CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 30 tháng 12, 2022

NỒNG NÀN MÀU LÁ GIÊNG HAI - THƠ NGUYỄN AN BÌNH

 




NỒNG NÀN MÀU LÁ GIÊNG HAI


Lắng nghe hương dậy đất trời

Chút lạ lẫm giữa đứng ngồi ban mai

Ven đường hương cỏ ngất ngây

Lá phơn phớt nắng sáng nay ửng hồng.

Ơ kìa chiếc lá trầu không

Chờ giêng hai đến đèo bồng hương đưa

Nghe con chim ngói gọi mùa

Suối nguồn hò hẹn xanh bờ cỏ cây.

Tớc mây em thả vai gầy

Ai vừa sang bến trầu cay vợ chồng

Mưa xuân lảng đảng trổ đòng

Tôi hôn vạt nắng ngỡ hồng môi em.

Trong ngần sương rụng qua đêm

Áo hoa lất phất bên thềm cúc mai

Nồng nàn màu lá giêng hai

Trâm cài ý lược thương hoài sắc xuân.


19/11/2022

NGUYỄN AN BÌNH


TRỜI ĐÃ GIÊNG RỒI, EM BIẾT KHÔNG - THƠ TRẦN HOÀI THƯ




 

TRỜI ĐÃ GIÊNG RỒI , EM BIẾT KHÔNG
𝐂𝐡ỉ 𝐜ò𝐧 𝐯à𝐢 tuần nữ𝐚 𝐥à 𝐓ế𝐭. Đố𝐢 𝐯ớ𝐢 𝐤ẻ 𝐱𝐚 𝐡ươ𝐧𝐠, 𝐥ú𝐜 𝐧à𝐲 𝐥à 𝐧𝐡ữ𝐧𝐠 𝐧ỗ𝐢 𝐧𝐡ớ 𝐧𝐡𝐮𝐧𝐠 𝐝𝐚 𝐝𝐢ế𝐭… 𝐂à𝐧𝐠 𝐝𝐚 𝐝𝐢ế𝐭 𝐤𝐡𝐢 𝐬á𝐧𝐠 𝐧𝐚𝐲, 𝐧𝐠𝐨à𝐢 𝐤𝐢𝐚, 𝐭𝐮𝐲ế𝐭 𝐭𝐫ắ𝐧𝐠 𝐩𝐡ủ 𝐧𝐠ậ𝐩….:


Tôi ở bên ni trời viễn biệt
Em xa. Xa ngái tận phương trời
Ở đây tuyết trắng giăng mờ ngõ
Tháng giêng em và tôi hai nơi

Nơi quê nhà trời đã vào xuân
Em nơi nào, Sài Gòn, Qui Nhơn?
Tôi qua Nữu Ước trời không độ
Khuấy cốc cà phê đặc nỗi buồn

Em nơi nào, nắng có vàng không?
Cho tôi về thăm lại Ban Đông
Những đồi hoa tím, đồi sim tím
Tím theo từng cây số nhớ nhung

Em nơi nào, chim én về không?
Trời quê hương lúa trổ đòng đòng
Cho tôi nhớ lại mùa xuân cũ
Em đã theo đời tôi ruổi rong

Em nơi nào, hương sứ còn vương?
Tôi có người yêu đẹp lạ thường
Đêm tối miền cao trời thấp lại
Muôn sao trời cũng chụm yêu thương

Em nơi nào, rừng có lao xao?
Trời mù sương, bóng em gầy hao
Tôi đi để lại người em nhỏ
Giữa rừng hoa quì vàng chiêm bao

Xin em hãy lại căn nhà cũ
Giúp mẹ tôi lau màng nhện giăng
Cố thử xem giùm trong một xó
Đôi giày há mõm thuở thanh xuân

Xem thử trong giày còn hạt cát
Của những ngày tôi lội thăm em
Xem thử đế giày còn bẹt gót
Của những ngày gian khổ lênh đênh

Em nơi nào, ở nơi nào nhỉ
Trời đã giêng rồi, em biết không
Tôi qua Nữu Ước ngày không độ
Gọi cốc cà phê, lạnh nỗi lòng

Lạnh thêm nỗi nhớ trùng trùng
Tìm đâu hương cũ giữa dòng viễn khơi


TRẦN HOÀI THƯ

Thứ Năm, 29 tháng 12, 2022

CA HUẾ VÀ NHẠC CUNG ĐÌNH. - PHAN NI TẤN

 



                 CA HUẾ VÀ NHẠC CUNG ĐÌNH


    Ông anh họ Hồ tên Đắc Duệ bên ngoại tôi từng là nhạc công của dàn nhạc cung đình Huế thời Bảo Đại. Thấy tôi có năng khiếu về âm nhạc, ngoài việc dạy tôi đàn nguyệt và ca Huế ông còn hứa hẹn sẽ giới thiệu tôi vào nhóm nhạc cung đình Huế một ngày không xa. 

    Cũng vì lời hứa sôi nổi như rứa mà suốt ngày tôi cứ ôm lẽ đời có câu "mộng tưởng thành chân". Điều này khiến tôi lúc nào cũng tưởng ánh nắng tràn ngập trong lòng sẽ mang đến nhiều may mắn cho ước mơ tôi. Nhưng đời không như là mơ, ước mơ của tôi không thành sự thật.  

     Từ ngày vị vua thứ 13, vị vua cuối cùng của triều nhà Nguyễn thoái vị, nhạc cung đình Huế chấm dứt kéo luôn giấc mộng cung đình của tôi tan tành theo mây khói. Có điều an ủi là dù ước mơ tan vỡ, tôi cũng đã học được nhiều điều hữu ích từ ông anh họ, nhất là một số tài liệu chép tay của ông về ca Huế và nhạc cung đình ông cuộn trong bao nylon đưa cho tôi về nhà tự học luyện giọng và học hỏi thêm. Nay ông anh họ mất đã lâu, nhớ ông tôi ư hử vài câu ca Huế và tóm tắt ôn lại bài học vỡ lòng năm xưa.

    1. Nhạc Cung Đình.

    Trong các thể loại nhạc cổ truyền Việt Nam, nhạc cung đình Huế là nhạc diễn xướng bởi trên 100 nghệ nhân vào những ngày lễ hội cho vua chúa và các đại thần, hoặc các lễ hội trang nghiêm khác. Nhạc cung đình đều phát nguồn từ trong các quy luật của nhiều nghi thức cung đình tại các làng xã người Việt từ nhiều thế kỷ trước. 

    Nhạc cung đình Huế có từ thời nhà Lý thế kỷ XI là một thể loại nhạc căn cứ theo quan niệm triết lý Nho giáo, cũng là biểu tượng của vương quyền.  Nhưng các nghệ thuật ca múa thời đó, ngoài ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và Chiêm Thành còn chịu ảnh hưởng của các loại âm nhạc dân gian.

    Nhạc cung đình Huế đầy tính trang trọng của Huế với 7 thể loại nhạc như Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ tự nhạc, Đại triều nhạc, Thường triều nhạc, Yến nhạc, Cung trung nhạc, quy tụ rất nhiều nghệ nhân có khả năng sử dụng nhiều loại nhạc khí gồm các bộ gõ, dây và hơi, như trống bản, đàn tỳ bà, đàn nhị, đàn nguyệt, đàn tranh, sáo, khánh, chuông, mõ, phách (sênh tiền) v.v…

    Thời kỳ vàng son của âm nhạc cung đình là thời nhà Nguyễn khởi từ Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Đến thời Pháp thuộc, các vua nhà Nguyễn mất hết quyền bính và nhuệ khí khiến đời sống cung đình đâm ra tẻ nhạt, âm nhạc cung đình ngày càng suy giảm. Đời vua Thành Thái lập thêm một đội nghệ nhân thiếu niên, song tất cả đều hoạt động cầm chừng.

    Năm 1942 là năm cuối cùng triều nhà Nguyễn, vua Bảo Đại cử hành lễ Tế Nam Giao, cũng là lần cuối cùng nhạc cung đình Huế được trình diễn trọng thể trước công chúng. 

    Tháng 8 năm 1945, trên Ngọ Môn, hoàng đế cuối cùng của triều nhà Nguyễn thoái vị. Nhạc cung đình Huế tan rã. Tuy nhiên, thân mẫu của vua Bảo Đại là đức Từ Cung đã đứng ra bảo trợ và duy trì đội nhạc cung đình tồn tại cho đến năm 1975.

    Tài liệu chép tay của ông anh họ chỉ nói đến đời vua Bảo Đại là hết, không thấy đề cập tới tập đoàn UNESCO sau này công nhận Nhạc Cung Đình Huế là Di Sản Nghệ Thuật của nhân loại.

    Nhân nói đến nhạc khí của nhạc cung đình Huế tôi lại có một kỷ niệm khó quên. Tuy tôi có chút năng khiếu về âm nhạc nhưng thuở mới nhập môn kỹ thuật của đàn nguyệt là khảy, rung, nhấn, vuốt, vỗ, vê (luân chỉ) tôi cứ lúng ta lúng túng, lọng ca lọng cọng, vụng về, cứng ngắc làm tiếng đàn cứ ọt ẹt, rên rỉ, ngòng ngọng như ai bóp cổ.

    Rứa mà khi tiếng đàn nguyệt của tôi trở nên mềm mại, duyên dáng, sắc điệu rộn ràng thì xảy ra biến cố chính trị buộc vua Bảo Đại thoái vị. Giấc mộng được tuyển vô nhóm nhạc cung đình Huế của tôi tan rã cũng là lúc tôi giã từ cây đàn nguyệt chuyển trường học về Sài Gòn. Đã hơn sáu mươi năm tôi lìa xa cây đàn nguyệt để rồi đàn thầy trả thầy; giọng ca Huế thanh thoát năm xưa cũng chìm xuống, im lắng theo tuổi tác tôi. Dù rứa tôi vẫn thương nhớ hình dạng cây đờn kìm và thích nghe tiếng đàn nguyệt tuy mộc mạc, trầm đục, chân tình nhưng phơi phới với nhịp điệu sinh động, thanh khiết, vui tươi. 

   Đàn nguyệt xuất xứ từ Trung Quốc, vốn có nhiều tên gọi. Đàn nguyệt còn được gọi là đàn song thanh hay song vận có 2 dây. Thùng đàn hình tròn như mặt trăng nên gọi là nguyệt cầm. Khi du nhập vào Việt Nam, người miền Nam ta gọi đàn nguyệt là đờn kìm, thùng đàn vẫn tròn không có lỗ phát âm, cần đàn dài hơn, phím đàn cao hơn, cách xa nhau và không đều nhau, từ 8 phím tới 11 phím, đánh theo lối ngũ cung. Đờn kìm được vinh danh là Quân Tử Cầm hay Vọng Nguyệt Cầm rất thịnh hành trong nghề đờn ca tài tử miền Nam. Hơn nữa, đàn nguyệt thường được dùng để độc tấu, hòa tấu trong ban nhạc chầu văn, ca Huế, phường bát âm…

    2. Ca Huế.

    Thuở nhập môn, giọng ca niên thiếu tôi thanh thoát, rộn ràng, nhanh, mạnh, đầy tự tin. Còn bây chừ thì ôi thôi rồi, tôi cố cách mấy giọng vẫn rè, khàn đục, già chát nghe lảng nhách, chán phèo, dở ẹc, dở thầy chạy.

    Nhưng mà ca Huế là gì, ca ra răng, làm răng? Trả lời dễ ẹc. Ca Huế là một thể loại âm nhạc cổ truyền của xứ Huế. Đơn giản rứa thê. Cũng tài liệu chép tay của ông anh họ khái quát ghi rằng:

    Ca Huế phát sinh từ trong cung đình vào thế kỷ thứ 17, là thú chơi tao nhã của hoàng thân quốc thích, danh gia vọng tộc. Ca Huế có giá trị cao về nghệ thuật, giáo dục cũng như nhân cách của con người, được phổ biến rộng rãi ở các tỉnh phía Bắc cũng như phía Nam. Chính vì vậy nên ca Huế rất đa dạng và phong phú, mang âm hưởng của hai điệu thức Bắc rộn rã, vui tươi và Nam nỉ non, ai oán, hầu hết thường diễn qua 4 nhạc khúc thịnh hành Lưu Thủy, Kim Tiền, Xuân Phong, Long Hổ.

    Tài liệu chép tay của ông anh họ chỉ nói ca Huế là loại nhạc thính phòng, không thấy nói ca Huế trên sông Hương.

    Ngày nay, ca Huế đã vượt ra ngoài cung đình để những câu hát, điệu hò Huế ngọt ngào, xao xuyến với những âm điệu trầm bổng, du dương của giọng hát hòa quyện với tiếng dìu dặt của dàn nhạc gồm đàn bầu, đàn tranh, đàn nguyệt, tỳ bà, sáo, xênh, phách… trổi lên trên thuyền rồng bồng bềnh trên sông Hương sẽ ru tâm hồn giới thưởng ngoạn vào miền ký ức sâu thẳm khởi từ đời nhà Lý.


PHAN NI TẤN


Thứ Tư, 28 tháng 12, 2022

TRỪ DẠ HỮU HOÀI - THÔI ĐỒ , ĐỖ CHIÊU ĐỨC DIỄN NÔM





Góc Đường Thi :                   

                                    TRỪ DẠ HỮU HOÀI

                            


                                                  崔涂  Thôi Đồ 


          崔涂 (854~?)字礼山,今浙江富春江一带人。唐僖宗光启四年(888)进士。终生飘泊,漫游巴蜀、吴楚、河南,秦陇等地,故其诗多以飘泊生活为题材,情调苍凉。《全唐诗》存其诗1卷。 


           THÔI ĐỒ  ( 854-? ) , tự là Lễ Sơn, là người ở đất Phú Xuân Giang, thuộc tỉnh Chiết Giang ngày nay. Ông đậu Tiến Sĩ năm Quang Khải thứ 4, đời Đường Hi Tông. Cả đời phiêu bạc, lãng du các xứ Ba Thục, Ngô Sở, Hà Nam, Tần Lũng...  nên thơ của ông phần nhiều lấy đề tài tả cảnh sống phiêu bạc giang hồ, tình tiết âm điệu thê lương. "Toàn Đường Thi" còn giữ được một tập thơ của ông.  Sau đây là bài thơ Trừ Dạ Hữu Hoài của ông .


                             

         除夜有懷            TRỪ DẠ HỮU HOÀI


        迢遞三巴路,        Điều đệ tam Ba lộ,

        羈危萬里身。        Ký nguy vạn lý thân.

      亂山殘雪夜,        Loạn sơn tàn nguyệt dạ,

        孤燭異鄉人。        Cô chúc dị hương nhân.

      漸與骨肉遠,        Tiệm dữ cốt nhục viễn,

        轉於僮僕親。        Chuyển ư đồng bộc thân.

      那堪正飄泊,        Na kham chánh phiêu bạc,

        來日歲華新。        Lai nhật tuế hoa tân.

                    崔涂                                 Thôi Đồ 

              

     

 * CHÚ THÍCH :

         1. Điều Đệ 迢遞 : Xa xôi diệu dợi.

         2. Tam Ba 三巴 : Chỉ xứ Ba Quận, Ba Đông, Ba Tây, nay thuộc đông bộ của tỉnh Tứ Xuyên.

         3. Ký Nguy 羈危 : Chỉ Trong nguy nan mà thân lại ở xứ người.

         4. Câu số 4 : Có bản chép là : " Cô độc dị hương xuân "  孤獨異鄉春  . Có nghĩa : Mùa xuân đến mà chỉ có một thân một mình nơi đất khách tha hương. 

         5.CHÚC 燭 : Là Đuốc, là đèn, là nến. Hoa Chúc 花燭 : là Đuốc Hoa. Cô Chúc 孤燭 : là Cây đuốc cô độc lẻ loi.

         6. Đồng Bộc Thân 僮僕親 : Đồng là Tiểu đồng, Thư đồng. Bộc là Nô bộc. Thân là Thân thiết . Đồng Bộc Thân có nghĩa : Cả thư đồng nô bộc cũng thấy thân thiết như người thân.                   

* DỊCH NGHĨA :

                             Hoài Cảm Đêm Giao Thừa

            Diệu vợi trên đường đi gập ghềnh khúc khủy của xứ Tam Ba, Tấm thân ngoài ngàn dặm nầy đang tạm dung ở xứ người an nguy khó định. Đêm lạc lỏng trong cảnh tuyết tan giữa núi non chập chùng , người tha hương cô độc với ngọn đuốc lẻ loi, và ... càng đi thì lại càng xa những người thâm tình cốt nhục, nên tình cảm chuyển sang cho thư đồng nô bộc xem họ như những người thân. Không sao kham nỗi với nỗi phiêu bạc giang hồ, trong khi ngày mai nầy đã lại bước sang năm mới rồi !


* DIỄN NÔM :



                           TRỪ DẠ HỮU HOÀI


                       Diệu dợi Tam Ba đường núi,

                       Quê người muôn dặm xa xăm .

                       Đêm xuống loạn sơn tàn tuyết,

                       Đèn côi chiếc bóng một thân .

                       Cốt nhục ngày càng xa cách,

                       Thư đồng tựa kẻ thiết thân.

                       Không kham cuộc đời phiêu bạc,

                       Mai ngày lại phải đón xuân !

     Lục bát :

                       Ba sơn diệu vợi đường dài,

                       Lẻ loi cô độc ai hoài một thân.

                       Tuyết tan non núi chập chùng,

                       Đuốc đơn người lẻ ngại ngùng bước chân.

                       Thân nhân cốt nhục xa dần,

                       Tình thân chuyển cả thư đồng bộc nô.

                       Tấm thân phiêu bạc giang hồ,

                       Mai ngày năm mới thân cô một mình !

                                          Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm


          Hẹn bài dịch tới !


                                                    杜紹德

                                                   ĐỖ CHIÊU ĐỨC


Thứ Ba, 27 tháng 12, 2022

NHỮNG NGỌN ĐÈN CẦY CỦA NGÀY SINH NHỰT - TRẦN HOÀI THƯ





NHỮNG NGỌN ĐÈN CẦY CỦA NGÀY SINH NHỰT

KHI EM XUẤT HIỆN, TRONG BÓNG CHIỀU nhá nhem, anh phải bàng hoàng. Anh không thể ngờ có một ngày được gặp lại một người thân yêu cũ. Vẫn mái tóc cắt ngắn. Vẫn gương mặt thanh tú. Vẫn bờ vai nhỏ bé, nhưng có gì khác lạ ở chiếc nhẫn trên ngón tay của em. Anh buột miệng kêu tên em. Em vẫn đứng yên và giữ một khoảng cách. Ngoài kia, một vài vì sao mọc sớm, và đàn dơi đã bay tán loạn trên những nhánh sứ trong vườn cư xá. Anh mời em, nhưng thật tình không có lấy một chiếc ghế. Và em dọn lại cái bàn viết bừa bộn sách vở, chai lọ. Em lôi ra từ trong bọc chiếc bánh và hộp đèn cầy.
Anh thì ngạc nhiên không ít.
– Em làm gì với chiếc bánh và những ngọn đèn cầy này ?
– Anh không biết sao, hôm nay là ngày sinh nhật của anh mà.
– Thế sao ?
Anh hỏi chính anh. Trời ơi ngày sinh của mày mà mày không nhớ sao. Hở.
Anh cảm tạ em với tấm lòng vô lượng. Nhưng ngày ra đời của anh đâu có vui gì để mà phải nhớ. Cái nơi nào gọi là quê nhà, là nơi mình khóc những tiếng khóc chào đời thú thật đến bây giờ anh cũng không còn biết nơi nào nữa. Tìm ở đâu khi mới chào đời là những con ngựa trong chuồng sau nhà, miệng sủi bọt, hí lên những tiếng hí rùng rợn thê lương rồi nhảy đành đạch và lăn ra chết. Tìm ở đâu, ngay cả một dấu chân của tuổi thơ cũng không còn dấu vết để lại đàng sau. Phải, nếu mẹ cha anh phải vui mừng vì có một đứa con trai sinh vào tuổi ngựa chào đời thì ông bà phải khóc cả trăm lần cho một cơn tai nghiệt. Cả một gia sản mà mẹ ra công tạo dựng, với một đàn ngựa kéo xe khắp tỉnh, với tiền bạc càng lúc càng dồi dào, với nhà cao cửa rộng, bỗng theo trận dịch cuốn lốc tan tành. Mẹ điên cuồng như người mất trí. Mẹ nghiến răng trong nỗi bất lực khi mỗi đêm, vọng về cùng những cơn gió núi, âm thanh kinh hoàng của những tiếng hí của một con ngựa bị trận ôn dịch quật ngã. Mẹ xách đèn bão cùng chú Tá giúp việc, ra sau chuồng để chứng kiến cho cái cơ nghiệp mà bà đã cố công gầy dựng càng lúc càng tan tành theo cơn dịch dữ.
Ngày ấy, anh quá nhỏ để hiểu và thấy được thế nào là một trận dịch khắc nghiệt. Nhưng rõ ràng, bằng cảm nhận của một kẻ sinh vào tuổi ngựa, anh tự hiểu chính anh là con ngựa ôn dịch đã mang đến tai họa ấy.
Và hết trận ôn dịch bủa xuống một gia đình lại tiếp đến một trận ôn dịch khác – lần này là chiến tranh – Nó đổ xuống khắp nước. Để tản cư, tiêu thổ, để cha phải xa con, vợ xa chồng để thằng bé con chưa đầy hai tuổi phải xa lìa nơi chôn nhau cắt rún của nó. Con ngựa mẹ nuôi nó chưa kịp cỡi để giấc mơ trên một đồng thảo nguyên, giờ nó phải bỏ lìa để theo mẹ nó lang thang vô định, để hứng chịu cái định mệnh khắc nghiệt nhất của tất cả đứa bé trên đời: Thằng con không cha.
Như vậy, em yêu dấu, anh làm gì để nhận được cái diễm phúc cho một niềm vui. Cho dù trên tờ giấy khai sinh, vẫn có ngày tháng năm sinh, nơi sinh trưởng, có tên cha tên mẹ, nhưng trời hỡi, nó chỉ là một trang chứng từ cho một nỗi buồn của một kiếp người mà thôi.
Dù vậy, anh cũng phải cảm tạ em, vì em vẫn còn nhớ tưởng đến anh giữa lúc anh bơ vơ vô cùng tận.
oOo
Em dọn chiếc bánh, cắm những ngọn đèn cầy và hối anh đốt nến. Ánh sáng lóe lên, như ánh sáng của bình minh, của hy vọng, của niềm vui mừng. Anh bối rối làm sao. Bên anh, em vẫn bận rộn.
– Đây là món quà mừng ngày sinh nhật của anh.
Em làm anh càng ngạc nhiên. Anh nhận bọc quà. Anh mở dây buộc, và giấy bọc. Lần đầu tiên trong đời, anh mới nhận được cái diễm phúc này. Hình như tay anh muốn run. Hay là vì lòng anh hồi hộp quá đỗi.
– Trời ơi, cây viết !
Anh buột miệng thốt lên. Và không dằn được niềm cảm xúc, anh ôm choàng lấy em. Ôm như ôm một thân thể ngày nào. Ôm như ôm vào đời một người nữ thân yêu, lúc anh trở về từ quân trường. Ôm mà không còn nghĩ đến ngón tay đeo nhẫn của em. Ôm như ngày nào, hai đứa ôm nhau dưới trời mưa như thác, không giữ gìn, không cần thắc mắc. Ôm như thân thể và tâm hồn là của nhau. Anh nói trong niềm xúc động chất ngất:
– Cám ơn em. Cám ơn em.
Em gỡ vòng tay của anh.
– Đừng anh, em đã có chồng rồi.
Anh buông em ra. Phải. Anh đã dự cảm và điều dự cảm này rõ ràng là đúng. Anh bối rối xin lỗi.
– Anh xin lỗi em.
Bên ngoài, vọng vào tiếng hát của Thái Thanh báo xuất phim tối bắt đầu. "Em hỏi anh bao giờ trở lại. Anh trả lời mai mốt anh về". Ngọn đèn cầy còn lại tiếp tục lung linh ánh sáng soi bóng hai người trên vách tường. Anh hỏi:
– Tại sao em lại biết anh ở đây?
– Em nghe chồng em kể. Anh ấy là sĩ quan phòng quân số của sư đoàn, nên anh biết những người mới thuyên chuyển lên đơn vị. Có lẽ anh cũng đã gặp anh ấy khi trình diện.
– Phải. Anh nhớ ra rồi. Anh ấy là một người tốt. Ảnh đã tìm cách cho anh được nán lại hậu cứ vài ngày trước khi theo chuyến xe ra ngoài mặt trận.
– Em hỏi tên thì em mới biết là anh.
– Như vậy em có chồng rồi. Khi nào?
– Vâng. Cách đây một năm. Sau khi em được thuyên chuyển lên đây.
Rồi em bật run đôi vai. Em nói trong giòng nước mắt:
– Khi anh rời quân trường anh không để lại một tin tức gì. Em nghĩ là anh không còn nhớ đến em nữa. Sau đó đọc báo được biết anh bị thương đến hai lần. Em có liên lạc với tòa soạn nhưng họ nói anh ở một đơn vị nguy hiểm, phải lưu động khắp cả vùng hai, khó có thể liên lạc. Sau đó, anh Nhân hỏi cưới em. Anh hẳn biết em không thể chờ đợi được nữa. Anh Nhân là một người chồng tốt. Anh ấy thương em lắm.
– Chúc mừng em. Nhưng tại sao em lại đến thăm anh. Em không sợ thiên hạ chê cười sao? Em không sợ chồng em biết sao?
Câu nói của anh có lẽ làm xúc phạm em. Em ngước mắt nhìn anh. Lệ tràn long lanh:
– Em đến để chia xẻ với anh niềm vui, đó là cái tội sao?
– Không, anh không có ý như vậy. Anh rất hiểu em. Hiểu tại sao em lại đến quân trường để tìm anh giữa lúc có biết bao kẻ săn đón em. Hiểu tại sao em lại chịu lên một nơi xa xôi heo hút này để làm việc. Anh rất hiểu. Anh xin lỗi em.
– Thú thật khi nghe tin anh có mặt tại nơi này, em muốn vợ chồng em sẽ đến thăm anh. Nhưng nhớ lại sắp đến ngày sinh nhật của anh, em phải chờ đợi để làm anh kinh ngạc. Bất ngờ anh Nhân bị công tác, thành ra em phải đi một mình.
– Cám ơn em. Anh hứa sẽ giữ mãi niềm tin cậy của em. Em sẽ mãi mãi là một người áo trắng với con tim chất ngất tình thương của anh.
– Cám ơn anh. Thôi khuya rồi. Em xin kiếu về.
Anh bỗng nhớ ra một điều gì.
– Chờ anh một phút. Anh có món nhờ em giữ hộ.
Rồi anh lôi ra một hộp nhung – phần thưởng danh dự về báo chí mà Ông Chỉ huy trưởng quân trường đã trao trong ngày mãn khóa về một cá nhân báo chí xuất sắc nhất của khóa.
– Đây là 2 cây viết Canon phần thưởng về cá nhân xuất sắc của khóa. Có khắc tên anh trên cây viết. Để em giữ dùm anh. Anh không cần chúng nữa. Lỡ mai này, chết ngoài mặt trận mất đi thì uổng lắm. Mong em nhận lấy.
Em gật đầu:
– Em sẽ giữ hộ anh, chừng nào hòa binh, em sẽ trả lại...
Rồi anh đưa em ra ngoài đêm. Gió cuối năm lạnh cắt. Muốn thốt lên một lời âu yếm của kẻ tình nhân. Ngày xưa, anh còn dịp để lấy áo jacket của anh để choàng vào vai em. Ngày xưa, anh còn lấy da thịt mình, hơi hướm mình để sưởi ấm cho em. Nhưng bây giờ, em đã có một bến trú, một người để chở che bảo bọc. Ngày xưa, khi anh đưa em về Gia Định, anh và em nắm tay nhau chạy dưới trời mưa giông cho kịp chuyến xe lam. Bây giờ, bàn tay ấy, anh không được nắm. Thân thể này anh không được giữ. Anh biết, cũng tại vì anh. Chính anh đã phụ bạc, ruồng rẫy. Chính anh đã xa lìa em.
oOo
Phải. Em yêu dấu. Hãy tha lỗi cho anh. Anh đang nhắm mắt đây, như một người muôn vàn ăn năn hối hận. Làm sao anh hiểu cơn mưa giông của Sài Gòn trong buổi chia tay cuối cùng ấy còn thấm thêm lệ mặn. Làm sao anh biết được đôi khi đàng sau mình vẫn có những đôi mắt vời vợi ngóng trông. Khi yêu người, hạnh phúc chưa tròn đầy thì chia ly là vời vợi. Cứ sợ một ngày người ấy sẽ khổ vì mình. Cứ sợ một ngày người ấy sẽ trở thành góa phụ. Chính nỗi sống chết đã dạy anh phải sống vội sống vàng. Và cả tàn nhẫn.
Nhưng, đêm nay, anh bàng hoàng nhận ra tấm lòng của một người. Cám ơn đời, ít ra, đời cho anh một đôi mắt, và cám ơn em, ít ra, đêm nay, em còn nghĩ đến ngày sinh nhật của một loài ngựa chứng.
– Cho anh được gởi lời thăm chồng em.
Anh nói.
– Cám ơn anh.
Rồi em biến mất trong bóng tối.
Đêm cao đen đặc. Anh trở về lại căn phòng tạm trú. Mở lại cánh cửa. Mùi hương của bông sứ hay là mùi hương thoảng của em. Đứng lêu bêu trong bóng tối. Đêm ơi đêm ơi, chắc đêm sẽ phải dài để anh sẽ phải nhớ đến những câu thơ của anh.
𝑈̛̀ 𝑛ℎ𝑖̉ 𝑡𝑜̂́𝑖 𝑛𝑔ℎ𝑒 𝑡𝑟𝑜̛̀𝑖 đ𝑎𝑛𝑔 𝑠𝑢̛𝑜̛𝑛𝑔.
𝑁𝑔𝑢̛𝑜̛̀𝑖 𝑏𝑜̉ 𝑡𝑎 𝑣𝑎̀𝑜 đ𝑒̂𝑚 𝑘ℎ𝑜̂𝑛𝑔 𝑡𝑟𝑎̆𝑛𝑔.
Không, người đâu có bỏ ta. Tại ta bỏ người. Ta xa lánh người. Ta ham vui mà quên người mà.
Không ngờ đêm ấy là đêm cuối cùng để anh được thấy em. Định mệnh lại thêm một lần đẩy đưa anh về một vùng mênh mông khác. Con ngựa chứng đã muốn dừng chân nhưng nó vẫn bị những trận roi quất đánh tơi tả không chịu buông tha. Vẫn là đôi giày trận lún sâu trên những vùng tai họa, vẫn là những máu và nước mắt, lẫn tan hoang tơi tả khắp đầy. Tan hoang trong lòng người và tan hoang cùng đất nước. Một người về đỉnh cao. Một người về vực sâu…(TCS) Có điều gì để mà lưu luyến nơi này. Con ngựa gầy kéo chiếc xe trong hoàng hôn sậm đỏ, lau cỏ, và cánh chim chiều in đậm trên nền trời. Có gì mà thương mà nhớ. Em thì đã có gia đình. Còn anh thì một con số không to tướng. Em đã có đời sống riêng, và anh cũng có đời sống riêng. Nhưng có những thứ mà chúng ta phải giấu tận đáy lòng. Hay có những điều mà chúng ta muốn quên đi. Nhưng mà chắc gì quên được.
𝘊𝘩𝘢̆̉𝘯𝘨 𝘵𝘩𝘢̀ 𝘬𝘩𝘰̂𝘯𝘨 𝘣𝘪𝘦̂́𝘵 𝘵𝘩𝘪̀ 𝘵𝘩𝘰̂𝘪
𝘉𝘪𝘦̂́𝘵 𝘳𝘰̂̀𝘪 𝘮𝘰̂̃𝘪 đ𝘶̛́𝘢 𝘮𝘰̂̃𝘪 𝘯𝘰̛𝘪 𝘤𝘶̃𝘯𝘨 𝘣𝘶𝘰̂̀𝘯…
Phải rồi. Chúng ta muốn quên mà làm sao quên được. Một hôm nào đó, có thể cơn chiêm bao thấy lại người xưa, để lòng tự nhiên bồi hồi. Hay thấy lại một dáng hao hao người tình, và lại nhớ tưởng đến một người. Hay đọc lại một tên quen, tự nhiên lòng dâng lên nỗi rung động nhè nhẹ. Hay nghe lại một bản nhạc để nhớ đến một khung trời cũ, và tiếng hát của người…
oOo
𝐁𝐚̂𝐲 𝐠𝐢𝐨̛̀, 𝐚𝐧𝐡 𝐱𝐚 𝐞𝐦 đ𝐚̃ 𝐡𝐨̛𝐧 𝐛𝐚 𝐦𝐮̛𝐨̛𝐢 𝐧𝐚̆𝐦. Anh cũng xa đất nước VN gần 1/4 thế kỷ.
Nơi này, mỗi năm, có những lời chúc mừng sinh nhật được gởi đến qua e-mail, của những xếp lớn. Những e-mail ấy được cài sẵn ngày tháng, và đúng ngày đúng tháng là chúng tự động được gởi đi. Để chứng tỏ là chủ hay xếp luôn luôn nhớ đến nhân viên hay thuộc cấp của họ. Hay những người cùng phòng ban, vẫn tổ chức mừng sinh nhật cho nhau. Họ bí mật dọn bàn, dọn bánh, dọn đèn cầy, rồi giả vờ mời nhân vật chính vào phòng có công chuyện. Rồi cả bọn vỗ tay chúc mừng, cùng hát Happy Birthday to you… Không khí có vẻ như thân mật và đầy tình nghĩa. Họ đã dành cho anh bao nhiêu lần như thế. Anh đã có bao nhiêu lần ngạc nhiên như thế, bao nhiêu lần cắt bánh như thế.
Nhưng mà cuối cùng, anh vẫn bị tống ra khỏi thế giới ấy đúng ngay vào ngày sinh nhật của mình. Không thương xót, không tình nghĩa, như thể mình là kẻ phạm tội. Họ tống xuất một kẻ mà họ từng chúc mừng. Xã hội đã dạy cho họ phải làm như vậy. Những ngọn đèn cầy mà họ đã cắm vào trong bánh, những tràng vỗ tay, những lời hát chúc tụng, không biết có thật lòng hay không hay chỉ là môi miệng phù phiếm.
Để rồi, ánh nến tắt cũng tắt theo trong lòng mỗi người.
Chỉ có những ngọn đèn cầy mà em đã mang đến cho anh ngày sinh nhật nào năm xưa vẫn sáng rực mãi trong tâm hồn anh. Cây viết mà em tặng, anh đã bỏ mất như đôi giày trận và bộ đồng phục, tấm thẻ bài của anh. Nhưng những hàng chữ anh đang viết vẫn đầy ắp hình ảnh của một hình bóng cũ, và những bài thơ tình vẫn là những vầng trăng, những đóa ngọc lan thơm ngát. Cám ơn em đã cho anh những nụ hoa tươi đẹp. Cám ơn em đã có mặt bên anh, vai nhỏ bé, dáng mong manh. Cám ơn em đã cho anh những giọt lệ thấm nhòa trên những tờ nhật ký vì thương vì nhớ một người lính chiến. Và thắp lên những ngọn đèn cầy long lanh một mối tình vượt qua tinh nam nữ thường tình. Tình ấy anh không thể cắt nghĩa nổi. Lúc anh cô đơn. Lúc anh hẩm hiu. Lúc anh cần nơi nương tựa. Khi nó càng lúc càng bị khoa học kỹ thuật đã trét phấn tô son để đánh lừa!
Giờ chúng ta hai đứa đều ở tuổi xế chiều. Nhưng đối với anh, em vẫn là em sống mãi trong trái tim anh, ngày nào.
Từ xa xôi, em có nghe anh nói không, em yêu dấu?


TRẦN HOÀI THƯ


Thứ Hai, 26 tháng 12, 2022

THƠ XUÂN CAO BÁ QUÁT (2) - ĐỖ CHIÊU ĐỨC DIẼN NÔM


 

Góc Việt Thi : 

                   Thơ Xuân Cao Bá Quát (2)

              
                   
XUÂN NHẬT TUYÊT CÚ THẬP THỦ 
                            (Mười bài thơ Tuyệt Cú Ngày Xuân)





1. Bài thơ Xuân Nhật Tuyệt Cú (kỳ 1) :

春日絕句 (其一)       XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 1)

五門樓上散嚴更,     Ngũ môn lâu thượng tán nghiêm canh,
玄武城頭煙氣明。     Huyền Vũ thành đầu yên khí minh.
赤日自通南闕曙,     Xích nhật tự thông nam khuyết thự,
春風先渡北江晴。     Xuân phong tiên độ bắc giang tình.
               高伯适                                    Cao Bá Quát


* Chú thích :
    - Nghiêm Canh 嚴更 : Sự canh gác nghiêm cẩn trong đêm.
    - Huyền Võ Thành Đầu 玄武城頭 : Trên đầu thành Huyền Võ. HUYỀN VÕ 玄武 là một trong 4 chòm sao của "Nhị Thập Bát Tú" là : Thanh Long 青龍 7 sao ở phương Đông、Bạch Hổ 白虎 7 sao ở phương Tây、Chu Tước 朱雀 7 sao ở phương Nam、và Huyền Võ 玄武 7 sao ở phương Bắc; nên HUYỀN VÕ THÀNH ĐẦU là trên đầu thành Huyền Võ ở phương Bắc.
    - Xích Nhật 赤日 : là Mặt trời màu đỏ chói (sau những tháng mùa đông ảm đạm).
    - Nam Khuyết 南闕 : Chỉ Vòng thành ở phía cửa Nam trong kinh thành.
    - Thự 曙 : là Rạng sáng, là Ánh nắng ban mai của mặt trời.
    - Tình 晴 : là Nắng ráo.

* Nghĩa bài thơ :
                           TUYỆT CÚ NGÀY XUÂN (1)
      Sự canh gác nghiêm cẩn trên thành lầu Ngũ Môn đã thư giản sau canh năm; Trên đầu thành Huyền Võ ở phương bắc mây khói đã sáng lên không còn u ám nữa. Mặt trời màu đỏ chói chan đã tự động làm cho phía thành Nam cũng sáng lên vì ánh nắng mặt trời. Gió xuân đã thổi qua dòng sông phía bắc trong cảnh trời nắng ráo.

      Cảnh trí của buổi sáng đầu xuân đã bắt đầu đem đến ánh nắng đầu ngày rực rỡ ấm áp sau những ngày mùa đông ảm đạm lạnh lùng.





* Diễn Nôm :
                    XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 1)

                   Tiếng trống Ngũ Môn canh đã tàn,
                   Đầu thành Huyền Võ khói sương tan.
                   Mặt trời rực nắng nam thành chiếu,
                   Giang bắc gió xuân đã độ sang !
     Lục bát :
                   Ngũ Môn tiếng trống canh tàn,
                   Đầu thành Huyền Võ sương tan sáng trời.
                   Cửa nam nắng chiếu khắp nơi,
                   Sông bắc hây hẫy ngập trời gió xuân !  
                                                    Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

2. Bài thơ Xuân Nhật Tuyệt Cú (kỳ 2) :

春日絕句(其二)       XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 2)
 
襟帶山河千里府,     Khâm đới sơn hà thiên lý phủ,
風流歌管萬人家。     Phong lưu ca quản vạn nhân gia.
朱橋錦宇舊時燕,     Chu kiều cẩm vũ cựu thời yến,
韋曲紅綢無賴花。     Vi khúc hồng trù vô lại hoa !
              高伯适                              Cao Bá Quát




* Chú thích :
    - Khâm Đới 襟帶 : KHÂM là Vạt áo; ĐỚI là dây thắt lưng; KHÂM ĐỚI SƠN HÀ 襟帶山河 là Núi sông như vạt áo và dây thắt lưng ôm ấp quyện chặc lấy nhau, lấy ý ở một câu trong "Đằng Vương Các Tự 滕王閣序" của Vương Bột đời Đường là :

                   襟三江而帶五湖,   KHÂM Tam giang nhi ĐỚI Ngũ hồ,
                   控蠻荆而引甌越。   Khống Man kinh nhi dẫn Âu việt.
 Có nghĩa :
       - Tam giang như vạt áo và Ngũ hồ như dây thắt lưng ôm quyện lấy nhau. 
       - Khống chế đất Man kinh và như dẫn dắt đất Âu Việt.

    - Ca Quản 歌管 : CA là lời ca; QUẢN là Ống Tiêu, Ống Sáo; nên CA QUẢN chỉ Lới ca tiếng hát trong âm nhạc hòa tấu, chỉ sự hát xướng vui chơi.
    - Chu Kiều 朱橋 : tức là Cầu Chu Tước trong bài Ô Y Hạng của Lưu Vũ Tích :

                  朱雀橋邊野草花,   Chu Tước kiều biên dã thảo hoa,
                  烏衣巷口夕陽斜.   Ô y hãng khẩu tịch dương tà !
      Có nghĩa :
                  Bên câu Chu Tước cỏ hoa hoang,
                  Trước hẽm Ô Y nắng xế tàn.
    - Cẩm Vũ 錦宇 : CẨM là Gấm; VŨ là ỐC VŨ 屋宇 là Nhà cửa; nên CẨM VŨ là Nhà cửa đẹp như gấm, chỉ nhà giàu có khá giả.
    - Vi Khúc 韋曲 : Tên một con phố ở Trường An ngày xưa, trong bài thơ mượn để chỉ kinh thành Thăng Long.

                  



    - Hồng Trù 紅綢 : là Gấm lụa màu đỏ, ở đây chỉ khúc múa bằng gấm lụa màu đỏ ngày xưa, HỒNG TRÙ là múa lụa đỏ chỉ khúc múa vui chơi ngày xuân. 
    - Vô Lại 無賴 : là Không cần dựa dẵm, không cần nhờ cậy...

* Nghĩa bài thơ :
                         Tuyệt Cú Ngày Xuân (2)
        Các phủ đệ kéo dài cả ngàn dặm như núi sông ôm ấp lấy nhau, muôn vạn nhà đều có cuộc sống phong lưu trong lời ca tiếng hát vang lừng. Những con chim én thuở xưa bên cầu Chu Tước cạnh các nhà giàu có ngày trước lại bay về. Trên phố Vi Khúc ở Trường an các điệu múa lụa đỏ rực rỡ mà không cần nhờ vào những đóa hoa xuân.    

        Cảnh thái bình thịnh vượng giàu có vui chơi của cư dân đất kinh thành trong những ngày đâu xuân rực rỡ.
 



* Diễn Nôm :
                      XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 2)
 
                     Nhà cửa núi sông muôn dặm xa,
                     Phong lưu hát xướng tự muôn nhà.
                     Én xưa Chu tước nay tìm đến,
                     Lụa đào ca múa át ngàn hoa !
        Lục bát :
                     Núi sông ôm ấp muôn nhà,
                     Phong lưu cuộc sống hát ca tư bề. 
                     Én cầu Chu tước tìm về,
                     Vi Khúc múa hát chẳng hề nhờ hoa !
                                                 Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

3. Bài thơ Xuân Nhật Tuyệt Cú (kỳ 3) :            

春日絕句(其三)         XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 3)
 
旭掛旗臺煙水消,     Húc quải kỳ đài yên thủy tiêu,
三營四觀日迢迢。     Tam doanh tứ quán nhật thiều thiều.
萬重山勢長春色,     Vạn trùng sơn thế trường xuân sắc,
千尺江流送往潮。     Thiên xích giang lưu tống vãng triều.
              高伯适                                         Cao Bá Quát




* Chú thích :
    - Húc 旭 : là HÚC NHẬT 旭日 Mặt trời buổi sáng, Mặt trời mới mọc.
    - Tam Doanh Tứ Quán 三營四觀 : Các đơn vị tổ chức của quân đội ngày xưa.
    - Nhật Thiều Thiều 日迢迢  : Nếu NHẬT là Ngày, thì là Ngày dài dằng dặc; Nếu Nhật là NẮNG, thì có nghĩa là Nắng chan chan.
    - Sơn Thế 山勢 : là cái thế của núi non.
    - Vãng Triều 往潮 : Nước thủy triều rút đi.

* Nghĩa bài thơ :
                       Tuyệt Cú Ngày Xuân (3) 
       Khi mặt trời buổi sáng mọc, quân kỳ được treo lên kỳ đài thì hơi nước ẩm cũng tiêu tan. Trong tam dinh tứ quán ngày đã trở nên dài dằng dặc (tràn ngập cả nắng vàng). Chập chùng muôn vạn thế núi đều đầy hương sắc của mùa xuân. Trong khi ngàn thước sông cuộn trôi cũng đã cuốn đưa nước thủy triều đi xuống.





* Diễn Nôm :
                      XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 3)

                      Sáng thượng kỳ đài mây khói tan,
                      Ba dinh bốn quán nắng chan chan.
                      Muôn trùng thế núi đầy xuân sắc,
                      Ngàn thước sông trôi nước xuống ngàn.
        Lục bát :
                      Kỳ đài sáng khói mây tan,
                      Ba dinh bốn quán nắng vàng đầy vơi.
                      Khắp nơi thế núi xuân tươi,
                      Muôn ngàn sông chảy cuốn lui thủy triều.
                                                                 Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm.

      Hẹn bài dịch tới !



                                                       杜紹德
                                                    ĐỖ CHIÊU ĐỨC