Tháng Tư chi?
Nhân sinh đầy khổ nạn
Ký ức ơi!
Chứng tích đến khi nào?
Làm cách gì?
Biết làm sao?
Ai níu được mây trắng bay... bay...
Mãi...!
.........
[*] Trại "cải tạo"
Chém tre, đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân, hữu khổ phàn nàn cùng ai?!
(Ba năm trấn thủ lưu đồn - Khuyết danh)
.NGUYÊN LẠC

Thứ Hai, 27 tháng 4, 2020

CẬN TẾT - THƠ CHU VƯƠNG MIỆN


MAI LĨNH: Thơ CHU VƯƠNG MIỆN Ảnh TG CHU VƯƠNG MIỆN CẬN TẾT
chu vương miện
*
cuối năm cận Tết lại nằm đau vợ già đi chợ ở đâu đâu ? con trai nơi xa chưa về kịp
mỏi cả chân tay nhức cả đầu 
năm Dê thấy ảnh dê trên báo
chỉ thấy 4 bề chó sủa gâu
mèo sóc chạy qua rồi biến mất
qua hàng rào rồi lặn mất tiêu
bạn bè thân thiết chả còn ai ?
anh em kẻ bắc kẻ đông đoài
phương nam ta chỉ nằm chỏng gọng
đì đẹt pháo mừng đốt rát tai
Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư
trên non toàn 1 lũ bú dù
vượn trắng đen tay dài đua nhau nhẩy
dưới này Tết đả đến rồi ư ?
những vị thơ hay lên trời cả
nào Tản Đà Nguyễn Bính Hữu Loan
nào Trần Dần Phùng Quán Lê Đạt
giờ toàn vai cày cổ bừa lác lác xàm xàm
nhà văn nhà thơ tròn hơn hòn bi
thứ bằng thủy tinh thứ bằng chì 
sản xuất khác nơi nhưng cùng 1 dạng
đứng san sát nhau 1 lũ ù lỳ
đọc thơ câu đầu biết câu kết
đọc văn trang đầu biết hết trơn ?
thành phẩm cứ y sâm bảo lượng
đã ngọt rồi lại thên đường 
thế sự bây giờ dầu sôi chảo rang nằm đau chờ dê cụ kéo màn
năm mới không mèo thì lại chó
lại thêm niên nữa khó khăn chung ? CHU VƯƠNG MIỆN

Chủ Nhật, 26 tháng 4, 2020

CHÙM THƠ 6/8 - THƠ CHU VƯƠNG MIỆN








CHÙM THƠ 6/8

chu vương miện
 -
CẠN DÒNG 
chờ nhau mấy quãng đòng đòng
hồ dơ cả đáy toàn rong với bèo ?
danh hoa nhạt với dáng chiều
mây sa xuống thấp mây đìu hiu bay ?
chốn xưa ờ ở chốn này
thác cao ngấn nước từ đây cạn dòng
-
LÊN NON
giận người bỏ tỉnh lên non ?
ngồi chơi chốc lát dỗ cơn ngủ chiều
1 liều 3/7 cũng liều ?
nhớ người bỏ cả cái lều vải hoa
thôi thì gửi lại non xa
về xuôi mình lại với ta ta mình
khi không muốn nổi cơn khùng ?
-
EM
từ khi em bước theo chồng
lục đầu 6 ngả sông cùng em ơi ?
tím lòng nứa cắt làm đôi
bên trong nhỏ máu bên ngoài lạnh căm ?
duyên ta còi hụ tan tầm
tàu ra khỏi cảng Hải Phòng từ khuya
KinhThầy vắng ngắt đò đưa
Thủy Nguyên bên đó bãi chờ cuối kênh
đồi bông cội nớ bao lần
1 đời thục nữ quần hồng kiệu hoa
hữu tình dạ bạc cầm ca
1 bên sông nước trăng tà tà rơi
đáy sông cọc lãng quên người
dăm cành củi mục rác trôi lềnh bềnh
nơi này chân đã chồn chân ?
thì thôi dăm đoạn thơ thần cũng đau
từ khi em bước qua cầu
vườn sau trống trải sầu đâu rụng đầy
cuối trời sót phiến mây bay
mình ta 2 ngả chim bay 2 đường ?
-
TIẾC
cầm vàng mà lội qua sông
vàng rơi đứt ruột tay không ? không vàng ?
trời mưa ỡm ộp chão chàng
em đi để lại 1 gian 1 vườn ?
hoa cam nở giữa vườn cam
em chỉ qua đàng nắng quá ngồi chơi ?


CHU VƯƠNG MIỆN

Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2020

Giai Thoại văn Chương : THI HÀO LƯU VŨ TÍCH - ĐỖ CHIÊU ĐỨC


Chieu Duc
13:09, Th 5, 23 thg 4 (20 giờ trước)


Giai Thoại văn Chương :

        THI HÀO : LƯU VŨ TÍCH

                                 Inline image



         LƯU VŨ TÍCH 劉禹錫 (772-842), tự là Mộng Đắc, người đất Lạc Dương Hà Nam, tổ tiên từ Định Châu Hà Bắc di dời xuống miền nam. Ông là thi nhân nổi tiếng và tiêu biểu của đời Trung Đường, được đời sau xưng tụng là Thi Hào với các tính chất hào phóng trong thi ca, ngoài ra, ông còn nổi tiếng với các bài tản văn, như bài "Lậu Thất Minh 陋室銘" với các câu văn bất hủ như :
             
            Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh;     山不在高,有仙則名;
            Thủy bất tại thâm, hữu long tắc linh.   水不在深,有龍則靈。
            Tư thị lậu thất, duy ngô đức hinh...    斯是陋室,惟吾德馨...
Có nghĩa :
                Núi chẳng tại cao, có tiên thì nổi tiếng;
                Nước chẳng tại sâu, có rồng thì linh thiêng.
                Đây chỉ là căn nhà thô lậu, nhưng được thơm lên vì cái đức của ta...


                              Inline image
                                   Tượng LƯU VŨ TÍCH

        Năm Trinh Nguyên thứ chín (793) đời Đường Đức Tông, chàng thư sinh trẻ tuổi đẹp trai Lưu Vũ Tích vừa tròn 21 tuổi đã thi đậu Tiến Sĩ cùng khoa với Liễu Tông Nguyên cũng là một thi nhân nổi tiếng sau nầy. Ông còn đậu thêm khoa Bác học Hoằng từ, nên được phong chức Thái Tử Hiệu Thư, sau thăng Giám Sát Ngự Sử. Con đường hoạn lộ hanh thông đắc ý, ông còn mang một chí hướng cải cách chính trị cao xa, nên lại cùng với Liễu Tông Nguyên tham gia phong trào đổi mới của Vương Thúc Văn. Năm Trinh Nguyên thứ 21 (805), Đường Đức Tông chết, Đường Thuân Tông kế vị, phát động phong trào đổi mới, cải cách xã hội. Lưu Vũ Tích đã tỏ ra rất tích cực, lập được nhiều thành tích với tài hoa xuất chúng của ông.

        Đường Thuận Tông tức vị không lâu, trúng phong bệnh nặng đến không thể nói được. Hoạn quan chuyên quyền hợp với Tây Xuyên Tiết Độ Sứ Vi Cao, Kinh nam Tiết Độ Sứ Bùi Quân, bức Thuận Tông nhường ngôi cho Lý Thuần, tức Đường Hiến Tông. Nhóm Cải cách của Vương Thúc Văn bị giải thể. Vương bị người cầm đầu phe nhóm đối lập là Võ Nguyên Hành hại chết, cùng nhóm tám người đều bị biếm khỏi Trường An. Lưu Vũ Tích bị biếm làm Thứ Sử Liên Châu, giữa đường lại bị đổi thành Tư Mã Lãng Châu. Chính thời gian bị biếm nầy ông mới có thời gian để tiếp xúc và tìm hiểu phong tục tập quán của dân tình và đã viết nên những bài thơ nổi tiếng như bài "Hán Thọ Thành Xuân Vọng 漢壽城春望", nhất là bài "Trúc Chi Từ 竹枝詞" mang đầy tính dân ca như sau :

               楊柳青青江水平,    Dương liễu thanh thanh giang thủy bình,
               聞郎江上唱歌聲。    Văn Lang giang thượng xướng ca thanh.
               東邊日出西邊雨,    Đông biên nhật xuất tây biên vũ,
               道是無晴卻有晴。    Đạo thị vô tình khước hữu tình !
  Có nghĩa :
                         Inline image

                         Xanh xanh dương liễu ven sông,
                         Tiếng chàng lảnh lót khiến lòng xuyến xao.
                         Đông nắng chiếu, Tây mưa rào...
                         Bảo vô tình đấy, biết bao là tình !

        Bài thơ rất nên thơ với những câu hò giọng hát bên sông của đôi trai gái đương tơ, vừa xử dụng được từ đồng âm "TÌNH 晴 là Nắng ráo" và "TÌNH 情 là Tình yêu" với hai câu thơ cuối : Đông nắng chiếu, Tây mưa rào...Bảo là không có nắng nhưng có nắng, bảo là vô tình nhưng lại rất hữu tình !

      Năm Nguyên Hòa thứ chín (815), Lưu Vũ Tích cùng Liễu Tông Nguyên đều được triệu hồi Trường An chờ phục chức. Thấy cảnh bát nháo của chính sự lúc bấy giờ, nhân dạo chơi ở Huyền Đô Quán, một đạo quán nổi tiếng của các đạo sĩ ở kinh thành, ông đã làm bài "Nguyên Hòa Thập Niên Tự Lãng Châu Thừa Chiếu Chí Kinh Hí Tặng Khán Hoa Chư Quân Tử 元和十年自朗州承召至京戲贈看花諸君子". Có nghĩa : Năm Nguyên Hòa thứ mười phụng chiếu từ Lãng Châu về kinh thành, đùa tặng các bậc quân tử đi xem hoa. (Bài thơ nầy còn có tên đơn giản là "Huyền Đô Quán Đào Hoa 玄都觀桃花" là Hoa đào ở Huyền Đô Quán) như sau :

                  紫陌紅塵拂面來,   Tử mạch hồng trần phất diện lai,
                  無人不道看花回。   Vô nhân bất đạo khán hoa hồi.
                  玄都觀裏桃千樹,   Huyền Đô Quán lý đào thiên thọ,
                  盡是劉郎去後栽。   Tận thị Lưu Lang khứ hậu tài.
  Có nghĩa :
                  Ngổn ngang đường xá bụi nhòa,
                  Kháo nhau cùng đến ngắm hoa chốn này.
                  Huyền Đô ngàn cội đào khai,
                  Đều trồng từ lúc đi đày chàng Lưu.

                     Inline image

      Ý của Lưu là mĩa mai cái đám người quyền qúy mới, do a dua nịnh hót mà có được. Bọn người nầy đã vênh váo đi lại khắp đường phố Trường An làm ra vẻ thanh cao như những người đi ngắm hoa về. Nếu chàng Lưu ta còn ở đây thì chưa chắc bọn nầy đã hiện diện mà nghênh ngang đi lại. Ý của Lưu Vũ Tích có hơi trịch thượng và xem thường những người quyền thế mới nầy, nên chi chẳng bao lâu sau, ông lại bị biếm đi làm Thứ Sử Ba Châu.
      Sau nhờ Ngự Sử Trung Thừa Bùi Độ tâu với vua vì Lưu Vũ Tích còn mẹ già, nên được thuyên về là Thứ Sử Liên Châu. Thời gian này vì tâm trạng buồn khổ cực độ nên Lưu hay đi lại các chùa chiền và cùng nghiên cứu Phật pháp với các nhà sư. Năm Nguyên Hòa thứ 14, mẹ mất, phải về Lạc Dương thọ tang. Đường Mục Tông Trường Khánh nguyên niên (821) lại thuyên làm Thứ Sử Qùy Châu. Năm Trường Khánh thứ 4 đổi về làm Thứ Sử Hòa Châu. Mùa xuân năm Bảo lịch thứ 2 đời Đường Kính Tông (826) lại được triệu về Lạc Dương. Năm Đại Hòa thứ 2 đời Đường Văn Tông(828)Mười bốn năn sau, một lần nữa ghé thăm lại Huyền Đô Quán, lại làm bài "Tái Du Huyền Đô Quán 再游玄都觀" để châm biếm và cười cợt những kẻ quyền qúy đã hết  thời :

                   百畝庭中半是苔,   Bách mẫu đình trung bán thị đài,
                   桃花淨盡菜花開。   Đào hoa tịnh tận thái hoa khai.
                   種桃道士歸何處,   Chủng đào đạo sĩ quy hà xứ ?
                   前度劉郎今又來。   Tiền độ Lưu Lang kim hựu lai !
     Có nghĩa :
                   Trong sân nửa mẫu rêu nhòa,
                   Đào thì rụng sạch cải đà nở hoa.
                   Trồng đào đạo sĩ đâu ta ?
                   Chàng Lưu ngày trước lại qua chốn nầy !

                   Inline image

       Lúc bấy giờ, những phe mhóm đối lập đã tan rả, như hoa đào đã rụng hết. Người cầm đầu là Võ Nguyên Hành cũng đã chết, như đạo sĩ trồng đào đã bỏ đi. Lưu tự hào là mình vẫn còn có ngày phục chức trở lại, như Lưu Thần Nguyễn Triêu được trở lại Thiên Thai lần nữa vậy (Chàng Lưu ngày trước lại về đây!). Vì cùng là họ Lưu, nên Lưu Vũ Tích ví mình như là Lưu Thần đã từng sống nơi cảnh Thiên Thai ngày trước, với cuộc sống thần tiên thanh cao nhàn nhã, chứ không vướng bận lợi danh chạy theo những thị hiếu thấp hèn của  người đời như những kẻ tầm thường khác.
       
      Cũng trong năm đó, dưới sự tiến cử của Thừa Tướng Bùi Độ, Lưu Vũ Tích về triều nhậm chức Đông Bộ Thượng Thư Chủ Khách Lang Trung, kiêm Tập Hiền Điện Học Sĩ. Năm Đại Hòa thứ 3 (829) cải nhiệm Lễ Bộ Lang Trung, vẫn kiêm chức Tập Hiền Điện Học Sĩ. Đại Hòa thứ 5 (831), Bùi Độ bị bãi chức, Lưu Vũ Tích cũng bị đưa đi làm Thứ Sử Tô Châu. Đại Hòa thứ 8 chuyển qua Thứ Sử Nhữ Châu. Đại Hòa thứ 9 đổi về làm Thứ Sử Đồng Châu. Mùa thu Khai Thành nguyên niên (836), ông bị bệnh ở chân nên được cải nhiệm Thái Tử Tân Khách phân ty Đông Đô. Thời gian nầy ông hay cùng Bạch Cư Dị, Bùi Độ... xướng họa. Sau còn giữ thêm vài chức hàm như Kiểm Hiệu Lễ Bộ Thượng Thơ, Bí Thư Giám... Ông mất năm Hội Xương thứ 2 (842), thọ 71 tuổi.
      
       Lưu Vũ Tích một đời luôn cố gắng khắc phục mọi hoàn cảnh. Đang lúc quyền cao chức trọng bỗng sa cơ bị biếm đi xa, ông vẫn giữ được cái tâm lý ổn định, chấp nhận hiện tại là hạnh phúc, như đang trong tiết thu lạnh lẽo hắt hiu, ông cũng cố tìm ra vẻ đẹp của nó để thấy rằng cảnh thu tuy buồn nhưng cũng có những cái đẹp và nên thơ hơn cả mùa xuân nhiều. Ta hãy đọc bài THU TỪ 秋詞 của ông dưới đây sẽ rõ :

              自古逢秋悲寂寥,   Tự cổ phùng thu bi tịch liêu,
              我言秋日勝春朝。   Ngã ngôn thu nhật thắng xuân triêu.
              晴空一鶴排雲上,   Tình không nhất hạc bài vân thượng.
              便引詩情到碧霄。   Tiện dẫn thi tình đáo bích tiêu !
   Có nghĩa :
                    Từ xưa thu gợi lắm ưu sầu,
                    Ta bảo xuân thua, thu đẹp sao.
                    Hạc trắng một hàng lên trời thẳm,
                    Hồn thơ cũng vút tận mây cao ! 
   Lục bát :
                    Ngàn xưa người vẫn bi thu,
                    Riêng ta thu đẹp hơn màu xuân tươi.
                    Môt con hạc trắng vút trời,
                    Hồn thơ cũng vút ra ngoài mây xanh !

                  Inline image

       Hoạn lộ thăng trầm, trải qua nhiều tang thương biến đổi, chẳng những cảm khái cho quan trường chìm nổi của mình, Lưu Vũ Tích còn cảm khái cho nhân sinh ngắn ngủi, thịnh suy vô chừng, vinh hoa phú qúy rồi cũng đến lúc suy tàn như cụ Nguyễn Công Trứ nhà ta đã viết trong HÀN NHO PHONG VỊ PHÚ :"Giàu ai bằng Vương Khải Thạch Sùng, cũng có lúc tường xiêu ngói đổ". Cũng cùng một ý như thế mời đọc bài Ô Y HẠNG của Lưu Vũ Tích sau đây : 

             朱雀橋邊野草花,    Chu Tước kiều biên dã thảo hoa,
             烏衣巷口夕陽斜。    Ô Y Hạng khẩu tịch dương tà.
             舊時王謝堂前燕,    Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến,
             飛入尋常百姓家。    Phi nhập tầm thường bách tính gia !
  
        * Ô Y HẠNG 烏衣巷 : Ô là Màu đen, Y là Áo, Hạng là Con Hẽm. Ô Y Hạng là Con hẽm áo đen. Có tích như sau :
        Ô Y Hạng là một con hẽm của TP Nam Kinh nằm ở phía nam của sông Tần Hoài, con hẽm nầy có từ đời Tam Quốc, thuộc nước Đông Ngô, nơi độì Cấm quân Áo Đen trú đóng mà thành tên. (Một điều thú vị mà văn nhân thi sĩ không biết tới, đội Cấm quân Áo Đen chính là đội Thuỷ quân Người Nhái được huấn luyện bên bờ sông Tần Hoài và Trường Giang chuyên đục lủng thuyền của quân địch. Chiếu theo ngũ hành, Thuỷ thuộc màu Đen, nên đội Người Nhái nầy toàn mặc quân phục màu đen là vì thế !).
        Sau, vào đời Đông Tấn, là nơi ở của 2 danh gia vọng tộc Vương Đạo và Tạ An. Gia nhân, ngưòi ăn kẻ ở của 2 nhà nầy đều mặc đồ đen, ra vào nườm nượp trong con hẽm nầy, nên Ô Y Hạng càng nổi tiếng " Ô Y " hơn. Con em của 2 nhà nầy được gọi là " Ô Y Lang ", có nghĩa là : Các Chàng của hẽm Áo Đen  ( Ý chỉ là con em của hẽm nhà giàu, chớ chưa chắc là họ thích mặc màu đen đâu !). Nhưng đến đời Đường thì Ô Y Hạng bị bỏ phế, và cho đến hiện nay, thì ....Ô Y Hạng là khu tập trung sản xuất công nghệ phẩm của dân gian.

    CHU TƯỚC KIỀU  朱雀橋 : CHU là Màu đỏ, TƯỚC là Chim sẻ, KIỀU là Cầu. CHU TƯỚC KIỀU là Cây cầu bắt ngang sông Tần Hoài qua Thành phố Nam Kinh đưa đến Ô Y Hạng, giữa cầu có lầu canh được trang trí bằng 2 con chim sẻ bằng đồng là kiến trúc của Tạ An xây nên.

    DÃ THẢO HOA : DÃ 野 là Hoang dã. DÃ THẢO HOA là Hoa cỏ mọc một cách hoang dã, không được trồng trot, chăm sóc đàng hoàng.
         
                           Inline image
NGHĨA BÀI THƠ :

           Bên cầu Chu Tước ( lẽ ra rất phồn vinh tấp nập người qua kẻ lại, thì nay...)  cỏ hoang hoa dại phủ đầy, và ở đầu con hẽm Ô Y  ( không còn nườm nượp gia nhân ra vào như xưa, mà nay ...) chỉ thấy nắng chiều nghiêng nghiêng buồn bã. Những con én ngày xưa chít chiu ríu rít trên rường nhà cuả Vương Đạo và Tạ An, nay đã bay hết ra nhà của bá tánh thường dân rồi !

           Chim én là biểu tượng của mùa xuân, của ấm êm hạnh phúc. Theo tập tính thì chim én chỉ làm tổ trên những rường nhà có người ở, còn nhà bỏ hoang thì chim én cũng... bay luôn !

           Lưu Vũ Tích đã khéo dùng hình ảnh hoang dại cuả cỏ hoa, cái nghiêng nghiêng sắp tắt của nắng chiều, và sự vắng lặng trơ vơ không một bóng chim lai vãng để gợi nên sự tiêu điều hoang phế của các danh gia vọng tộc đã từng vang bóng một thời, nay thì ..." thời oanh liệt nay còn đâu !!!"

          Qủa là một bài thơ hoài cổ não lòng, làm ta chợt nhớ đến 4 câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan :

                        Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
                       Nền cũ lâu đài bóng tịch dương !  
                       Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
                       Nước còn cau mặt với tang thương !!!

         Cụ Nguyễn Du cũng đã mượn hình ảnh của chim én bỏ đi để tả cảnh suy sụp của gia đình Vương Viên Ngoại khi Kim Trọng trở lại vườn Thúy để tìm cô Kiều :

                      Xập xòe én liệng ngõ không,
                      Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày                 
                      Cách tường gai góc mọc đầy,
                      Đi về nầy những lối nầy năm xưa...

                       Inline image

2. DIỄN NÔM :

                              HẼM  Ô  Y  
                      Bên cầu Chu Tước cỏ hoa hoang,
                      Trước hẽm  Ô  Y  ánh nắng tàn.
                      Chim én trên rường Vương Tạ trước,
                      Nay đà bay hết đến dân gian !
    Lục bát :
                      Cỏ hoang hoa dại bên cầu,
                      Chiều nghiêng nắng xế thêm sầu Ô Y.
                      Én xưa cũng hết rù rì,
                      Bỏ nhà Vương Tạ bay đi dân thường !

Song thất lục bát :
                     Xót hoa dại bên cầu Chu Tước,
                     Hạng Ô Y lướt thướt nắng tà. 
                     Én nhà Vương Tạ lân la,
                     Đã bay hết đến vào nhà thường dân.   
                    

         Xin được kết thúc bài viết về THI HÀO Lưu Vũ Tích với bài thơ Ô Y HẠNG nổi tiếng về cảnh tang thương biến đổi đã nêu trên.

                                                   杜紹德
                                                 ĐỖ CHIÊU ĐỨC
     
      

     

Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2020

BIÊN GIỚI - THƠ CHU VƯƠNG MIỆN


Thuong Nguyen
Tệp đính kèm
07:53 (3 giờ trước)
tới tôi

thân gửi NHÃ MY
tuỳ nghi










BIÊN GIỚI

*

ngăn sông cách núi đường không khó
mà khó vì sợi chỉ cột chân voi
ta với người cũng chỉ thế mà thôi ?
chỉ dăm câu thơ đoạn trường dang dở
ai bảo mỗi giòng thơ là 1 vì sao nhỏ
rất li ti nhưng sáng cả muôn trùng
ta với người nước lã người dưng
chả biết dung nhan mùa thu hay hạ?
vườn đầy hoa hay chỉ vương toàn lá
người hữu duyên hay là kẻ vô duyên
ta mơ hồ mường tượng 1 thuyền quyên
trôi lơ đễnh theo thuyền độc mộc
chả nữ nhi đọc thơ buồn day dứt
thì hóa ra thơ kể 1 mối tình
âu cũng là bên thềm có hoa soan
rơi lả tả trong những ngày đoan ngọ
ta xa xuôi nghe đầu ngô mình sở
lại hao hao giống truyện liêu trai
cả quyển thơ là 1 tiếng thở dài
của đoạn tuyệt đoạn lòng cách trở
cả dòng đời bên ni bên nớ
đường thẳng boong mà phân cột phân dòng
chả lẽ tối mù miên viễn mùa đông ?
mở băng thơ sương mờ bay lãng đãng
cũng chỉ tiếc thôi ? đời ta gần chạng vạng

CHU VƯƠNG MIỆN


Thứ Năm, 23 tháng 4, 2020

VỀ CÂ U CHÚC MỪNG CÔ DÂ U CHÚ RỂ “SẮT CẦM HẢO HỢP” 瑟琴好合 – LA THỤY sưu tầm và biên tập

Phu Đoan
Tệp đính kèm
18:09 (45 phút trước)
tới Dao, Cadao, tôi, BAOTHANG_XUANXUYEN, vandanviet, ninh, Ngạc

Thân gửi quý bác bài cộng tác mới. Chúc quý bác vui khỏe!






Tác giả La Thụy



VỀ CÂ U CHÚC MỪNG CÔ DÂ U CHÚ RỂ “SẮT CẦM HẢO HỢP” 瑟琴好合 – La Thụy sưu tầm và biên tập


                
                  VĨNH KẾT ĐỒNG TÂM

Trong một lần ngồi ở một quán ăn (vừa mở cửa lại sau khi tổ chức đám cưới cho con họ), chợt thấy trên vách trang trí câu “Sắt cầm hảo hợp”, một người bạn của tôi buột miệng: “phải là SẮC cầm… mới đúng chứ”. Bạn ấy cho phải là “sắc”, trong từ “nhan sắc”. Có lẽ bạn ấy nghĩ rằng “SẮC cầm hảo hợp” có ý nghĩa tương tự với “tài sắc song toàn”. Tôi thử giải thích nhưng xem ra bạn ấy không đồng ý.

Hôm nay, khá rảnh nên tôi ghi lại ít dòng bàn qua về câu chúc tụng bằng chữ Hán (hoặc âm Hán Việt) này

 Bản dịch Chinh phụ ngâm khúc có câu:
 “Sắt cầm gượng gảy tiếng đàn,
Dây uyên kinh dứt phím loan ngại chùng”

Đoạn trường tân thanh có câu:  
“Ai ngờ lại họp một nhà,
Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm”

“Đem tình cầm sắt đổi ra cầm kì”

Truyện Hoa tiên có câu:
“Chưa cầm sắt cũng tao khang”



BÁCH NIÊN HẢO HỢP


Vậy SẮT CẦM HẢO HỢP có ý nghĩa thế nào ?

* Sắt, cầm là tên 2 loại đàn cổ của Trung Hoa ngày xưa
  - Sắt 瑟 : cây đờn sắt, xưa có 50 dây, sau sửa lại còn 25 dây.
  - Cầm 琴 : cây đờn cầm, xưa có 5 dây, sau thêm 2 dây thành 7 dây.
* Hảo hợp  
  - Hảo 好 : tốt đẹp.
  - Hợp 合 : hòa hợp.

“Sắt cầm hảo hợp” 瑟琴好合 là đàn sắt và đàn cầm hòa âm với nhau tốt đẹp, nghe rất êm tai. Ý nói đôi vợ chồng hòa hợp nhau.

Thường nghe nói: “Loan phụng hòa minh, sắt cầm hảo hợp”.
Nghĩa là:
Chim loan và chim phụng hòa tiếng hót,
Đàn sắt đàn cầm hợp âm, là chỉ đôi vợ chồng hòa hợp với nhau.

Đây là câu cầu chúc đôi vợ chồng mới cưới, mang ý nghĩa chúc đôi uyên ương hòa hợp trong cuộc sống lứa đôi như hai cây đàn Sắt và Cầm cùng nhau hợp tấu.

Trong thực tế, lời chúc tụng đôi tân nhân trong ngày cưới, câu “Sắt cầm hảo hợp” 瑟琴好合 đôi khi biến thể thành “sắt cầm hòa hợp” 瑟琴和 合 (hay “sắt cầm hòa hiệp”) 
   
Một số câu thường thấy trang trí trong đám cưới hoặc chúc tụng cô dâu chú rể:

- 瑟琴好合 Sắt cầm hảo hợp: nghĩa là quan hệ vợ chồng hoà hợp, ví như quan hệ chung hợp giữa hai loại đàn (đàn cầm và đàn sắt) trong một dàn nhạc.

- 鸞鳳和鳴  Loan phượng hòa minh: nghĩa là: Vợ chồng hoà thuận, thương yêu nhau ví như đôi chim phượng cùng hót.

- 百年偕老 Bách niên giai lão: chung sống hoà hợp trọn đời bên nhau.

- 白頭偕老 Bạch đầu giai lão: chung sống hòa hợp hạnh phúc bên nhau đến khi đầu bạc.

- 百年好合 Bách niên hảo hợp: tức trăm năm sống tốt bên nhau.

- 永結同心 Vĩnh kết đồng tâm: nghĩa là mãi mãi cùng chí hướng.

Chuỗi ngày dịch bệnh N.Covi19 đang diễn ra trong nỗi lo âu. Mình đem mấy câu chúc tụng cô dâu chú rể nhân ngày tân hôn ra bàn, để vơi đi sự trống vắng, buồn tênh…

                                        LA THỤY 


Thứ Tư, 22 tháng 4, 2020

QUA MÙA ƯỚC VỌNG - THƠ NHÃ MY, NHẠC PHAN NI TẤN









QUA MÙA ƯỚC VỌNG 
THƠ NHÃ MY
NHẠC PHAN NI TẤN
HÒA ÂM TRÀN NHÀN
CA SĨ CHÂU THÙY TRANG
VIDEO CLIP HUỲNH TÂM HOÀI



NM chân thành cảm ơn nhạc sĩ Phan Ni Tấn đã viết tặng một ca khúc hay .
Cùng cảm ơn Trần Nhàn , Châu Thùy Trang và anh Huỳnh Tâm Hoài đã kết hợp hòa âm , trình bày và làm video clip để bài hát được bay xa .

Thứ Ba, 21 tháng 4, 2020

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH : KHÚC - ĐỖ CHIÊU ĐỨC


Chieu Duc <chieuduc15@yahoo.com> 15:05 17 tháng 4, 2020




THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH : KHÚC
                                      
                                        
                               Inline image         
                                      
                                      Khúc đâu Hán Sở chiến trường,
                                 Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.
                                      Khúc đâu Tư Mã phượng cầu,
                                 Nghe ra như oán như sầu phải chăng ?
                                      Kê Khang nầy khúc Quảng lăng,
                                 Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân.
                                      Quá quan nầy khúc Chiêu Quân,
                                 Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.

         Đó là những KHÚC mà Thúy Kiều đã đàn cho Kim Trọng nghe trong buổi đầu gặp gỡ. KHÚC 曲 là từ Hán Việt, Hình dung từ có nghĩa là Cong Queo, như câu :"Nhập giang tùy KHÚC 入江隨曲". Có nghĩa : Đi vào con sông nào thì phải nương theo đường cong uốn khúc của dòng sông đó. Nhưng nếu KHÚC là Danh từ thì có nghĩa là : Một điệu hát, một khúc hát, một bài ca, một bản đàn ...  như trong đoạn thơ được trích ở trên. Ta sẽ lần lượt tìm hiểu ý nghĩa của các KHÚC trên trong văn học cổ sau đây.

      * KHÚC HÁN SỞ CHIẾN TRƯỜNG : Là HÁN SỞ PHÂN TRANH KHÚC 楚漢紛爭曲. Đây là một trong mười khúc đàn tỳ bà nổi tiếng của cổ Trung Hoa, còn có tên là "Thập Diẹn Mai Phục 十面埋伏". Thường dùng để độc tấu, tiếng nhạc dồn dập mạnh mẽ, âm thanh rổn rảng chấn động lòng người, tựa như khi quân của Hạng Võ Sở Bá Vương bị quân của Hán Lưu Bang vây ở Cai Hạ quyết vùng vẫy để bức phá vòng vây trong vô vọng. Bản đàn có nghê thuật phối hợp âm thanh cao độ, là một tuyệt phẩm của cổ nhạc phủ, đòi hỏi người đàn phải có kỹ thuật đàn giỏi như Thúy Kiều để thể hiện được các âm thanh :

                          Nghe ra tiếng SẮT tiếng VÀNG chen nhau !

                               Inline image

       * KHÚC TƯ MÃ PHƯỢNG CẦU : Là khúc PHƯỢNG CẦU KỲ HOÀNG 鳳求其凰 (thường được gọi gọn là khúc Phượng Cầu Hoàng) của Tư Mã Tương Như đời Hán theo tích sau đây :

       Theo sách Sử Ký, Tư Mã Tương Như là tài tử nổi tiếng của đời Hán, tự là Trường Khanh, người đất Thành Đô (Thủ phủ của tỉnh Tứ Xuyên ngày nay) Ở lộ Cầm Đài. Khi đến đất Lâm Cùng , nhờ có người bạn là Tri Huyện Vương Cát tiến cử, nên được nhà cự phú Trác Vương Tôn ở địa phương mời đến nhà khoản đãi. Trong bữa tiệc khách yêu cầu đàn một khúc, Tương Như biết vương tôn có cô con gái mới mười sáu tuổi rất đẹp, lại vừa mới góa chồng là Trác Văn Quân, bèn giở cây lục ỷ cầm ra đờn hai khúc trong bài Phượng Cầu Hoàng như sau :

              鳳兮鳳兮歸故鄉,    Phượng hề phượng hề quy cố hương, 
              遨遊四海求其凰...   Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng ...
              有豔淑女守蘭房,   Hữu diễm thục nữ thủ lan phòng,
              室邇人遐毒我腸。   Thất nhĩ nhân hà độc ngã trường.
              何緣交頸為鴛鴦...   Hà duyên giao cảnh vị uyên ương ...

Có nghĩa :
              Về thôi phượng hỡi, phượng hề !
              CẦU HOÀNG tứ hải bốn bề ngao du.
              Có nàng thục nữ ôn nhu,
              Gần bên mà ngỡ như từ cõi xa.
              Uyên ương sao được một nhà ?   

              Inline image

      Tư Mã Tương Như nghe trong rèm ở phòng bên có tiếng thở dài nhè nhẹ, biết là Trác Văn Quân đang nghe đàn, bèn đàn tiếp khúc thứ hai là :

              鳳兮鳳兮從凰棲,    Phượng hề phượng hề tòng hoàng thê,
              得托孳尾永為妃。    Đắc thác tư vĩ vĩnh vi phi.
              交情通體心和諧,    Giao tình thông thể tâm hòa hài,
              中夜相從知者誰?    Trung dạ tương tòng tri giả thùy ?
              雙翼俱起翻高飛,    Song dực câu khởi phiên cao phi,
              無感我思使余悲。    Vô cảm ngã tư sử dư bi.
Có nghĩa :
              Theo hoàng phượng hỡi, phượng hề,
              Theo nhau mãi mãi đi về một phương.
              Giao tình lòng những vấn vương,
              Giữa đêm theo gót người thương bao ngày.
              Chắp đôi cánh phượng cao bay,
              Lòng ta buồn nhớ ai hay chăng là ?!

         Khúc ca vừa tỏ lòng ái mộ Trác văn Quân, vừa "xúi giục" nàng "giữa đêm theo gót..." nên, nửa đêm hôm ấy, Trác Văn Quân bỏ nhà trốn theo Tư Mã Tương Như về Thành Đô sinh sống... Tiếng đàn Thúy Kiều đã thể hiện được nỗi lòng của Tư Mã Tương Như để đánh động lòng yêu mến của nàng Trác Văn Quân nhẹ dạ :

                                 Nghe ra như oán như sầu phải chăng ?

      * KÊ KHANG nầy KHÚC QUẢNG LĂNG : Gọi cho đúng tên là Khúc Quảng Lăng Tán 廣陵散 của Kê Khang 稽康 đời Tấn. 
       Theo ghi chép trong Tấn Thư 晉書 : Kê Khang 稽康, một trong Trúc Lâm Thất Hiền, lúc đang du ngoạn ở Lạc Tây, được một cao nhân về cầm phổ tặng cho khúc Quảng Lăng Tán. Nhưng theo Thái Bình Quảng Ký 太平廣記 đời Đường thì truyện có vẻ truyền kỳ hơn : Kê Khang rất giỏi về thanh nhạc. Một hôm, trọ ở Nguyệt Hoa Đình, đêm không ngủ được, ngồi gãy đàn trong đình. Tiếng đàn cầm du dương u nhã đánh động một âm hồn nghệ nhân thiên cổ hiện lên truyền thụ cho Kê Khang khúc Quảng Lăng Tán với một ước hẹn là "Không được truyền thụ khúc nhạc nầy lại cho người khác!". Công nguyên năm 263, vì chống lại chủ trương của chúa Tây Tấn là Tư Mã Chiêu nên bị xử tử. Trước khi chết Kê Khang đã than rằng :"Viên Hiếu Nê luôn muốn học khúc đàn nầy của ta, nhưng vì lời hứa ta không thể dạy được, khúc nhạc hay này đành phải thất truyền rồi !". Tương truyền, tiếng đàn thánh thót như nước chảy mây trôi giống như Thúy Kiều đã thể hiện :

                                Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân !
       
                               Inline image

     * KHÚC CHIÊU QUÂN : Là Khúc Chiêu Quân Xuất Tái 昭君出塞曲.

        VƯƠNG CHIÊU QUÂN 王昭君 (Năm 51-15) vốn tên là Tường 嬙, tự là Chiêu Quân 昭君. Người Nam Quận đời Tây Hán (tỉnh Hồ Bắc hiện nay), là cung nhân trong cung Hán Nguyên Đế, giỏi cả cầm kỳ thi họa, nhưng vì không biết đút lót với họa sư là Mao Diên Thọ, nên tranh vẽ của nàng không được trình lên nhà vua. Đến khi Thiền Vu đất Hồ (Người Hồ gọi vua là Thiền Vu 單于) đến cầu thân để giao hảo. Vương Chiêu Quân đã dâng sớ tình nguyện hòa thân gả cho chúa Hồ để giúp cho bá tánh ở vùng biên cương hai nước tránh khỏi cảnh binh đao loạn lạc (Đó là tích của thành ngữ Chiêu Quân Cống Hồ 昭君貢胡). Đến ngày đưa tiễn, Hán Nguyên Đế mới biết được Chiêu Quân là cung nữ tài sắc vẹn toàn thì đã muộn rồi. Trên đường ra quan ải của vùng biên tái, Vương Chiêu Quân đã gãy đàn tì bà để gởi gắm tâm sự nhớ nhà, nhớ cha mẹ, nhớ anh em, nhớ Hán đế lúc đưa tiễn... Đó chính là bản đàn "Chiêu Quân Xuất Tái 昭君出塞" sầu thương và oán hận cao ngút trời làm cho các con chim nhạn đang bay trên bầu trời Nhạn Môn Quan đều ngẩn ngơ rơi cả xuống bải cát ( ta có thành ngữ Bình Sa Lạc Nhạn 平沙落雁). Cũng do tích nầy Vương Chiêu Quân được xếp là Mỹ Nhân Lạc Nhạn 落雁, chỉ đứng sau người đẹp Tây Thi là Trầm Ngư 沉魚 mà thôi, và cùng là một trong Tứ Đại Mỹ Nhân cổ Trung Hoa.
      Khúc đàn của Vương Chiêu Quân đã được cụ Nguyễn Du cho Thúy Kiều thể hiện lại bằng hai câu :

                               Quá quan nầy KHÚC CHIÊU QUÂN,
                             Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.

                              Inline image

        Kịp đến khi Kim Kiều tái hợp, sau khi "Thêm nến giá nối hương bình, cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan", thì Kim Trọng đã "Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa", và Thúy Kiều thì lại "Nễ lòng người cũ vâng lời một phen", nên ta lại được nghe các KHÚC sau đây :

                           ... KHÚC đâu đầm ấm dương hòa,
                               Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh ?
                               KHÚC đâu êm ái xuân tình,
                          Ấy hồn Thục Đế hay mình Đỗ Quyên ?
                               Trong sao châu rỏ duềnh quyên,
                           Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đong !...

       * HỒ ĐIỆP hay TRANG SINH : Hồ Điệp 蝴蝶 là Bươm bướm; Trang Sinh 莊生 là Trang Chu, Trang Tử.
        Theo Tề Vật Luận trong sách Trang Tử 莊子•齊物論 có ghi lại câu chuyện sau đây : Trang Chu hay nằm mơ thấy mình hóa ra bươm bướm, tiêu dao tự tại bay múa dạo chơi khắp nơi. Khi tỉnh lại rồi thì còn ngờ ngợ tự hỏi rằng:" Không biết là Trang Chu ta hóa ra bươm bướm, hay là bướm bướm đã hóa ra Trang Chu ta đây ?!" Có nghĩa là mộng cũng như thực mà thực cũng như mộng. Ở đây mượn để chỉ tiếng đàn của Thúy Kiều mơ mơ hồ hồ hư hư thực thực tiêu dao bay bổng như giấc bướm của Trang Chu.

                           Inline image

      * THỤC ĐẾ hóa ĐỖ QUYÊN : Thục Đế 蜀帝 là Vua nước Thục; còn Đỗ Quyên 杜鵑 là Chim Đỗ Quyên, ta gọi là con Cuốc hay con Quấc. Theo tích sau đây :
         Theo sách Sưu Thần Ký thì Đỗ Vũ là tên một vị vua nước Thục (tỉnh Tứ Xuyên ngày nay) thời Chiến Quốc, ông có tính hoang dâm vô độ nên dưới thời ông  làm vua chính sự nước Thục không ổn định. Đỗ Vũ nhân nhà Chu suy yếu bèn tự xưng đế hiệu là Vọng Đế (望帝), vì là vua nước Thục, nên còn gọi là Thục Đế. Ông từng thông dâm với phu nhân của vị tướng quốc lúc bấy giờ là Biết Linh (鳖灵), sau chuyện bị lộ, nên Đỗ Vũ thẹn quá bèn nhường ngôi cho vị tướng quốc này, và vì trước đó Biết Linh cũng đã có công trị thủy, cứu nước Thục khỏi cảnh lũ lục thiên tai. Tuy nhiên sau khi nắm trong tay quyền lực thì Biết Linh ngược đãi Đỗ Vũ, cấp lương thực không đầy đủ khiến ông phải hậm hực mà bỏ nước ra đi, sau khi ông chết linh hồn hóa thành một loài chim suốt ngày chỉ kêu "quốc, quốc" (cuốc cuốc). Người ta bảo đấy là Thục Đế nhớ nước nên mới kêu như vậy, và dân gian đặt tên cho giống chim đó là chim Cuốc.
         Ví tiếng đàn oán than như nỗi lòng của Thục Đế mất nước gởi gắm tâm sự của mình cho con chim Đổ Quyên kêu ra rả suốt những đêm hè.

      * CHÂU RỎ DUỀNH QUYÊN : là  tích của Giao Nhân nhỏ lệ thành châu như sau :
         Theo Thần Tiên Truyện, Giao Nhân 鮫人 (người cá) trong đêm trăng sáng ngước nhìn vào bờ mà rơi hai hàng lệ, và mỗi giọt nước mắt đều là những hạt châu rơi xuống biển xanh.         
         Ví tiếng đàn thánh thót như những hạt châu rơi.

      * NGỌC LAM ĐIỀN : là Lam Điền Ngọc 籃田玉, những viên ngọc được nuôi trồng ở xứ Lam Điền.  
         Theo tích xưa ở hụyên Lam Điền chuyên nuôi trồng và sản xuất ngọc. Vì tránh sự tranh giành của sai nha và quan lại địa phương, thần tiên đã mách bảo cho dân nghèo là nơi nào có khói bốc hơi nhè nhẹ trong núi là nơi đó có thể trồng ngọc được. 
         Ví tiếng đàn trong trẻo và ấm áp như những viên ngọc ở xứ Lam Điền vừa mới đong thành.

                       Inline image

         Thực ra những câu thơ trên đây, cụ Nguyễn Du đã lấy ý trong bài thơ Cẩm Sắt (Đàn Gấm) của Lý Thương Ẩn đời Đường đã tả tiếng đàn như sau :

                莊生曉夢迷蝴蝶,      Trang Sinh hiểu mộng mê hồ điệp
                蜀帝春心托杜鵑.      Thục Đế xuân tâm thác đổ quyên.
                滄海月明珠有淚,      Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ,
                藍田日暖玉生煙.      Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên. 
Có nghĩa :
                   Trang Chu tỉnh mộng còn ngờ bướm,
                   Thục Đế lòng xuân cuốc gọi trời.
                   Trăng sáng biển xanh châu rướm lệ,
                   Lam Điền nắng ấm ngọc bay hơi.
          
      Một KHÚC khác nổi tiếng hơn trong văn học cổ, đó là KHÚC TỲ BÀ, vì Tì Bà là loại đàn được du nhập từ xứ Hồ, nên còn được gọi là Hồ Cầm mà Thúy Kiều trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du cũng rất giỏi về ngón đàn nầy :

                      Nghề riêng ăn đứt HỒ CẦM một chương.

     Tì Bà Khúc có xuất xứ từ bài Tì Bà Phú của Phó Huyền đời Tây Tấn : Công chúa Ô Tôn của nhà Hán bị đem gả cho chúa Côn Di. Trên đường đi ra quan ải, vì sợ công chúa buồn phiền, nên những nhạc công đi theo dùng cầm, tranh, trúc, sở cùng hòa tấu với tiếng tì bà trên ngựa để làm vui lòng công chúa, nhưng tiếng đàn vẫn mang âm điệu thảm thiết bi thương.

     Đọc tích trên làm cho ta nhớ tới Huyền Trân Công Chúa con của vua Trần Nhân Tông cũng bị gả cho chúa Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô và châu Lý, mà nhà thơ Nguyễn Văn Cổn thời Tiền Chiến đã viết trong bài thơ "Nước Tôi" là :

                            Bùi ngùi nhớ bóng Huyền Trân,
                         Hai châu Ô Lý đổi thân nghìn vàng.

     Trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập, nhà vua Lê Thánh Tông cũng có nhắc tới KHÚC TÌ BÀ :

                           Tuyết lọt mấy tầng chăn phỉ thuý,
                            Sầu tuôn đòi đoạn KHÚC TÌ BÀ. 

                  Inline image

      Trong Cung Oán Ngâm Khúc  của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, ta còn bắt gặp :                       

                        Vườn Tây Uyển KHÚC Trùng THANH DẠ. 
                        Gác Lâm Xuân điệu ngả Đình Hoa .

          * Khúc Trùng Thanh Dạ là THANH DẠ KHÚC 清夜曲 và KHÚC HẬU ĐÌNH HOA 後庭花曲 đều là hai khúc hát chỉ lo vui chơi mà mất nước. 
            Thanh Dạ Khúc còn gọi là Thanh Dạ Du 清夜遊 là tên một khúc hát mà các cung nhân thường hát cho vua Tùy Dạng Đế trong vườn Tây Uyển. Trong Sơ Kính Tân Trang của Chiêu Lỳ Phạm Thái có câu :
           
                        Đoàn sĩ tử nhởn nhơ dưới nguyệt,
                        KHÚC THANH DU nhạc thét châu cung.

       Còn HẬU ĐÌNH HOA 後庭花 là tên của khúc hát mà Trần Hậu Chủ sắp mất nước, quân giặc đã đánh tới cửa cung rồi mà Trần Hậu Chủ cùng đám cung nhân vẫn còn ăn chơi để hát cho hết khúc Hậu Đình Hoa. Nên khúc hát này là khúc hát mất nước, khúc hát vong quốc như nhà thơ Đỗ Mục đời Đường đã cảm khái :

                   商女不知亡國恨,   Thương nữ bất tri vong quốc hận,
                   隔江猶唱後庭花.    Cách giang do xướng HẬU ĐÌNH HOA.
Có nghĩa :
                   Kỹ nữ biết đâu hờn mất nước,
                   Cách sông còn hát "Hậu Đình Hoa" !

       Còn THƯƠNG LANG KHÚC 滄浪曲 là tên một bài hát của người nước Sở, trong đó có câu: "Thương Lang chi thuỷ thanh hề, khả dĩ trạc ngã anh. Thương Lang chi thuỷ trọc hề, khả dĩ trạc ngã túc 滄浪之水清兮, 可以濯我纓. 滄浪之水濁兮, 可以濯我足". Có nghĩa : Nước sông Thương Lang trong thì ta giặt dải mũ của ta, nước sông Thương Lang đục thì ta rửa chân của ta. Ý nói phải biết tùy nghi mà hành động, kiến cơ nhi tác. Khúc hát nầy nói lên ý chí thanh cao của tác giả dù trong dù đục vẫn luôn luôn gắng bó với dòng sông Thương Lang.
       Trong bài "Tụng Tây Hồ Phú" của Nguyễn Huy Lượng có câu :

                             Con thuyền trúc lân la trước gió,
                    KHÚC THƯƠNG LANG đưa gánh củi chàng Chu.

                   Inline image                           
                            KHÚC THƯƠNG LANG đưa gánh củi chàng Chu.

           Ngoài ra, ta còn có KHÚC NGHÊ THƯỜNG, là Nghê Thường Vũ Y Khúc 霓裳羽衣曲, là khúc nhạc trổi lên để cho các cung nữ ăn vận như tiên nga trên trời với chiếc áo có gắn lông chim như những cánh thiên thần, gọi là Nghê Thường Vũ Y Vũ 霓裳羽衣舞. Khúc nhạc nầy có xuất xứ như sau :

          Theo Dương Thái Chân ngoại truyện 楊太真外傳. Đường Huyền Tông lên núi Tam Hương Dịch, trông thấy núi tiên Nhi Nữ Sơn, xúc động tâm tình, đêm lại mơ thấy du nguyệt điện nghe được khúc nhạc du dương trên cung trăng. Năm Thiên Bảo thứ 13 (754), kết hợp khúc nhạc trong mơ cùng với khúc nhạc Bà La Môn do Hà Tây Tiết Độ Sứ Dương Kính Thuật tấn hiến từ Ấn Độ mà soạn thành khúc Nghê Thường Vũ Y. Đường Minh Hoàng rất đắc ý với khúc nhạc nầy, cho đến năm Khai Nguyên 28, khi Dương Ngọc Hoàn tấn cung, rất giỏi ca múa, mới soạn thành Nghê Thường Vũ Y Vũ cho nàng vừa múa vừa hát khi mới vừa vào đến Hoa Thanh Cung, và cũng vì ca múa giỏi được vua yêu qúy mà được phong Qúy Phi liền sau đó.

          Trong bài thơ "Tiên Nữ Nhớ Lưu Nguyễn" trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập, ông vua Lê Thánh Tông đã hạ hai câu mở là :
                     
                            Chẳng còn nhớ đến KHÚC NGHÊ THƯỜNG,
                            Một phút chiêm bao một phút thương...

      Còn trong Tứ Thời Khúc Vịnh - đoạn Mùa Thu, thì Hoàng Sĩ Khải lại gọi là KHÚC NGHÊ :

                           Gió cung thiềm mảy hơi thoảng đến,
                           Lựa KHÚC NGHÊ uyển chuyển Hằng Nga.

                 Inline image
                 Inline image
                                       Nghê Thường Vũ Y Vũ

          Xin được kết thúc các KHÚC ở đây. Hẹn bài viết tới !


                                ĐỖ CHIÊU ĐỨC