CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2014

NGUYỄN KHÔI, THƠ TẶNG NHÃ MY






Tác giả Nguyễn Khôi. Sinh 1938.
   Quê: Phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
    Đ/c: 39/259 phố Vọng, quận Hai Bà Trưng - Hà Nội.
    Email:
khoidinhbang@yahoo.com.vn




  THƠ TẶNG NHÃ MY

     

  Nàng về qua nẻo sông Tương

Đội làn Mưa xối trên đường viễn du

  Nhớ- xưa Sương- trắng sa mù

Ngây- thơ Aó -Trắng Tháng- tư- mưa vùi

  Đợi- chờ, Chiều xuống mình tui

Ai hay Tình -lỡ Ngậm- ngùi lối  xưa

  Mùa -đông sương tuyết đâu ngờ

Nỗi Buồn- viễn -xứ , đôi bờ sầu riêng

  Nhớ- quê  Xa- cách  Nỗi- niềm

Thương ơi cái Nắng quên miền tuyết rơi

  Chờ- chồng khắc khoải bên trời

Sương lam nhuốm tóc ai người có hay ?

  Một đời viễn mộng lất lây

Thơ tuôn dòng lệ đổ đầy sông Tương.

       Góc thành nam Hà Nội 25-2-2014

          Nhân đọc "Khung kỷ niệm"

               NGUYỄN KHÔI


*Chữ in đậm là tựa những bài thơ của NM trong KKN.
Nguồn:email của TG Nguyễn Khôi gửi lamngọc

Nhã My chân thành cảm ơn nhà thơ Nguyễn Khôi đã ưu ái gửi tặng NM một bài thơ hay trong đó có ghép nhiều tựa đề những bài thơ của NM.

THƠ TẶNG NHÃ MY - Nguyễn Khôi


Thứ Tư, 26 tháng 2, 2014

THƠ HẠC THÀNH HOA -NHỮNG BÀI LỤC BÁT

NHÃ MY CHÂN THÀNH CẢM ƠN THI SĨ HẠC THÀNH HOA ĐÃ GỬI TẶNG SÁCH VÀ TRÂN TRỌNG GIỚI THIỆU VỚI BẠN ĐỌC BLOG NM MỘT SỐ BÀI THƠ LỤC BÁT RẤT HAY TRÍCH TỪ THI PHẨM TUYỂN TẬP THƠ HẠC THÀNH HOA


BÊN TRONG CÁNH CỬA
Giờ trong cánh cửa mình tôi
Quạnh hiu ôm một bóng người như xưa
Mùa xuân giờ đã về chưa
Mùa xuân chưa đến nên chưa thấy về
Tôi còn trong chuổi ngày mê
Tay ôm không hết sơn khê vào lòng
Nên quên đôi má em hồng
Và quên lá rụng trên dòng cô đơn
MƠ THÀNH MÂY TRẮNG
Ngày đi đời xế thu tàn
Buồn trông theo ngọn gió vàng qua sông
Tôi ngồi đốt lửa chiều trông
Khói bay trắng khắp mùa đông trong rừng
Xanh từ hạt máu rưng rưng
Xuống vô cùng những đêm từng lá rơi
Hừng đông nguyệt vội xa rồi
Biển qua và bóng mặt trời lên cao
Trong tôi trăm mảnh lụa đào
Nhịp buồn của cánh dơi vào hoàng hôn
Với em cũng ánh trăng suông
Lòng ơi chưa mãn một cơn đau dài
Từ trên đỉnh sóng tình phai
Mơ thành mây trắng bay ngoài khói sương
TIẾC ĐỜI SAO BĂNG
Em còn bóng mát đầu sông
Nắng đi trải lụa nằm hong tơ chiều
Bụi mờ lạc nẻo chân xiêu
Hàng cây lượn khói tiêu điều chưa tan
Em còn tươi búp ngọc lan
Hương bay từ cõi thiên đường nào xa
Kiếp trần trơ một hồn hoa
Thương mây trắng những ngày qua biển sầu
Em còn vầng nguyệt đêm thâu
Từ nao nao ánh hỏa châu cuối trời
Chim qua trăng sáng tuyệt vời
Chợt bâng khuâng tiếc thương đời sao băng
VỀ NHÁNH SÔNG XƯA
Ngày chim về nhánh sông xưa
Sóng đêm vỗ lạnh đôi bờ héo hon
Mây đen ngậm đắng bồ hòn
Trăng sao nghe cũng vừa tròn tuổi đau
Đời chao cánh vạc đêm thâu
Cây xanh một bóng cõi sầu khoe tươi
Em đi gót nhỏ bên người
Rưng rưng cát bụi một đời lang thang

HAC THÀNH HOA

Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

VỀ LẠI GÀNH HÀO

THƠ HOÀNG YÊN LYNH





VỀ  LẠI  GÀNH  HÀO
.

Mưa ngày xưa mưa chiều nay
Biển âm vang sóng chưa phai chuyện lòng
Bồi hồi Dạ cổ hoài lang
Hiên nhà cũ mái rêu phong úa màu
Người xưa biền biệt chim  câu
Mang theo nỗi nhớ nỗi đau ân tình
" Lửa sàn nét chữ chênh chênh
Nếp thư đến rách chưa lành vết thương ... "  *
Một thời lưu lạc tha phương
Đôi mắt ấy vết thương lòng chưa nguôi
Chỉ còn tôi với mình tôi
Đâu người năm cũ mưa rơi trắng đường
Gành Hào một thuở tha hương
Mà sao Dạ cổ vấn vương cả đời
Một người xa ngái phương trời
Một người lẽ bạn cuối đời buồn trông
Hoài lang da diết Hoài lang ...


HOÀNG YÊN LYNH

* Thơ Nguyễn Bính .
**Gành Hào là một thị trấn thuộc huyện Đông Hải Tỉnh Bạc Liêu VN (chú thích NM)

Nguồn:email của TG HYL gửi lamngoc
Cảm ơn TG HYL đã thường xuyên gữi tặng blog của NM những bài thơ hay.

Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2014

BIỂN MAI HỒNG

                              THƠ LA THỤY









BIỂN MAI HỒNG
Hòn Bà ngắm sóng trầm tư
Đồi Dương ửng nắng liễu ru ven bờ
Sương lam sực tỉnh hồn mơ
Chao mình theo gió lượn lờ cùng mây
Cỏ xanh mượt trải đất dày
Dã tràng xe cát lạnh gầy dấu chân
Bay cùng cánh mộng bâng khuâng
Tình thơ ý nhạc như lần tuôn ra
Tiếng lòng xưa vẫn mặn mà
Ô sao gờn gợn âm ba nỗi mình
Lặng lờ rùa biển đinh ninh
Nghìn năm hóa kiếp đọng tình rong riêu
Dạt dào biển dậy niềm yêu
Lung linh khói sóng phiêu diêu mộng lòng

LA THỤY

Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2014

LIÊN HÀ TIỂU THƯ

 TRUYỆN NGẮN TRUYỀN KỲ




TÁC GIẢ :KHA TIỆM LY




LIÊN HÀ TIỂU THƯ


1. Cuồng sĩ họ Cao
 Năm Quang Tự 23 chiến tranh Trung Nhựt bùng nổ (1894). Triều Thanh cực kì hỗn loạn. Bên trong thì quyền thần tranh quyền, thái giám hiếp vua, sơn dã giặc cướp nổi lên như ong, giang sơn bị chia năm xẻ bảy bởi liệt cường xâu xé. Mỗi địa phương thì cường hào ác bá mặc sức vơ vét của tiền. Đời sống nhân dân cực kì bi thảm.
Tại kinh đô, bọn cơ hội thì mua tước bán quyền hoặc làm tay sai cho bọn Nhật để cầu chút  vinh hoa. Lớp trí thức, văn nghệ sĩ, có kẻ hùa theo giặc để an thân, dù đa phần vẫn giữ được sĩ khí, nhưng lại bóp bụng đứng bên lề nhìn vận nước điêu linh, hoặc mượn rượu cho qua ngày tháng.
Tại Ngưu thôn- cách  kinh đô vài trăm dặm- có một người không biết từ đâu đến,  ban ngày thì ra chợ viết mướn với bầu rượu bên mình, thỉnh thoảng mở nắp uống suông. Lúc ngà say, mọi việc đều bỏ, bèn lấy giấy bút làm thơ phú thao thao bất tuyệt, ý tình cao ngất trăng sao, có khi liên tục mấy mươi bài. Ai thích thì tặng cho, còn không thì để mặc bay theo gió cuốn.  Kẻ sĩ trong thôn trầm trồ thán phục, cho là kẻ thất thời; còn bọn thất phu lại bảo là cuồng dại. Chiều về, trước khi chui rút vào cái lều tạm bợ bên miếu Thành Hoàng ở cuối ấp, gã luôn chia sẻ cho Thành Hoàng một ít rượu thịt trong ngày kiếm được; lại thường xuyên bày trước bệ thờ mà chén tạc chén thù với… pho tượng, đến khi say khướt mới thôi!
Một buổi ra chợ, nghe phía bắc bị “giặc lùn” chiếm đóng, gã liên tiếp nốc cạn mấy bầu, tức giận bừng lên mặt, bèn viết liền một mạch “Biên Cương Nộ Khí Phú”, rồi sang sảng đọc lên. Bài phú hào hùng, tràn lòng yêu nước. Hảo hán, sĩ phu đều dừng lại lắng nghe, một lòng thù giặc, tuốt gươm cổ vũ. Có một khách thương hồ, hiếu kì đến xem, bỗng chạy đến quì trước gã:
 - Ôi! Cao ân nhân! Sao ngài lại lưu lạc đến đây!
 Rồi nói cùng mọi người:

- Quí vị ơi! Đây là Cao huyện lệnh Thanh Mai đó! Ngài là Bao Thanh Thiên của huyện tôi!  Chỉ vì ngài hết mực yêu dân mà phải như thế nầy đây!...
 Mọi người sững sờ nhìn nhau.
Ngày đó gã say mèm. Chiều về, đến miếu Thành Hoàng, chỉ pho tượng mà mắng:
-  Ta thấy bá tánh không tệ với ngươi, ngày ngày khói hương nghi ngút, hoa quả đủ đầy. Ta cũng quý ngươi là kẻ có công với xã tắc mà xớt chia phần rượu thịt. Nay biên cương bị giặc hoành hành mà ngươi lại điềm nhiên ngồi đó mà nhìn, chẳng thẹn hay sao? Thật uổng phí nhang đèn thiên hạ và rượu thịt của ta!
Nói xong, dằn mạnh bài phú trên bệ, rồi huơ tay đùa cả hoa quả, lư hương xuống đất. Trước khi đi còn mắng:
 - Hãy xem đi! Như vậy còn nhẹ cho ngươi! Để ta xem khi giặc tràn vào đây, hình tượng của ngươi còn không cho biết!
 Hôm sau, người Ngưu thôn không thấy bóng gã nữa.
 2. Với bọn thư sinh
Đất nước nằm trên miệng hỏa sơn mà kinh đô vẫn ngựa xe nhộn nhịp. Những chốn ăn chơi cũng chật ních người. Tửu điếm nhỏ năm xưa nay cũng sáng sủa hơn. Gã chọn một bàn cuối dãy, gọi rượu uống suông. Như thông lệ, khi rượu tàng tàng, thì chữ  trong người lại tuôn ra ào ạt, phóng bút chẳng ngừng tay. Bên kia, một nhóm thực khách ba nam một nữ - dáng dấp thư hương-  cùng nhìn gã, xì xào to nhỏ rồi kéo qua, âm thầm đứng bên gã. Một người cung kính nói:
- Đúng là Cao thám hoa tiên sinh đây rồi! Tiểu sinh nay mới thấy được Thái sơn. Vô cùng vinh hạnh! Gã nhìn mọi người dè dặt:
- Huynh đệ chắc lầm rồi. Ta chỉ là một hàn sĩ ngông cuồng, nào phải …
- Tiên sinh chớ khiêm nhường nữa! “Biên Cương Nộ Khí Phú” của người bốn biển vang danh, trẻ con cũng thuộc làu làu, huống chi là bọn tiểu sinh thuần việc bút nghiên?

Một kẻ khác:
- Tiên sinh tánh tình hào phóng, vậy có thể cho phép bọn bất tài nầy được ngồi uống cùng chén rượu được không?
 Cao (từ đây gọi là Cao) cười, nhẹ gật:
- Bốn biển đều là anh em. Các huynh đệ cần gì khách khí như vậy?
Thế là thịt đầy mâm, rượu tràn vò, liên tục chén tạc chén thù. Cao ái ngại:
- Các huynh đệ hôm nay muốn gặp kẻ tầm thường nầy chắc chẳng phải để uống rượu đó chứ? Có gì xin cứ nói thẳng ra thì hơn.
 Như mở cờ trong dạ, một người vừa đưa cho Cao một xấp thủ cảo, vừa nói:
- Chẳng giấu gì tiên sinh. Bọn tiểu sinh từ còn để chỏm đã miệt mài kinh sách. Vắt ruột gan, thi phú cũng được ngàn bài, mà tiếng tăm vẫn chưa ra đầu ngõ! Bèn cùng tâng bốc lẫn nhau, chỉ mong danh thoát ra thiên lý, mà hiệu quả không như mong đợi; lại còn làm trò cười cho thiên hạ! Nay, nếu tiên sinh chịu bỏ chút thời gian viết cho lời bạt, thì bọn tiểu sinh sợ gì tên chẳng vượt chín tầng mây?
 Cao nhận thủ cảo, lật vài trang xem rồi trả lại:
- Rất tiếc ta phải phụ lòng các huynh đệ!
 Cả bọn nhìn nhau, một người nói;
- Nếu tiên sinh thuận ý, thì hằng ngày sẽ có rượu thịt ê hề, áo gấm hài da. Tội tình gì rút trong lều cỏ, uống rượu suông như thế nầy?
 Cao cả giận:
- Với ta mà các ngươi còn đem lợi mà dụ ư? Cũng vì lợi mà bao người đã đánh mất lương tri! Quân tử vì lợi mà hóa tiểu nhân, Hào hán vì lợi mà thành vô lại. Quan vì lợi mà khổ cho muôn nhà; vua vì lợi mà họa cho lê dân trăm họ. Ta đã bỏ quan trường thì thiết gì danh, ham gì lợi, mà các ngươi lại đem ra trao đổi?
Nữ nhân bây giờ mới nói:
 - Nhưng tiên sinh cũng cho biết lý do chứ?
- Hừm!..  Lý do? (chỉ vào thủ cảo). Những thứ nầy là thơ, là văn đó sao?
Thấy cả bọn không vui. Cao nhẹ giọng:
- Người bình văn có lòng tự trọng không thể viết bừa; cũng như kẻ trước tác chớ vì lợi lộc, tiếng tăm mà chẳng từ thủ đoạn! Nhưng đã mấy ai làm được? Hãy xem bọn cầm bút chốn  kinh thành, hằng ngày mặc áo gấm hài thêu, ăn sơn hào hải vị, xuống ngựa lên xe. Hỏi ngân lượng ở đâu chúng có khi “văn chương hạ giới rẻ như bèo”? Nếu chẳng phải đành bẻ cong ngòi bút để tán dương phường vô lại, hay kể cả kẻ thù chiếm lấn biên cương? Đó là phường bồi bút! Hoặc ngoan ngoãn cúi đầu viết theo vương lịnh. Đó là hạng bút nô tài! Kẻ sĩ chân chính luôn đắn đo từng ý tưởng, để khỏi muộn màng khi xuống bút, giống như tên bật khỏi dây cung, làm sao bắt lại? Văn chương cũng không thuần là thứ để kẻ sĩ gởi gấm tâm tư; càng không phải để mua vui trong buổi trà dư tửu hậu; mà phải có chủ đích hẳn hoi. Dù chẳng là hùng binh nhưng cũng phải góp phần đánh đuổi giặc thù, dù chẳng phải gươm thiêng nhưng cũng phải chung vai đập tan cường quyền, bạo lực. Kẻ cầm bút phải có sứ mạng dẫn quần sinh tới chỗ toàn chân, đưa bá tánh đến nơi toàn mỹ. “Văn dĩ tải đạo” bao giờ cũng đúng.
 Nhìn cả bọn, Cao tiếp:
- Sáng tác nhiều chưa phải là hay, đó là chưa nói làm tốn hao giấy mực! Kẻ nào phân biệt được tác phẩm nào hay, tác phẩm nào dở thì cũng đáng quí rồi; Kẻ biết mình viết tồi, thì một ngày cũng được thăng hoa. Các ngươi đã dám nhận mình là dở thì rất đáng cho Cao ta bái phục! Chẳng bằng có hàng ngàn kẻ tự xưng mình là văn nhân thi sĩ, khoe khoang là người của “Khôi Nguyên Văn Bút”,  của “Bách Tú Tao Đàn”, mà văn viết khô như đơn thuốc, thơ đọc nghe điếc tai hơn tiếng mõ thầy chùa. Thế mà chưa hề biết dốt, lại xem mình như đỉnh Thái Sơn; dưới mắt không người. Những kẻ đó so với bọn ngươi, còn thua xa lắm.
 Cao đứng dậy cáo từ:
 - Ta có tật “rượu vào lời ra”, Các huynh đệ chớ chấp. Ta đi đây!
 3. Liêu trai kì ngộ
 Trăng thượng tuần lên cao,  ánh sáng vàng vọt cũng đủ xuyên qua mái tranh rách nát của người hàn sĩ đang uống rượu một mình trên án thư bề bộn bút mực giấy tờ. Ngọn đèn hiu  hắt vận cả sức tàn để chống chọi lại làn gió nhẹ của buổi tàn thu. Cao lấy tay che gió thì phát hiện hương thơm phảng phất, rồi ngơp cả phòng làm mất hẳn mùi ẩm mốc. Bèn nhìn lên thì thấy một bóng hồng đứng trước cửa tự lúc nào! Cao sững sờ. Bóng hồng thướt tha tiến tới, nhoẻn miệng cười, chấp tay, cúi đầu thi lễ, giọng trong như suối reo:
 - Kính chào tiên sinh! Tiện thiếp đường đột xin người chớ chấp!
 Dưới ánh đèn tranh tối, nhưng Cao cũng thấy được mỹ nhân áo lụa như mây, mặt xinh như ngọc, mắt phụng mày thanh, môi thắm như hoa, dung nhan thoát tục. Cao chưa hết bàng hoàng; nữ nhân bèn tiếp:
- Nghe đại danh như sấm ngang trời, lòng hằng ước ao diện kiến, ngặt vì quan san cản lối hài hoa. Nay Bắc Đẩu chói lòa ngợp đất Trường An, lòng hối thúc không sao cầm được, đành đạp tường giáo huấn, bẻ cửa Nho phong, mong cùng được tiên sinh uống chén Mao Đài, ngâm câu chánh khí, phỏng có được chăng?
Giọng nàng như oanh hót mà nghi phong xem chừng đáng bậc anh thư. Cao kính nể đôi phần:
 - Ta chỉ sợ mái tranh nầy không đáng tiếp chân nàng!
- Chỉ có kẻ thất phu mới đánh giá trị một người bằng dáng vẻ bên ngoài. Nhìn bao cẩn ngà thì cứ cho rằng bên trong là bảo kiếm, đó là phường giá áo túi cơm; nhìn người áo vải lại cho là hạng tầm thường, đó là bọn có mắt không tròng!Tiên sinh nghĩ thiếp là hạng người nào vậy?
 Bèn lấy trong túi gấm, chất đầy mâm sơn hào, mỹ tửu. Cao chợt nói:
- Ta không thể uống rượu mà không biết người đối diện với mình là ai. Dám hỏi…
Nữ nhân nghiêm giọng:
 - Thiếp là Liên Hà, phụ thân là Trần Viết Bình…
 Cao trố mắt, đứng phắt dậy: - Trần Án Sát đại nhân? Chứ không phải ngài cùng gia quyến đã bị đày ra biên ngoại đó sao?
Đôi mắt kiều nữ đượm buồn. Cao ngậm ngùi:
- Cây ngay bị đốn trước! Người trung can nghĩa khí lại bị  hãm hại, tù đày! Đây là thời gì vậy? Nhưng may mắn nào… tiểu thư lại thoát được về đây?
 Liên Hà cắn nhẹ môi như cố nén niềm chua xót:
- Chuyện dài dòng lắm không thể phút giây mà kể hết. Hơn nữa, thiếp không muốn tiên sinh bận lòng về chuyện của  gia quyến thiếp mà mất vui cho cuộc hạnh ngộ nầy.
Bèn rượu rót tràn tràn. Lời lời châu ngọc. Chén tạc chén thù., xem chừng tâm đầu ý hợp lắm. Liên Hà uống rất hào, rượu hâm hồng đôi má làm nàng càng đẹp não nùng. Dáng mai lả lướt mà mỗi lời bung ra đều mang tánh khí trượng phu:
-  “Muốn giục ngựa hồng tung thẳng vó
Gươm thù khua mà hào kiệt ở nơi đâu?
Kinh điển năm xe đành đứng ngó,
Nhìn giang san mà thẹn với Vũ Hầu!”
Rồi dòng châu lả chả. Cao buốt cả lòng, thương cho kẻ trâm anh mà lặn hụp chốn phong trần. Liên Hà lại rót tràn, hai người cùng uống. Rượu vào, văn chương thi phú cứ mãi tuôn ra. Cao cao hứng nói:
- Được cùng tiểu thư uống rượu hôm nay thì thế gian nầy không còn người cho ta đối ẩm nữa rồi!
Và rượu cũng cạn bầu. Hai người đều say khướt.
Không biết đến lúc nào, nhưng khi nghe bên ngoài tiếng vỗ cánh của cú ăn đêm và ngọn tàn thu lạnh lùng làm chàng chợt tỉnh. Cao choàng tay qua lấy chăn; xúc giác là lạ, vội mở mắt ra, kinh hoàng khi thấy Liên Hà nằm bên với yếm đào lệch lạc đang thiêm thiếp giấc nồng; rồi nhìn lại mình, mình trần trùi trụi. Cao bưng đầu kêu khổ:
- Ta đắc tội rồi! Liên Hà cười khúc khích:
- Vậy thì thiếp cũng đắc tội với chàng! Vạn sự tùy duyên, có chi mà ngại?
Bèn ngồi dậy. Yếm đào rơi xuống. Cao vội nhắm mắt, quay mặt, để tránh đôi bồng đảo thanh xuân lộ lộ. Liên Hà bảo:
- Biết tháo ra mà không biết buộc vào mới là đắc tội!
Cao chần chừ. Nàng đổi giọng dỗi hờn:
- Không buộc lại giùm thì thiếp để nguyên vậy mà về đó!
Nghe những lời phóng khoáng của Liên Hà, Cao cũng bình tâm lại đôi phần. Đang run run mân mê dây yếm  thì bất ngờ bị Liên Hà tát mạnh vào tay; lại cười nghiêng ngửa:
- Lại định buộc vào thật à? Ai đời kẻ đã từng  to tiếng “mắng bọn tham quan”, thẳng tay “điểm mặt quân thù”,  mà lại khù khờ đến thế?
Rồi vật Cao xuống. Bây giờ Cao mới thực sự đắm đuối và ngây ngất bởi hương thơm từ hình hài diễm tuyệt của nàng toát ra. Hiểu được ý Cao; Liền  Hà giải thích:
 - Từ khi vừa chào đời, da thịt thiếp đã thơm ngát hương sen. Phụ thân đặt tên thiếp là Liên Hà vì lẽ đó!
Ngoài trời trăng sao trong vắt mà trong phòng lại “mưa gió” tơi bời. Gà chợt gáy canh năm, Liên Hà hốt hoảng bật ngưới ngồi dậy, choàng vội xiêm y, hối hả lược giắt trâm cài mà miệng vẫn tươi cười; ánh mắt bén ngót nhìn sang Cao, tủm tỉm:
- Tên cuồng sĩ thô bạo nầy làm tiểu thư ta quên mất cả thời gian! Ngày mai ngươi biết tay ta!
 Cao sững sờ, chưa kịp hỏi lời nào thì thoắt một cáí, Liên Hà  mất dạng!
Tối hôm sau quả nhiên Liên Hà đến, mặt hoa rạng rỡ. Cao cả mừng, vội bế nàng vào phòng. Liên Hà giẫy nẩy:
- Tên cuồng sĩ nầy nay sao hung hãn như giặc phương phương Đông vậy?
Sau cơn mưa gió, Liên Hà nghiêm nghị nói, giọng sắc như dao:
 - Từ nhỏ thiếp sống trong quan phủ, luôn buộc ràng trong khung phép lễ nghi, chưa hề biết mùi ong bướm. Thế mà nay vì quý chàng là kẻ tài hoa, trọng chàng là người trí dũng mà cột tự đến tìm trâu. Chớ cho là liễu ngõ hoa tường, e không phải lẽ!
 Cao tha thiết:
- Ta dù chưa chứng huệ nhãn, nhưng cũng tự hào nhìn được ruột gan của kẻ đứng sau tường! Ta trọng nàng là cân quắc anh thư, khác hẳn với phường hồng nhan yểu điệu, tối ngày chỉ biết trau chuốt dáng người, tô điểm phấn son. Ta kính yêu nàng không hết, nàng bất tất nói những lời khó nghe như thế mà làm tổn thương ta.
Liên Hà ôm Cao vào lòng, vui vẻ nói:
- May mắn cho thiếp đã chọn chẳng lầm người. Được một tri kỉ như chàng rõ là không uổng một đời má hồng trang điểm, mài miệt bút nghiên.
4. Thành hoàng xuất hiện
Nhưng rồi liên tục nhiều hôm Liên Hà không đến, Cao ban ngày vào ra trông ngóng, đêm về thì uống rượu đợi chờ cho tới canh hai; mà phương trời vẫn biền biệt bóng chim. Dung quang lẹ làng héo úa. Một tối đang ngồi nhắm rượu với lòng buồn vời vợi,  nghe ngoài hiên sương rơi lộp bộp như  tiếng bước chân trên xác lá khô. Lòng khấp khởi mừng thầm. Liếp cửa lay động, nhưng lại là một hảo hán râu hàm tua tủa, hắn vừa bước vào vừa nói; giọng như chuông ngân:
- Lão bằng hữu nay uống rượu không mời ta sao?
Lão bằng hữu nay uống rượu không mời ta sao?
Cao định thần nhìn, hơi chột dạ khi nhận ra mặt hảo hán y trang như pho tượng Thành Hoàng quen thuộc ở thôn Ngưu dạo nọ! Cao đứng dậy vái chào; bình thản nói:
- Lâu quá không gặp! Thần nhân có muốn lấy mạng kẻ ngông cuồng nầy thì cũng đợi uống xong tuần rượu đã!
Thành Hoàng đặt mạnh hai vò rượu lớn xuống bàn; dằn thêm mấy đùi dê luộc, cười lớn:
- Từ lâu ta đã nợ lão bằng hữu khá nhiều rượu thịt. Nay không cho ta trả lại, thì ta lấy mạng thật đó! Ha ha! Hừm! “Thần nhân” cái con quái gì! Cứ gọi nhau là huynh đệ cho dễ nghe hơn: Ta là Ngưu huynh, đệ là Cao đệ. Được không? Hà hà!
Lời Ngưu phóng khoáng, Cao nghe nhẹ cả ruột gan. Tị hiếm thần- người phút chốc tan biến mà tưởng chừng như thân thiết tự lúc nào!  Ngưu chỉ vào chén rượu trước mặt Cao:
- Uống rượu bằng chén đút sữa cho hài nhi mà đòi “Uống Rượu Với Tống Giang” sao? Ha ha!
Nói xong cầm đùi dê mà xé, bưng vò mà ực. Rượu tuôn ướt cả hàm râu tua tủa, cả chiếc áo dày bụi phong trần, dơ bẩn như pho tượng tại miếu Thành Hoàng cả năm mới được một lần tắm rửa! Cao cũng chẳng vừa, tu liền một phát. Cả hai lấy tay quẹt miệng:
- Sảng khoái!
- Sảng khoái!
Lúc rượu tàng tàng, bỗng Cao bưng mặt rấm rứt. Ngưu thản nhiên nói:
- “Giang sơn vô lệ khấp anh hùng”, nhưng anh hùng thừa lệ khóc giang san!
Cao lau mắt:
- Non sông đang nằm trên chào dầu sôi, mà ta ngày đêm uống rượu, đệ thấy làm nhục lắm!
- Ta thì có chí hướng của ta. Còn đệ thế nào?
- Thái hậu nắm đại quyền mà mắt mờ như cú ban ngày, lại còn thích lời ton hót. Quần thần thì đa phần thủ cựu, tham lam. Hoàng đế vì đi theo biến pháp của Khang, Lương tiên sinh mà phải bị giam cầm (1898- chính biến Mậu Tuất). Phong trào Duy Tân tan rã, nhưng đã đánh thức lòng kẻ sĩ muôn nơi. Đệ cũng phải theo con đường đó mà thôi! Bằng không...
- Bằng không khi tổ quốc nằm trong tay giặc thì chúng sẽ làm thịt tên cuồng ngông “Biên Cương Nộ Khí” mà nhắm rượu đó! Ha ha . Ngưu nói lớn:
- Vậy phận ai nấy lo. Giờ uống rượu đã!
Cả hai bèn nốc cạn, rồi cùng đập tan bầu. Ngưu dứt khoát:
- Ta đi đây! Hẹn tái kiến!
4. Ba sinh hương lửa
Rồi vù như cơn lốc, mất hút. Cao còn bâng khuâng, miên man nghĩ ngợi, thì gian phòng bỗng ngợp hương sen. Liên Hà đến. Cao mừng vui ra mặt, không thốt được lời nào. Liên Hà nhìn quanh, nhăn mặt:
- Y như là bãi sa trường.! Thần nhân uống rượu có khác!
Cao nhìn nàng. Hiểu ý Cao, bèn nói:
- Thiếp đến từ đầu hôm nhưng thấy hai người uống rượu nên không tiện vào đó thôi.
Bèn tự tay quét dọn tươm tất, rồi lấy một gói thuốc bột pha vào nước, bảo Cao:
- Đây là “Giải tửu chỉ phong tán”.Phụ thân thiếp thường dùng khi quá chén đó.
Cao đón lấy, cười cười nói:
- Được thấy mặt nàng thì bao nhiêu rượu trong người ta cũng  tan biến hết!
Liên Hà điểm nhẹ ngón tay vào trán Cao:
- Tên cuồng sĩ nầy biết nói nịnh từ bao giờ vậy? Đừng lắm chuyện nữa, thời gian chẳng còn bao nhiêu. Nghỉ sớm đi thôi!
Đêm đó hương lửa càng nồng, nhưng đến canh năm nàng cũng vội vã ra đi; Cao níu áo nàng:
- Nàng ở lại luôn đây có phải hơn không. Tôi tình gì mà tự làm khổ mình như vậy?
Liên Hà cười ngất:
- Chứ không phải sợ thiếp không đến nữa à? Mới hay, tình yêu làm cho trí sĩ cũng hóa dại khờ; anh hùng hảo hán cũng hóa ngu ngơ! Chàng ở trường hợp nào vậy?
 Cao chữa thẹn:
- Còn với hồng nhan thì sao?
Liên Hà liếc dài:
- Thì dám trốn cha trốn mẹ để đến với chàng đây!
Nói xong, vụt ra cửa, để lại hương sen quyện đặc cả phòng. Rồi đêm nào cũng đến. Có nàng nói nói cười cười, không khí gian nhà sôi động cả lên. Nhưng một lần mặt hoa lại ủ dột, vóc liễu xanh xao. Cao hỏi mãi, nàng mới cầm tay Cao đặt trên bụng mình mà rằng:
- Tại cái nghiệp chướng nầy đây!
Cao mừng rơn, nhưng Liên Hà lại châu rơi lã chã. Cao vỗ về:
- Hay là nàng sợ búa rìu dư luận, lễ giáo gia phong đổ ập xuống nàng? Ta lại để nàng thiệt thòi thế hay sao?
Liên Hà lắc đầu:
- Những thứ tầm thường ấy không làm gì thiếp được đâu! Có điều chúng ta không còn nhiều thời gian nữa!
- Sao nàng lại nói những điều không hay như vậy?
 Liên Hà lau vội mắt, nghiêm giọng nói:
- “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Nay giặc đã tràn đến kinh thành. Hoàng đế anh minh đã bị mụ già Từ Hi bức tử. Đất nước đang hồi điêu đứng mà lại nằm trong tay một đứa trẻ còn bú sữa Phổ Nghi thì thế cuộc làm sao cứu vãn? Bên ngoài súng giặc ầm ầm mà triều nội quan liêu vẫn còn mê ngủ, tìm trăm phương ngàn kế để mưu cầu lợi ích riêng tư; tham vị cố quyền cho con cháu đời đời hưởng lộc! Mà chẳng hề biết “nước mất nhà tan”! Kết bè kết phái mà củng cố quân quyền, chánh vị, chẳng cần biết “hiền tài là nguyên khí quốc gia”; bỏ ngoài tai “vạn ngôn biến pháp”. “Biên Cương Nộ Khí” của chàng là lưỡi gươm đâm nhói dạ quân thù, là bó đuốc thắp sáng lòng yêu nước, thì nơi nầy chẳng phải là chỗ ở lâu dài. Thiếp đã trộm biết chí hướng của chàng, mà sao giờ nầy chim bằng vẫn chưa tung gió? Đừng vì chút quyến luyến thường tình mà đắc tội với non sông.
- Nhưng thân thư sinh trói gà không chặt này, thì ngoài việc cầm bút để viết mấy bài thơ lếu láo ra, còn làm gì được?
Nàng nghiêm giọng:
- Chàng thử lòng thiếp đó phải không? Những lời chàng nói với Thành Hoàng, thiếp đã nghe không sót một lời. Hảo hán chẳng cần kẻ vai u thịt bắp; anh hùng nào tị hiềm người bạch diện thư sinh? Thanh gươm có thể chiếm được thành trì nhưng không thể vỗ yên trăm họ! “Biên Cương Nộ Khí” của chàng là tiếng trống thúc quân, là ngọn lửa nấu sôi lòng yêu nước, là ngọn lưỡi đao chém thẳng vào mặt quân thù, khiến chúng ngày ăn đêm ngủ không yên. Điều nầy không nói lên sự uy dũng tuyệt vời của ngòi bút hay sao? Ngưng một lát, bèn tiếp:
- Thân của chàng không đủ cho chúng làm “mồi” một bữa rượu đâu. Hãy kíp mà lo!
Cao ngần ngừ:
- Ta đã có dự tính rồi, nhưng mà… còn nàng, còn giọt máu của chúng ta?
Nàng cau mặt:
- Nam tử anh hùng, đầu đội trời, chân đạp đất thì chớ vướng bận những chuyện thường tình như vậy! Chuyện an nguy của tổ quốc mới là trọng đại. Phần thiếp, chàng hãy an tâm, thiếp có muốn chết lần thứ hai cũng chẳng được đâu!
Cao trố mắt , kinh ngạc tột cùng:
- Nàng nói gì lạ vậy? “Chết lần thứ hai”?
Mặt hoa ủ dột nhưng thần sắc cương nghị lạ thường:
- Bây giờ thì không thể giấu chàng nữa được rồi! Thiếp chẳng phải là người!
- Nàng!
Liên Hà rấm rứt:
- Trần gia bị đày ra biên ngoại. Dọc đường gian thần cho sát thủ theo giết sạch cả nhà, mà thiếp còn sống được sao?
Chợt nhìn Cao đắm đuối, mỉm cười, miệng vẫn đẹp như hoa:
- Lại sợ con ma nầy móc ruột, moi tim à?
Cao ôm chặt nàng vào lòng:
- Dù yêu tinh quỷ quái ta cũng chẳng sờn, huống chi chỉ là con ma đáng yêu nầy!
Rồi mây mưa một trận tơi bời, giường nghiêng chiếu lệch. Tàn cuộc thì sao mai cũng vừa ló dạng. Tiếng gà trong xóm liên tục gáy vang. Nàng vội kéo Cao dậy, rồi đột nhiên cắn nhẹ vào cổ tay chàng, đoạn nói:
- Để chàng nhớ mãi đến thiếp!
Tức thì ở chỗ vết cắn hiện lên hình một đóa sen hồng, lại phảng phất hương thơm thoang thoảng. Gà lại gáy rộ. Nàng vôi vàng sửa lại xiêm y, ngậm ngùi:
- Thời gian không còn nữa. Thiếp đi đây!
Cao nắm lấy tay nàng, buồn đau hiện đầy môi mắt. Nàng xỉ ngón tay nhẹ vào trán chàng, cười cười: Thiếp có… chết đâu mà mặt mày như đưa đám vậy? Ngày trùng cửu năm Nhâm Tí hẹn nhau tại miếu Thành Hoàng. Chàng chớ quên!
5. Tái ngộ
Cách nạng Tân Hợi thành công (1911), đế chế Thanh triều sụp đổ, hoàng đế Phổ Nghi thoái vị, bè lũ gian thần kẻ bị giết, kẻ bị tù đày. Qua năm sau (1912 - Nhâm Tí), nhớ lời Liên Hà, Cao trở lại Ngưu Thôn.
Miếu Thành Hoàng xem khang trang hơn, khói hương nghi ngút. Hỏi thăm, người trong làng cho biết, “Ngài” rất hiển linh, Ngưu thôn võ thuận phong điều, bá tánh an cư lạc nghiệp.
Cao nhìn pho tượng được tô son thếp vàng, uy phong ngời ngợi. Đang kính cẩn rót rượu khấn, thì giọng ồm ồm quen thuộc, tiếp theo là tiếng cười ha hả:
- Kẻ mời rượu phải uống trước để xem có độc không đã! Ha ha!
Cao giật thót người, nhìn lên. Pho tượng bằng gỗ từ từ chuyển động rồi uyển chuyển bước xuống bục, vỗ nhẹ vai Cao mà chàng cơ hồ xương cốt như vỡ vụn ra:
- Hiền đệ! Đã lâu không gặp! Nay phải uống cho thỏa. Ta đang thèm rượu đây!
Cao cả vui. Thế là thịt bày đầy, rượu rót tràn, rổn rảng nói cười sảng khoái. Nhìn bộ dạng nốc rượu của Thành Hoàng, Cao cười:
- Rượu bá tánh cúng đầy mà xem chừng Ngưu huynh đói rượu lắm vậy?
- Hừ! Uống rượu mà không tri kỉ thì có thú vị gì!
Bỗng nghe hương sen thoang thoảng. Cả hai nhìn ra cửa, rồi cùng đứng lên với một thái độ khác nhau. Thành Hoàng thi lễ:
- Trần công nương giá lâm!
Cao nghẹn ngào:
- Hiền thê!
Liên Hà tươi cười, vừa thư thả bước vào, vừa chỉ đứa bé dẫn theo:
- Hãy xem có đáng là hậu duệ của Cao gia không nào?
Nhìn đứa bé dáng thông minh đỉnh ngộ, Cao tràn hạnh phúc:
- Thật vất vả cho nàng! Ơn Thái Sơn nầy…Thành Hoàng nôn nóng, ngắt lời:
- Chuyện ơn nghĩa không phải nói lúc nầy! Giờ uống rượu đã! Còn nhiều chuyện vui hơn mà hiền đệ chưa biết được đâu.
Theo lời Thành Hoàng, Đại nhân Trần Án Sát đã được phong hầu. Tử tôn đời đời hưởng lộc. Cao ngùi ngùi nhìn vợ:
- Dù sao, nơi dương gian nầy nhạc phụ cũng không người nói dõi. Hay là ta cho con mang họ Trần, và đặt tên là Bảo Bảo, nghĩa là vật quý nhất của vợ chồng ta. Hiền thê nghĩ thế nào?
Liên Hà rưng lệ, lặng thinh. Thành Hoàng cười lớn:
- Ha ha! Vậy mới gọi là NGHĨA chứ! Được cùng đệ kết nghĩa anh em, đời ta không phí! Ha ha! Hãy uống mừng sum họp đi nào!
Bèn dốc cả bầu, rượu tràn ra miệng, tuôn xuống ướt cả râu, cả áo. Vài mươi bận như vậy thì giọng lè nhè:
- Không có gì vui bằng vợ chồng đoàn tụ. Hiền đệ và đệ tức (em dâu) cứ xem đây là nhà của mình. Ta có tật khi say trời gầm cũng không biết. Chớ lo!…. Hề hề!
Rồi ôm Bảo Bảo Vào lòng:
- Cháu ngoan! Tối nay ngủ với bá bá nhé!
*
Trong đời lang bạc, ta thượng được nghe những chuyện li kì. Mùa xuân năm Bính Ngọ có dịp hồi kinh, ta bèn đem chuyện trên kể cho ân sư là La thượng thư. Nghe xong, người bảo: “Đây cũng là chuyện lạ, ngươi hãy viết tiếp vào “Tứ Phương Kì Truyện” cho hậu thế mua vui”

KHA TIỆM LY
(KTNN SỐ 840)


Nguồn: Email của TG KTL gửi lamngoc
Cảm ơn anh Kha Tiệm Ly đã gửi tặng các độc giả một truyện ngắn hay.




Thứ Tư, 19 tháng 2, 2014

BẾN TRE






BẾN TRE

Đại lộ Đồng Khởi là con đường huyết mạch từ cầu Rạch Miễu  dẫn vào TP Bến Tre. Con đưởng rộng lớn khang trang với hai bên lề đi bộ rất rộng và sạch sẽ Khu vực này trước kia thuộc xã Phú Khương ,nơi mà 40 năm trước hồi còn đi học trung học NM ra ở nhà người cậu để trọ học. Hồi đó mình rất nhỏ con và ốm yếu nhà ở tuy không xa trường mấy , chỉ cách tỉnh lỵ khoảng bảy cây số nhưng phải qua một cây cầu sắt dài và rất cao mà ‘’trẻ con’’ như mình dù rất thích cùng với bè bạn đạp xe để đi học nhưng người nhà lại không cho .Thời chiến tranh nơi mình sống là một cái xã nhỏ mà  con sông ngăn chia hai vùng đất của hai phía đối địch , cây cầu sắt cứ thỉnh thoảng bị giựt sập phải đi đò, học trò trung học mặc áo dài trắng lội bùn xuống bãi đậu đò thật là vất vả. Đò chở học sinh qua sông (đúng ra là một con kinh lớn nối liền hai con sông cho tàu bè qua lại dễ dàng)không lấy tiền nên phải chen lấn dành nhau xuống ghe , thật là vất vả và nguy hiểm.
Lên sống ở nhà cậu vùng này lúc đó cũng còn hoang vắng , hai bên là vườn dừa và có nhiều khu nghĩa địa ,đèn đường lại chưa có. Đi học luyện thi về nhà ban đêm ,đèn xe đạp không đủ sáng ,phải xài đèn pin , vừa sợ ma chết lại vừa sợ ma sống.
Bây giờ trở lại quá mức đổi thay , một khu phố thương mại sầm uất , xe cộ thì đông nghịt , ngôi chợ nhỏ ở ngã tư mà các bà nhà vườn cứ mỗi sáng mang rau quả trồng ở nhà vườn ra bán bây giờ không còn nữa ,muốn tìm lại các gánh xôi , gánh bánh gói lá chuối thơm phức cũng không còn. Ơi những món quà nhà quê dân giả mà cái thời đi học có đôi lúc  không dám ăn vì phải cắt xén từng đồng để mua sách , và lâu ngày không thấy cô nhỏ ra mua  bánh, chị bán hàng cũng trông ngóng hỏi thăm,cho đến hôm gặp mặt ,lại đưa gói quà nhiều hơn một chút tặng thêm cô bé. Cái tình nghèo sao mà thân thiết thế
Thời gian thay đổi bộ mặt thành phố cũng đổi thay đẹp và sang trọng giàu có nhưng kỷ niệm cũ thì như còn vương vấn lại trong lòng để người ở phương xa một lần trở lại còn nhắc nhở…



ẢNH BẾNTRE VỀ ĐÊM













THÀNH PHỐ ĐỔI MỚI -ĐẠI LỘ ĐỒNG KHỞI









MẶT BẰNG PHÍA TRONG SÂN NGÔI ĐÌNH CỔ ĐÃ CHO MỘT CƠ SỞ TRỒNG HOA THUÊ VỚI NHIỀU LOẠI KỲ HOA DỊ THẢO















CON ĐƯỜNG RỘNG VÀ SẠCH NÀY TRƯỚC KIA LÀ CON ĐƯỜNG ĐẤT








MỘT CƠ SỞ THUỐC NAM PHƠI THUỐC NGOÀI LỀ ĐƯỜNG

RỪNG DỪA TRONG THÀNH PHỐ












MỘT ĐƯỜNG CỐNG VỚI MẤY CÂY DỪA NƯỚC HIẾM HOI TRONG THÀNH PHỐ

HÀNG RÀO TRÀ CỦA NHÀ CẬU TRỒNG CÁCH ĐÂY HƠN NĂM CHỤC NĂM



VƯỜN RAU LANG SẠCH




Thứ Ba, 18 tháng 2, 2014

MÀU HOA ĐỎ - HOÀNG YÊN LYNH










MÀU  HOA  ĐỎ .

Tôi chưa một lần đặt chân đến Hãi Phòng nhưng qua sách vỡ , báo chí tôi đã nghe về một thành phố Hoa Phượng Đỏ  ... Tôi không thể hình dung màu hoa phượng đỏ ở đó thế nào , có rực rỡ , óng ánh một màu đỏ ngút mắt trên đường phố , rợp một màu đỏ loang theo ánh nắng chiều ...  Nhưng ở một thành phố trên cao nguyên tôi đã bắt gặp những con đường có những hàng cây phượng vĩ nối tiếp nhau như những hàng phượng rực đỏ trong thành nội Huế . Và mỗi khi hạ về ,khi ánh nắng xóa tan những làn sương núi chập chùng ban mai đã nghe râm ran tiếng ve và màu hoa đỏ đã tràn ngập trên phố . Ai đã từng đi qua thời cắp sách hẳn không khỏi thấy lòng bâng khuâng , xao xuyến khi bắt gặp những chùm hoa phượng đỏ bay bay đong đưa trong gió . Ký ức của một thời xa vắng lại  về . Vâng , mùa hạ , tiếng ve và màu đỏ của hoa phượng là dấu ấn của tuổi học trò , là biết bao kỷ niệm êm đềm bên trường cũ , bạn xưa . Có một chút ngậm ngùi lẫn xót xa khi nhìn những tà áo tung bay trong gió nhắc nhớ hình ảnh của một thời nay đã xa vắng khi mà tuổi đời chồng chất và lối đi về ngày mỗi ngày ngắn lại ...
Nỗi nhớ đưa tôi về vùng trời kỷ niệm . Con phố nhỏ Đông Hà nơi ngã ba Trịnh Minh thế  - Trần Hưng Đạo phía trước cổng chùa có cây phượng già . Tôi không biết cây phượng có từ lúc nào , đã đi qua bao nhiêu năm tháng ... nhưng với tuổi thơ của tôi cùng đám bạn bè tuổi nhỏ vẫn thường trèo lên cây phượng hái những chùm hoa đỏ rực khi mà tiếng ve râm ran báo hiệu hè về , khi mà cái nắng , cái gió hạ Lào lướt qua thị trấn buồn hiu . Cây phượng già đó , cánh cổng chùa rêu phong đó đã đi theo năm tháng của tuổi học trò cho đến khi tôi ra đi . Từ ngã ba nơi cây phượng già nhìn lên phía trên , dọc đường Trần Hưng Đạo là ga xe lửa của một thời còn thanh bình khi mà mỗi buổi chiều , đám trẻ con chúng tôi lắng nghe tiếng còi tàu rít lên , âm thanh vang vọng khi con tàu chầm chậm vào sân ga...chúng tôi ngẩn ngơ ngắm nhìn cảnh chiều với bao người đi , kẽ ở . Cái sân ga buồn mà sau này người bạn văn đã quá cố Phan Công Tâm đã viết  bài bút ký với tựa đề Ga Cuối Đường Tàu vào cuối những năm 60 đăng trong trang văn nghệ của báo Công Luận . Ký ức vẫn còn nguyên vẹn trong tôi mà người xưa nay kẽ còn người mất .
Hơn 40 năm đã trôi qua để có thể viết hai chữ ngày xưa cho quá khứ . Vâng , những bạn bè tôi một thời của nhóm văn nghệ Đông Hà thuở nào ... Một Phan Công Tâm , một Tạ Nghi Lễ , Phan Bá Vinh ... Đông Hà những năm cuối thập niên 60 chiến tranh đã vọng về nơi phố thị nhưng chúng tôi , lứa học trò với tuổi đời mới lớn vẫn còn những mộng mơ . Khi tiếng ve báo hiệu mùa chia tay , chúng tôi tạm gác lại bút nghiên để vùi đầu vào những trang viết , những bài thơ được dệt lên từ tâm hồn mơ mộng của tuổi học trò Ngày đó , bên quán cà phê chúng tôi đọc cho nhau nghe từng trang bản thảo . Ký ức về người xưa bạn cũ còn đó . TNL trầm tĩnh nhưng sôi nỗi mỗi khi nói chuyện văn chương . PCT dịu dàng và như lúc nào cũng mang nặng nỗi buồn , PBV như là người anh của nhóm và Đông Hà , ơi con phố  với dăm ba con đường thân quen , những lối đi qua xóm nhỏ để mọi người nhận ra nhau trong từng niềm vui nỗi buồn . Và rồi với năm tháng đi qua  , chúng tôi giã từ mái trường để lại bao kỷ niệm bao ước mơ  rồi như đàn chim tung cánh đi vào khung trời đầy phong ba bão tố . Tôi , PCT , PBV xếp bút nghiên theo việc đao cung . TNL xa Đông Hà vào Saigon tiếp tục con đường chữ nghĩa ... Tình bạn , tình văn nghệ đó đã theo chúng tôi suốt những năm tháng gian khổ , nhọc nhằn với không ít những đắng cay , tủi hận. Khi dấu chấm hết của cuộc chiến cũng là lúc chúng tôi tan tác , mỗi đứa một phương. Những năm tháng trong trại , những buổi chiều hắt hiu nhìn qua hàng rào nơi núi rừng xanh thẳm không biết số phận cuộc đời rồi sẽ ra sao , chúng tôi nhớ về nhau với mong ước một lần gặp lại ... Để rồi dẫu qua bao nhiễu nhương , biến loạn . Cuộc đời có đổi thay chúng tôi cũng đã gặp lại nhau dẫu cuộc sống nay đã vật đổi sao dời . Tình bạn , tình văn nghệ đó vẫn là khúc ca nồng thắm cho đến khi trong chúng tôi có người ra đi vào cõi vĩnh hằng . Tôi không thể nào quên lần TNL  đến thăm tôi , vừa đi vừa hỏi đường tìm đến cái Mỏ Đá chơ vơ bên triền đèo Bảo Lộc , ánh mắt ngỡ ngàng nhìn tôi đang lui cui đập đá dưới cái mái tranh che mưa nắng  " Sao ông lại thế này ... " . Câu nói đó TNL hỏi mà như không hỏi vẫn đeo đẳng tôi cả đời . Vậy mà khi TNL qua đời phải mấy năm sau tôi mới viết được bài thơ vĩnh biệt bạn . Mỗi đau cứ dai dẳng mà không thể viết lên được . Và với Phan Công Tâm một lời hẹn sẽ gặp lại nhau khi đến thăm tạm biệt tôi lên đường xa xứ để rồi không bao giờ thực hiện được . Chỉ mấy năm sau PCT giã từ cuộc sống nơi tận xứ người ...
 Chiều nay trên vùng đất cao nguyên này , nhìn màu hoa đỏ tôi lại nhớ đến ngày xưa , đến những người thân yêu trong cuộc sống . Màu hoa đỏ , áo trắng học trò và những câu thơ tình đầu đời viết trong mơ mộng và cả trong những mối tình tưởng tượng  ... Thế hệ chúng tôi , những cậu học sinh của tỉnh nhỏ chỉ dám bước theo xa xa ngắm nhìn những cô nữ sinh thướt tha tà áo dài trên đường tan trường  và rồi ... đêm đêm vùi đầu vào giấc mơ , vào hình ảnh của những nàng tiên dịu hiền và tự an ủi cho mối tình đơn phương , thầm lặng không bao giờ dám ngõ ...
Bây giờ trên con phố cao nguyên , tôi ngắm nhìn những tà áo trắng bên hàng phượng đỏ vẫn thấy lòng mình xao xuyến . Và bất chợt thở dài . Quá khứ vẫn còn đậm nét trong tim mà tuổi đời đã nặng hai vai . Tất cả đã là một thời xa vắng ...
"  Màu hoa phượng thắm như máu con tim , mỗi lần hè thêm kỷ niệm , người xưa biết đâu mà tìm ... " Cái cảm giác bồi hồi xao xuyến vẫn còn trong tim  , dư âm ngày cũ vẫn còn vương vấn mỗi khi nghe lại bài hát năm nào . Bài ca đó không còn là một ca khúc mà nó mang theo cả một trời kỷ niệm . Mùa hè chia tay ...Chiến tranh và tan tác và nhớ về bạn bè khi có đứa phải ra đi mà chưa một lần cảm nhận hương vị của tình yêu ... Vâng , thế hệ chúng tôi mang nặng nỗi buồn chiến tranh .
Màu hoa đỏ với buổi chiều trên cao nguyên lộng gió lắng nghe quá khứ thì thầm , để hình ảnh bạn bè trường xưa trở về và tiếng ve mùa hạ muôn thuở vẫn là tiếng ve sầu chia ly , của những dấu chấm buồn trên suốt quảng đời xuôi ngược và bây giờ tuổi đời xế bóng  " ... người xưa biết đâu mà tìm ... 
"
                      Chùm hoa phượng đỏ màu nhung nhớ
                      Tôi gặp chiều nay trên phố đông
                      Có cánh hoa nào mang ép vỡ
                      Trang ký ức tôi tuổi học trò .

                      Ríu rít xôn xao tà áo trắng
                      Phố chiều lộng gió trắng màu mây
                      Có áo ai bay thòi xa vắng
                      Chợt về ... tóc đã trắng hơi sương .

                      Một chút gì thôi màu hoa đỏ
                      Chiều nay tôi gặp lại ngày xưa
                      Gặp cả khung trời hoa mộng cũ
                      Gặp cả tình tôi đã cuối mùa ...

                                                 
                         HOÀNG YÊN LYNH


Linh Hoang My
To Me
Today at 10:20 PM
Nguồn: email của tác giả HYL gửi lamngoc
NM cảm ơn TG HYL thường xuyên chia xẻ những bài viết hay.

Thứ Hai, 17 tháng 2, 2014

TRÊN BỤC GIẢNG MÙA XUÂN- THƠ LA THỤY, NHẠC THANH CHƯƠNG

VIDEO CLIP: HẢI ĐĂNG








TRÊN BỤC GIẢNG MÙA XUÂN
NHẠC:THANH CHƯƠNG
THƠ:LA THỤY
TRÌNH BÀY:SAO MAI



     TRÊN BỤC GIẢNG MÙA XUÂN
                         Tơ xuân nhè nhẹ rải
                         Lộc biếc khẽ đâm chồi
                         Đất trời nghe phơi phới
                         Hoa xuân hé môi cười.

                         Sương thu bao lần trải
                         Áo trắng sắc không phai
                         Một đời yêu phấn bảng
                         Thân thương tiếng giảng bài.

                         Nhặt cỏ vườn hoa bé
                         Nâng niu từng nụ hồng
                         Nhựa xuân rung se sẽ
                         Mộng hồn bay lâng lâng
                         Sắc hoa cùng thắm rộ

                         Ủ hương đầy bâng khuâng
                         Thì thầm tia nắng cựa
                         Nguồn thơ chợt trào dâng.
                                                    LATHỤY


    

Chủ Nhật, 16 tháng 2, 2014

ĐỢI CHỜ- THƠ NHÃ MY, NHẠC THANH CHƯƠNG








ĐỢI CHỜ
NHẠC :THANH CHƯƠNG
THƠ:NHÃ MY
TRÌNH BÀY:SAO MAI
VIDEO CLIP:HẢI ĐĂNG


NM CHÂN THÀNH CẢM ƠN NHẠC SĨ  THANH CHƯƠNG,NHẠC SĨ THÁI THÀNH(HÒA ÂM) CA SĨ SAO MAI VÀ ANH HẢI ĐĂNG

Thứ Bảy, 15 tháng 2, 2014

HOẠ THƠ LA THUỴ




THƠ ĐƯỜNG XƯỚNG HỌA


                                           




                       MÊNH MANG XUÂN RẰM

                  Rằm giêng vằng vặc ánh tơ ngần
                  Lấp loáng đào mai óng sắc xuân
                  Suối nhạc du dương nâng cánh mộng
                  Sóng thơ dào dạt dậy thuyền trăng
                  Tình đời thao thiết ngân se sẽ
                  Hồn biển bâng khuâng vọng khẽ khàng
                  Thi tứ trào tuôn dần lắng đọng
                  Đất trời giao cảm đẫm mênh mang
                                                        LA THUỴ


Bài  họa

                     RẰM XUÂN

                  Rằm giêng thưởng nguyệt dạ mang mang
                  Mộng tối nguyên tiêu chớm khẽ khàng
                  Thấp thoáng biển xanh vờn nhẹ gió 
                  Bâng khuâng sóng bạc nhuộm vàng trăng   
                  Hồn thơ lai láng nhen tình hạ
                  Điệu nhạc êm đềm gợi ý xuân
                  Thuyền nhỏ xa khơi con sóng vỗ
                  Tơ lòng dìu dịu sáng trong ngần
                                                   NHÃ MY




HOÀI CẢM

Cánh nhạn tung trời vun vút bay
Hồ trường dốc cạn đẫm men cay
Văn chương nợ ấy còn chưa trả
Giáo nghiệp phận này lại phải vay
Mộng đẹp chưa tròn mà bỗng tỉnh
Tình hồng chẳng vẹn chợt thêm say
Lá vàng bay lả ngoài song đó
Thoảng tiếng đàn ngân ai nối dây !?!

LA THỤY

Bài hoạ:

CỐ LÝ
Mây trắng ngàn xa lặng lẽ bay
Trông về cố lý mắt cay cay
Một trời thương nhớ mơ cùng hẹn
Vạn nẻo ân tình trả lại vay
Sáng sống tha hương đời cố tỉnh
Chiều trông viễn xứ rượu còn say
Chập chờn thực ảo nào ai biết
Lỗi nhịp đàn xưa sầu đứt dây !

NHÃMY

VỌNG CỐ HƯƠNG
Mây Tần dõi bóng dạ nao nao
Hồi ức miên man cuộn sóng trào
Quảng Trị đường xưa ươm kỷ niệm
La Gi phố mới vắng tâm giao.
Ly hương khắc khoải thương mưa Bấc
Biệt xứ bâng khuâng nhớ gió Lào
Trở gối chập chờn chao cánh mộng
Vọng về quê cũ dấu yêu trao.
LA THUỴ

GỞI BẠN
Họa thơ La Thuỵ
Xa xôi nhớ bạn dạ nôn nao
Ngày tháng trôi qua sóng cuộn trào
Khắc khoải hồn quê sầu cố quận
Âm thầm đất khách vắng thân giao
Lạnh trời đông cũ nghe mưa bấc
Nhạt gió thu nay tưởng nắng lào
Chốn ấy bi chừ ai có nhớ
Xin cùng nhau gởi mến thương trao

NHÃ MY

Thứ Năm, 13 tháng 2, 2014

ĂN TẾT VỚI MA


TRUYỆN NGẮN TRUYỀN KỲ

ĂN TẾT VỚI MA





 TÁC GIẢ : KHA TIỆM LY




1. Bỏ nghiệp kiếm cung

Thời Minh mạt, Hàm Phong, người Nhữ Nam, vốn dòng cung kiếm. Mười sáu tuổi đã làu thông thập bát ban. Một buổi đang luyện võ bỗng nghe từ biên cương phụ thân là Hàm tiên phuông cùng bào huynh đều tử trận, Hàm khóc rống lên rồi vứt mạnh bảo đao xuống đất mà rằng:

- Cái thứ vô dụng nầy còn đụng đến làm gì?

Hàm phu nhân cả giận, bảo:

- Tổ tiên ngươi mấy đời nhờ binh nghiệp mà rạng rỡ tông môn. “Đoạt Hồn Đao” nhà ta đã làm quân thù khiếp sợ. Nay ngươi đã không luyện cho tới nơi tới chốn để trả thù nhà, đền ơn nước, mà còn tỏ ý khinh thường. Tội bất hiếu ngươi có gánh nổi hay không?

Hàm đáp:

- “Làm cho quân thù khiếp sợ”, cớ sao phải bỏ mạng sa trường? Cho dù chiếm được nghìn vuông đất thì cũng phải đổi bằng hàng vạn cốt khô, có chi mà đáng tự hào? Xưa Khoái Triệt là kẻ trói gà không chặt, chỉ dùng ba tấc lưỡi giúp Vũ Tín Quân chiếm được liên thành mà chiến mã vẫn thảnh thơi nhai cỏ; Lịch Sinh là kẻ thư sinh bạch diện, chỉ hao một chút nước bọt mà giúp vua Hán chiếm gọn bảy mươi hai thành, ba quân không đổ một giọt máu tươi! Còn Hán Tín vai đầy thao lược, bụng ắp kinh luân; trong tay giữ muôn vạn hùng binh mà lại bị chết bởi kế mọn của một mụ đàn bà!  Đàng nào đáng phục?

Thấy mẹ không vui, Hàm bèn quỳ xuống, đầu chạm đất, thưa rằng:
- Mẫu thân bớt giận, chẳng qua con cũng chỉ vì Hàm tộc mà thôi! Hàm tộc nhà ta từ cao tổ đến nay, bốn đời đều thân phơi chiến địa, da ngựa bọc thây, mà cuối cùng có được những gì? Có chăng là những sắc phong màu mè “Tận Trung Báo Quốc” “Thạch Trụ Giang sơn”! Những thứ đó không đổi được vàng ròng thiên dật của những thái giám kề cận mình rồng, cũng không sánh bằng ruộng đất nghìn vuông của những cẩu quan hút máu moi tim đám dân cùng khổ! Khi thanh bình thì chúng dùng miệng lưỡi cú diều hãm hại trung lương; thời binh lửa lại co cổ rút đầu trước tên thù, đạn giặc! Mới hay kim khôi không bằng mũ cánh chuồn, trường bào luôn hơn áo giáp!

Hàm phu nhân im lặng mà nước mắt rơi rơi.

Năm Sùng Trinh thứ 3 (1630), mấy tỉnh phương nam bị dịch; Hoàng Hà đê vỡ; nhà vua vì tham lam, u tối, không chịu xuất kho cứu giúp, nên nông dân, dịch tốt uất hận, nổi dậy chống lại triều đình, đời sống nhân dân vốn điêu đứng lại càng bi thảm! Người chết đầy đường, cọng cỏ không có mà ăn., có nơi phải giành nhau đào xác người mới chôn mà lấy tim gan lót dạ; tệ hơn nữa là đổi con làm thịt! Tình người còn thua dã thú!

Trước nạn đó, Hàm bèn cõng mẹ về đất Lý, dựng chòi dưới chân Lý Sơn, ban ngày săn bắn, đổi gạo nuôi mẹ, ban đêm quyết tâm mài miệt sách đèn.

2. Khách không mời

Một tối đang sắc thuốc cho mẹ, Hàm bỗng nghe tiếng nói như oanh từ cửa:

- Vừa nghe bá mẫu quí thể bất an nên tiện thiếp sang vấn an đây.

Hàm quay lại, vô cùng kinh ngạc khi thấy một kiều nữ áo lụa thướt tha mà chàng chưa từng gặp bao giờ. Bất chấp vẻ sững sờ của Hàm, kiều nữ vội đến bên Hàm phu nhân đang nằm thiêm thiếp, đưa tay bắt mạch, đoạn mở thang thuốc của Hàm còn lại, bốc lên xem, nhăn mày bảo Hàm:

- Uống thuốc nầy chỉ tổ bệnh thêm! Thầy thuốc bây giờ một là thiếu tài, hai là lương tâm bị chó tha đi rồi!

Đoạn lấy trong tay áo một lọ thuốc màu xanh đưa cho Hàm:

- Hãy hòa vào nước cho bá mẫu uống sẽ khỏi ngay thôi!

Hàm cố giữ giọng ôn hòa:

- Làm sao ta tin được thuốc nàng đưa là thứ quỉ quái gì khi ta chưa biết nàng từ đâu đến?

  Hàm gia là ân nhân cứu mạng cả nhà thiếp, chả lẽ thiếp lại hãm hại ân nhân của mình sao?

Hàm nhất định không nghe, kiều nữ chỉ vào thang thuốc, dỗi hờn:

- Chàng chỉ biết luyện gươm, không biết gì về nghề thuốc, nếu có giải thích thì cũng bằng thừa! Đại để nếu uống thuốc nầy chẳng khác nào người tháo dạ mà lại cho uống bả đậu vậy!

Hàm quay đi, kiều nữ cắn môi:

- Nếu sau khi uống một khắc mà bá mẫu bị run người thì phải tự lo đấy!

Lại lấy trong tay áo một lọ thuốc màu vàng định đưa cho Hàm, nhưng rồi giận dỗi bỏ vào:

- Với kẻ ương ngạnh nầy thì có nói cũng vô ích thôi!

Đoạn bước nhanh ra cửa. Hàm thoáng ân hận, nhưng bóng hồng đã mất dạng.

Quả như lời kiều nữ, sau khi uống thuốc một chốc thì Hàm phu nhân run lên bần bật như kẻ ngồi trên đống băng, mồm lại láp dáp như kẻ mê cuồng. Hàm ôm mẹ khóc rống, thì kiều nữ từ cửa bước vào, giọng bề trên:

- Ta đã bảo mà không nghe!
Hàm vừa mừng vừa ngạc nhiên. Lại bảo:

- Là thầy thuốc, ta há vì một chút giận hờn kẻ vô tâm mà nỡ để cho con bịnh đau đớn hay sao?

Với thao tác thuần thục, kiều nữ  nhanh tay châm vào các huyệt Nhân Trung, Trung Quản, Nhâm, Đốc, Phong Trì… Mệnh Môn, Chí Thất… Dũng Tuyền, đoạn lấy  một chút thuốc (trong lọ màu vàng lúc nãy), pha với nước cho phu nhân dùng. Thuốc vừa khỏi cổ, phu nhân thở “khì” một cái, thần sắc dần dần trở lại hồng hào.  Kiều nữ bảo Hàm:

- Ngươi chớ lo nữa! Phu nhân đã hồi phục tám phần.

Hàm thi lễ:

- Đã trót mạo phạm, xin nàng chớ chấp. Ân đức nầy…

- Thiếp đã nói, Hàm gia  mới là ân nhân của cả nhà thiếp, thì chút công mọn như hòn đất làm sao bù với ngọn Thái Sơn? (nhìn ra ngoài) Trời ba mươi tối đen như mực, mà giờ nầy chỉ mới đầu canh. Chàng lại tiếc cho thiếp một chỗ ngả lưng sao?

Hàm bồi rối ra mặt, ấm úng chẳng ra lời. Kiều nữ than:

- Cái thân bơ vơ nầy có chết cũng vừa, ngặt vì làm mồi cho miệng sói rừng thật không đáng chút nào!
Rồi dợm bước. Hàm vội nói:

- Ta chỉ sợ mái tranh chật chội và giường chiếu đơn sơ không đáng tiếp nàng!

Kiều nữ mỉm cười:

- Người ta nói: “Bàn ăn mà có thêm đôi đũa thì cơm canh không phải nấu thêm”. Cái giường nầy hai người nằm vẫn còn rộng chán!

Bèn kéo Hàm cùng nằm. Phất tay áo làm tắt ngọn lửa của chiếc đèn đến hồi tàn lụn.

Đêm tối đồng lõa với hành động của hai người, nhưng lại tố giác tiếng cựa mình của chiếc giường và những tiếng rên khe khẽ - Tưởng chừng như của người bệnh -  nhưng Hàm phu nhân đã an giấc tự lúc nào!

Đầu canh năm nàng choàng dậy, thư thả điểm trang. Bấy giờ Hàm mới có dịp và có tâm trí ngắm nàng tường tận: Đó là một nữ nhi tuổi chừng đôi chín, mắt phụng mày ngài, má môi như điểm phấn tô son, tóc mây tha thướt, diện mạo cực kì xinh đẹp, cốt cách phi phàm. Nữ nhân liếc Hàm, tủm tỉm cười:

- Tưởng đâu tránh được sói rừng, nào dè gặp con sói nhà nầy càng kinh khiếp hơn!

Đoạn đưa cho Hàm hoàn thuốc:

Khi bá mẫu thức giấc, hãy cho người dùng “Định Thần Hoàn” nầy thì mọi việc không còn lo nữa!

Hàm ngồi phắt dậy:

- Nàng đi thật sao?

Lại cười, miệng đẹp như hoa:

- Giờ nầy sói rừng đã vào hang. Ở lại cho sói nhà nhai xương à?

Hàm nắm tay nàng:

- Ta không cam tâm khi chưa biết danh gia, quý tánh của nàng!

Lai tủm tỉm cười:

- Có duyên thì ngàn dặm cũng gặp nhau thôi!
Rồi biến nhanh ra cửa, mất hút trong màn sương

Đêm sau, Hàm ngồi đọc sách mà cứ bồn chồn, lòng bứt rứt không yên, mặt xào như lá úa, thì kiều nữ đến! Hàm vui ra mặt. Nàng lấy trong túi gấm nào rượu, nào thịt, bày biện đầy mâm:

- Hôm nay thiếp muốn cùng chàng say một bữa đây.

Rồi rượu rót tràn. Hai người trò chuyện nói cười ròn rã nghe chiều tương đắc lắm. Rượu châm vào, má đào càng chín:

- Thiếp họ Hồ, mẹ gọi thiếp là Thục Hà. Thục là tinh khiết, hiền lành; hà là sen đó. Nhà bên đông Ly Sơn.

Hàm vốn biết phụ thân dù là hạng võ biền nhưng lại rất nhân từ, trong đời đã cưu mang, cứu mạng không biết bao người. Dù vậy, vẫn hỏi nàng:

- Chuyện thế nao, nàng có thể kể cho ta nghe chăng?

- Bây giờ thì chẳng giấu chàng chi nữa. Thiếp là chồn đây! Trước kia, khi mẹ dẫn chị em thiếp du chơi, bỗng đại bàng từ lưng trời lao xuống, nếu không nhờ Hàm tiên phuông cho nó một mũi tên, thì mẹ con thiếp đã phí đi ngàn năm tu luyện!

Thấy Hàm vẫn điềm nhiên, bèn hỏi:
Chẳng sợ à?

- Thuở nhỏ ta thường đọc truyện của Bồ tiên sinh, lòng hằng mong được duyên kì ngộ. Con người dù chẳng có móng dài nanh nhọn, nhưng tâm địa độc ác khó lường! Ta chỉ thấy người giết chồn chứ chưa thấy chồn xé thịt người bao giờ, cớ chi phải sợ? Hơn nữa (cười) gặp con chồn xinh đẹp tài giỏi như thế nấy ; là phước duyên nghìn năm khó gặp, thì chỉ sợ nó biến mất đi thôi!

Rồi ôm ghì lấy nàng. Thục Hà điểm vào trán Hàm:

- Rõ là khéo ăn khéo nói !

Đoạn hỏi sang việc khác:

- Cớ sao chàng bỏ gươm theo bút?

Hàm nói rõ ý mình. Thục Hà nhìn chàng đăm đăm:

- Chớ cho rằng thanh gươm luôn gây điều ác nghiệt mà ngọn bút không hề tạo nỗi oan khiên! Lỡ một đường gươm chỉ giết chết môt người, nhưng lỡ ngọn bút sẽ làm khổ đau trăm họ. Ngọn bút vẽ vời tư tưởng; nghiên son truyền đạt ý tình. Ý tình chân chính sẽ đem cho lê dân nghìn năm no ấm, nhưng tư tưởng ngông cuồng sẽ di hại muôn đời cuộc sống quần sinh! Rửa
sạch máu trên lưỡi gươm là chuyện dễ dàng, nhưng xóa đớn đau trong lòng nhân loại phải chẳng là chuyện một ngày một buổi! Chàng nên cân nhắc!

Lại hỏi:

- Từ khi quăng gươm, việc múa bút thế nào?

Hàm còn ấm ớ, thì Thục Hà bèn đến bên án thư, giở giở xem xem, rồi nhăn mặt mà rằng:

- Văn chương thi phú như vầy mà muốn vượt Vũ Môn sao?

Rồi nghiêm mặt bảo Hàm:

- Từ nay, thiếp sẽ ở lại để chàng có thời gian sớm chiều đọc sách, và chàng cũng nên từ bỏ việc săn bắt để khỏi phạm nghiệp sát sanh. Chuyện cơm áo gạo tiền và chăm sóc bá mẫu chàng cũng chớ bận tâm. Đã có thiếp!

3. Đền đáp ân sâu
Thục Hà vốn giỏi thi thư, làu thông dịch số, lại có tài bốc thuốc. Mới nửa năm mà cứu sống không biết bao con bịnh thập tử nhứt sanh. Lại thường giúp đỡ cho những người nghèo khó, neo đơn. Y đức rền vang khắp huyện, người đến xem mạch chật cả nhà.  Với Hàm phu nhân, Thục Hà một mực tôn kính, sáng nước chiều cơm vô cùng chu đáo. Với Hàm, ngoài tình phu phụ, Thục Hà còn là người thầy nghiêm khắc. Nhờ vậy mà việc học của Hàm ngày càng tấn tới, kinh điển làu thông, sách mua không kịp. Cuối đông năm Ất Mẹo, Hàm ôm vợ, nghẹn ngào:

- Mẹ ta nhờ nàng mà thân thể kiện khang, ngày ngày an lạc. Ân đức nầy bao giờ mới trả được đây?

- Chàng chớ nói những lời khó nghe như vậy! Thiếp chỉ làm bổn phận của người vợ, người dâu thôi. Hơn nữa, thiếp thọ ơn Hàm gia như núi, thì những lời của chàng, thiếp nói mới phải lẽ hơn.

Mùa xuân năm sau (Bính Thìn), Hàm có ý muốn lai kinh ứng thí. Thục Hà không vui:

- Với bản lĩnh của chàng bây giờ thì bảng hổ danh đề chẳng khó khăn chi, nhưng thời buổi nầy, nếu chỉ cậy vào thực tài thì khó lòng toại chí. Chi bằng…

Hàm nhăn mày:

- Dù thế nào ta cũng phải gồng thân cá chép để vượt Vũ Môn, tung cánh chim hồng để bay cao chín tầng mây thẳm. Trước là đền ơn mưa móc, sau là giúp cho bá tánh hoan lạc âu ca. Không những Hàm môn rạng rỡ, mà nàng cũng được đường đường mệnh phụ phu nhân.

Thục Hà thở dài:

- Hiền tài thời Nghiêu Thuấn khác chi bảo ngọc, dù trong bóng tối cũng ngời ánh hào quang; ngược lại vào thời Kiệt Trụ khác chi bò heo trước lưỡi dao đồ tể! Lời vàng ngọc không làm vui lòng minh thánh, lại làm điếc tai nhức óc  hôn quân! Hôm nay, hoàng đế thì tham dâm vô độ, trong triều thì củi mục làm quan! Thái Giám Trịnh Hòa chuyên quyền, lập đội sát thủ Đông Xưởng để tiêu diệt trung thần. Khắp nơi sơn dã, Lý Tự Thành thừa cơ cướp bóc. Phía bắc thì Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã vượt biên cương. Lê dân khốn khổ trăm bề. Chức quan phải đổi bằng vàng. Bảng hổ phải cậy vào quyền thế. Quan tham tranh nhau vơ vét của công tư. Bậc trí giả nhìn quốc gia đại loạn nhưng cũng phải đành bó gối khoanh tay: Dù Thái Sơn cũng không vá được gầm trời; thì viên sỏi nhỏ làm sao lấp bằng biển cả? Làm người dân thời loạn, sinh mạng như gởi trước vực sâu, huống chi là chốn quan trường, nanh hùm nọc rắn giờ phút chực chờ? Chàng nên cân nhắc!

Những lời chí tình đó không thay đổi được ý định của Hàm. Thục Hà đành chuẩn bị hành trang cho chồng. Ngày Hàm lên đường nhằm tiết Thu Phân, cây rừng buông từng chiếc lá thê lương đưa tiễn.

Đến mùa thu sau, Đạo quân của “Sấm Tặc” Lý Tự Thành thế mạnh, uy hiếp Bắc Kinh mà Hàm vẫn bặt vô âm tín. Thục Hà ngồi đứng không yên, lòng thương chồng làm  mai gầy liễu rũ. Bỗng một buổi gia nhân hơ hải báo:

- Công tử đã về!

Thục Hà bỏ cả hài thêu, vội chạy ra, thấy Hàm còn oằn oại trên vai một đại sư đang bước vào đại sảnh. Mọi người còn ngơ ngác, đại sư quẹt mồ hôi trên trán, bảo:
A Di Đà Phật! Bần tăng đi ngang qua U Lâm, chợt thấy công tử đang thiêm thiếp bên đường bèn mang về cho đại thí chủ.

- Từ đó đến đây hàng mấy trăm dặm đường. Thật vất vả cho đại sư!

- Công tử bị suy kiệt nặng, may mà gặp bần tăng kịp thời cho uống linh phù. Bây giờ mọi việc tạm yên, việc còn lại là phần của đại thí chủ.

3. Ăn Tết với ma

Hàm kể:

Khi dến U Lâm thì  đã xế chiều, Hàm cố vượt thêm năm dặm để đến U thôn. Mặt trời vùng núi xuống nhanh, mây đen từ đâu kéo về làm không gian càng thêm u tối. Chướng khí lạnh buốt tận xương. Ngựa người vừa đói vừa  sợ, bỗng nhác thấy ven rừng thấp thoáng mấy gian lều cỏ, lòng khấp khởi mừng…

Đến nơi thì ra đó là những túp lều hoang. Đang nhóm lửa, bỗng thấy ngoài xa có ánh đèn đi tới, Lòng vừa mừng, vừa lo sợ. Vội dập lửa, nấp vào một chỗ. Ánh đèn càng gần, mờ ảo một bóng hồng. Càng gần hơn, Hàm cả mừng, dù dưới ánh sáng chấp chá chàng cũng nhận được rõ ràng kiều nữ chính là Thục Hà. Hàm ôm chầm lấy vợ:

- Sao hiền thê lại gian khổ thế nầy?
Thục Hà làm mặt giận:

- Chàng đi xa ngàn dặm lại bảo thiếp an lòng được sao?

Nói rồi lấy rượu thịt từ trong tay nải , bày lên bàn, cùng ăn uống no say

- Sao giọng nàng là lạ như thế?

- Gió lạnh đường xa, không cảm mạo mới là việc lạ!

Đêm đó ân ái càng nồng. Hàm đột ngột hỏi:

- Sao da thịt nàng lại lạnh thế nầy?

- Tắm mình trong sương, gội mình trong tuyết, dù than hồng cũng phải lạnh ngắt mà thôi!

Có vợ bên mình, vừa an tâm, vừa mệt mỏi, Hàm ngủ mê man. Tiếng cú kêu sương và khí lạnh núi rừng làm chàng tỉnh giấc  Ngồi dậy choàng chăn cho vợ, chợt kinh hoàng thét lên:

Nàng là ai? Hiền thê ta đâu?

Nằm bên chàng là một thiếu nữ xa lạ, Mớ tóc tuyền che hớ hênh gò bồng đảo trắng ngần nhấp nhô theo hơi thở. Kiều nữ cười hiền hòa:

- Chàng nằm mơ đó chăng? Thiếp không phải là vợ chàng thì ai vào đây chứ? Nhìn kỹ xem nào?

Hàm dụi mắt, định thần nhìn lại, thì rõ ràng là Thục Hà! Lòng vẫn nghi ngờ, Hàm bèn kéo mạnh kiều nữ qua thế nằm xấp, đảo mắt nhanh trên lưng nàng, rồi nắm chặt tay nàng giận dữ:

- Nàng không phải vợ ta!

Bây giờ trước mặt Hàm “Thục Hà” lại là một xuân nữ cực kì xinh đẹp. Mặt hoa ủ dột, hai hàng mi chơm chớp cố giữ lại giọt buồn. Hàm gay gắt:

- Nếu chẳng là loại gái lẳng lơ, thì cũng là yêu ma để hãm hại người! Ta  vốn dòng vũ tướng, chớ mà dại dột giở trò!

Hai dòng lệ lăn tròn lên má, kiều nữ giọng buồn  buồn:
- Chàng có bị ma hại bao giờ chưa mà lại hung hăng như vây? Chàng hãy nhìn lại xem trong thế giới “người” của chàng, có mấy ai bị chết vì ma? Chinh chiến liên miên, xương khô như núi bên bờ Vô Định; thiên tai chồng chất, Hoàng Hà đê vỡ mà cửa kho vẫn khóa kín như bưng, không cho hạt thóc lọt ra ngoài, khiến triệu sinh linh chẳng một cọng cỏ mà ăn, để cho xác chết ngập đường . Đó là do ma hại đó sao?

Hàm nhìn nàng trân trối, như hiểu được phần nào ý nghĩ của Hàm, kiều nữ lau mắt, tủm tỉm cười:

- Nhìn xem con ma có răng nanh hút máu không à? Hãy về mà nhìn lũ tham quan, xem bọn cường hào ác bá! Miệng mồm chúng thế nào mà dân tình phải lấy lá rừng làm áo, lấy cỏ làm cơm? Trước kia thiếp cũng bị người hại nên giờ mới thành ma! Khi thành ma, thiếp đã phải ân hận vì đã phải làm người!

Nghe cũng có lý, mà âm thanh lại ngọt ngào êm ái, lòng Hàm cũng dịu đôi phần. Kiều nữ tiếp:

- Khi còn tại thế, dù nhan sắc nầy chẳng dám sánh với mẫu đơn, nhưng với phù dung, hải đường thì chúng phải nhường một bước! Hoa xinh trong thời loạn lạc, khác nào hiền tài trước bạo chúa, hôn quân! Khác chi đàn khảy tai trâu, hay ngọc quăng mặt chó? Muốn sinh tồn thì phải chịu mưa dập gió vùi, hay hùa theo chúng mà phải đạp chà khí tiết sĩ phu. Thiếp muốn bảo vệ băng trinh nên tự kết liễu đời mình; còn chàng thì chọn hướng nào?

Một chút cảm mến trong lòng, Hàm ngần ngừ một hồi rồi buông một câu ngớ ngẩn:

- Vậy sao nàng lại đến cùng ta?
- Tháng năm nằm trong vùng âm u tối nên thịt da không được ấm áp như bao người được hưởng ánh dương quang. (liếc Hàm). Âm đã suy, tàn thu càng càng suy kiệt, nên muốn “mượn” chút lão dương mà bù đắp đó thôi! Nhưng đã thề với lòng, thà thân nầy tan thành tro bụi chứ không thể gởi thân cho kẻ thất phu!

- Nhưng ta không thể phản bội vợ mình.

Hàm kín đáo nhìn vợ, Thục Hà che tay áo giấu nụ cười sung sướng, nhưng giả bộ lớn tiếng:

-Láo phét! Rồi sao nữa?

Hàm tiếp:

- Rồi nàng ấy cười ngất: “Thế đầu hôm ai làm gì mà như ăn tươi nuốt sống thiếp vậy? Lần đầu nếm mùi chăn gối, chàng làm thiếp sợ điếng hồn….”

Thục Hà cắn chặt răng, nhìn Hàm. Hàm tiếp:

- Ta sợ nàng nói thêm những lời khó nghe, vội cướp lời: “Xem nàng cũng là bậc thư hương, sao dạn mồm dạn miệng như vậy?”

Kiều nữ mai mỉa:
Giống ma bọn thiếp, trong bụng ra sao thì lời nói như vậy; chứ không phải giống người của chàng mồm một đàng, bụng một nẻo. Bên nào đáng khinh, bên nào đáng trọng? Tỉ tỉ ở nhà chẳng phải cũng mượn cớ “sói rừng” mà kéo chàng lên giường đó sao?

Đại sư quay mặt sang bên. Thục Hà cả thẹn chín người, quát chồng:

- Thôi đủ rồi! Chuyện như vậy mà không biết giấu vào bụng à?

Máu hoạn thư nổi dậy:

- Rồi cũng vì mê mẫn tâm thần mà chẳng chịu lai kinh, lại chẳng biết đường về?

- Không phải vậy! Ta muốn lai kinh để kịp kì thi, nhưng nàng lại bảo kinh kì có biến, quân “Sấm Tặc” làm chủ mọi nơi. Nếu đi, khác nào nộp mình cho… sói!

Thục Hà lấy tay áo che mặt, cố nén cười, lầm bầm : “ Sói, sói! Tức chết được mà!”. Rồi dọn bộ mặt nghiêm trang, quát:

- Sao không trở lại nhà, mà cứ ở lì nơi ây suốt năm trời. Không biết mọi người nóng lòng trông đợi hay sao?

- Muốn có được đâu! Thì ra những túp lều hoang ấy không như ta tưởng, mà nó nằm giữa đại ngàn. Biết phương hướng
nào mà trở lại?

Mọi người lặng yên, Hàm tiếp:

- Nhưng một hôm nàng ấy ủ dột mà rằng: “ Ý trời đã định thì lòng người chớ khá cưỡng cầu! Thiếp chẳng qua là cơn gió núi mượn lá rừng để dạo khúc tình si. Rồi sẽ như hạt sương lạnh lùng lại phải vỡ tan khi vừng dương ló dạng. Thiếp chỉ là nơi phủi áo bụi đường; mà tỉ tỉ mới chính là nơi gởi đời vĩnh cửu. Hãy uống với thiếp một lần, mong ngàn sau chàng vẫn nhớ”

Hàm e dè nhìn vợ:

- Rồi rượu thịt bày đầy, ta uống đến mê man, chỉ loáng thoáng nghe bên tai: “Có duyên, sẽ gặp…”. Và ta không nhớ gì nữa!

Thục Hà và đại sư nhìn nhau. Hồi lâu đại sư bảo:

- A Di Đà Phật! Mỗi người đều có một nghiệp duyên, dù trốn lên núi cao, hay nấp dưới vực sâu cũng không tránh khỏi. Gieo nghiệp thiện tất hưởng quả lành; gieo nghiệp dữ phải thọ tai ương. Công tử đây và con ma đó tất phải có nợ duyên từ kiếp trước. Dù sao, công tử cũng đã về rồi, đại thí chủ cũng nên độ lượng!


KHA TIỆM LY

Nguồn: email của TG Kha Tiệm Ly gửi lamngoc