CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Chủ Nhật, 3 tháng 5, 2020

Góc Việt Thi : NGÔ CHI LAN - ĐỖ CHIÊU ĐỨC


Chieu Duc
06:35, Th 7, 2 thg 5 (1 ngày trước)
tới tôi

Góc Việt Thi : 

                    NGÔ CHI LAN
                                         
                                            Inline image
               TỨ THỜI THI

          Ngô Chi Lan 吳芝蘭 (1434-?) còn có tên là Nguyễn Hạ Huệ, tự là Quỳnh Hương, tên tục là Ngô Thị Hĩm; là một nữ sĩ dưới triều vua Lê Thánh Tông trong lịch sử Việt Nam. Theo Toàn Việt thi lục là người làng Phù Lỗ (nay thuộc huyện Kim Anh, Phúc Yên), vợ ông Phù Thúc Hoành (người làng Phù Xá cũng thuộc huyện ấy, làm quan đến Đông Các Đại Học Sĩ). Bà thiên tư thông minh, có tài văn chương, được vua Lê Thánh Tông phong làm Phù Gia Nữ Học Sĩ, ban hiệu là Kim Hoa Nữ Học Sĩ, dạy các cung nữ học. Mỗi khi yến tiệc, vua thường sai làm thơ, chỉ thoắt chốc là bà làm xong ngay, không cần phải sửa chửa gì cả. Năm ngoài 40 tuổi bà mất, táng ở cánh bãi Tây Nguyên. Để tỏ lòng tiếc thương và ngưỡng mộ bà, nhân dân Phù Lỗ đã dựng đền thờ với tên đề “Kim Hoa Nữ Học Sĩ”. Ngôi đền đó hiện nay được đặt ngay trên nền nhà ở ngày xưa của gia đình bà.

         Ngô Chi Lan chỉ có một tập thơ duy nhất là Mai Trang Tập 梅莊集 (Tập thơ Vườn Mai). Dưới đây là những bài TỨ THỜI THI rất đặc biệt và độc đáo của bà. 

         * ĐẶC BIỆT vì 4 bài đều là Thất Ngôn Bát Cú, nhưng lại không phải là thơ Đường Luật.
         * ĐỘC ĐÁO vì 4 bài đều chia làm hai VẬN : 4 câu đầu gieo vần TRẮC, 4 câu sau gieo vần BẰNG.

         Đỗ Chiêu Đức đã tôn trọng theo ý của nữ sĩ, nên trừ bài diễn Nôm bằng Lục bát ra; Tất cả đều được Diễn Nôm 4 câu đầu gieo vần TRẮC; và 4 câu sau gieo vần BẰNG.

         Kính mời qúy Thầy Cô và Thân Hữu tùy nghi mà thưởng thức và Diễn Nôm cho vui !

                                                                                                                    Nay kính,
                                                                                                                      杜紹德 
                                                                                                                  Đỗ Chiêu Đức
                   ....................................................................................

1. Tứ Thời Thi : XUÂN TỪ.

    春詞                             XUÂN TỪ

初晴薰人天似醉,    Sơ tình huân nhân thiên tự túy,
艷陽樓臺浮暖氣。    Diễm dương lâu đài phù noãn khí.
隔簾柳絮度鶯梭,    Cách liêm liễu nhứ độ oanh thoa,
繞檻花鬚穿蝶翅。    Nhiễu hạm hoa tu xuyên điệp xí.
階前紅線日添長,    Giai tiền hồng tuyến nhựt thiêm trường.
粉汗微微沁綠裳。    Phấn hạn vi vi tẩm lục thường.
小子不知春思苦,    Tiểu tử bất tri xuân tứ khổ,
傾身含笑過牙牀。    Khuynh thân hàm tiếu quá nha sàng.

        Inline image

* Chú Thích :
   - Sơ Tình 初晴 : là nắng mới, chỉ nắng của mùa xuân sau ba tháng mùa đông lạnh lẽo.
   - Huân Nhân 薰人 : là Hanh người, là Làm cho con người cảm thấy ấm áp.
   - Diễm Dương 艷陽 : là Ánh nắng đẹp, trời nắng rất đẹp đẽ.
   - Oanh Thoa 鶯梭 : Các con chim oanh len lỏi trong cành liễu như con thoi.
   - Nhiễu Hạm 繞檻 : là Lòng vòng ở dưới mái hiên.
   - Giai Tiền 階前 : là Trước thềm.
   - Phấn Hạn 粉汗...câu 6 : Mồ hôi rịn ra phấn dồi thấm nhè nhẹ vào tà áo xanh.
  
* Nghĩa Bài Thơ :
                                     Thơ  Mùa Xuân
        
      - Nắng mới ấm áp hanh người làm cho trời cũng tựa như đang say,
      - Lâu đài chìm trong nắng đẹp cũng chan hòa vẽ ấm áp.
      - Trên cành tơ liễu cách rèm bên ngoài chim oanh len lỏi trong các cành liễu tựa con thoi.
      - Bay vòng dưới mái hiên con bướm bị các tua hoa xuyên qua cánh.
      - Những vệt nắng như những sợi chỉ hồng trước thềm làm cho ngày như dài thêm ra.
      - Mồ hôi rịn ra phấn dồi thấm nhè nhẹ vào tà áo xanh.
      - Chàng tuổi trẻ kia không biết được sự nhớ nhung trong mùa xuân là khổ tâm như thế nào (mùa xuân là mùa đoàn tụ mà phải xa nhau nhớ nhau), nên mới...
      - Nghiêng mình cười mĩm mà đi qua giường ngà (như chẳng có việc gì xảy ra !).

         Nằm trên giường ngà để nhớ người tình xa trong mùa xuân ấm áp tràn đầy nhựa sống thì còn gì khổ tâm và ray rức hơn nữa.  Tâm sự và nỗi lòng nầy làm cho ta nhớ đến nàng thiếu phụ có chồng là quan to, nên mỗi buổi sáng mùa xuân, lúc đôi lứa đang mặn nồng và ấp yêu nhất, thì lại  phải dậy sớm để đi chầu vua, bỏ mặc gối chăn thơm phức và nàng vợ trẻ. Bài thơ "Vị Hữu" của Lý Thương Ẩn như sau :

               Vị hữu vân bình vô hạn kiều,             爲有雲屏無限嬌,
               Phụng thành hàn tận phạ xuân tiêu.   鳳城寒盡怕春宵.
               Vô đoan giá đắc kim qui tế,               無端嫁得金亀婿,
               Cô phụ hương khâm sự tảo triều .      辜負香衾事早朝 .

Có nghĩa :
                   Vì có bình phong đẹp lắm mầu
                   Kinh thành hết  lạnh, sợ canh thâu
                   Khéo xui lấy được ngài quan lớn
                   Phụ bạc gối chăn, sớm phải chầu  !
   Lục Bát :
                   Bình phong đẹp đẽ yêu kiều
                   Phụng thành đông hết, xuân tiêu đêm dài
                   Vô duyên lấy phải quan ngài
                   Gối chăn bỏ hết mặc ai,… đi chầu !

                   Inline image

* Diễn Nôm :
                               THƠ XUÂN

                  Nắng mới hanh người trời túy lúy,
                  Lâu đài nắng đẹp ấm xuân khí.
                  Ngoài rèm tơ liễu rộn oanh ca,
                  Bướm lượn vờn hoa tua rách xí.
                  Vệt nắng trước thềm ngày chẳng nhanh,
                  Mồ hôi hòa phấn thấm bào xanh.
                  Trẻ con nào biết xuân nhung nhớ,
                  Cười mĩm nghiêng mình lại dạo quanh !
    Lục bát :
                  Hanh người nắng mới trời say,
               Nắng lên ấm đẹp lâu đài thêm xuân.
                  Ngoài rèm oanh hót liễu xanh,
             Xuyên hoa cánh bướm lượn quanh hiên nhà.
                  Trước thềm vệt nắng dài ra,
              Mồ hôi rịn phấn thấm tà áo xanh.
                  Trẻ trung nào biết xuân tình,
           Thản nhiên cười mĩm nghiêng mình lướt qua !
                                                    

2. Tứ Thời Thi : HẠ TỪ.

      夏詞                               HẠ TỪ 

風吹柳花紅片片,    Phong xuy liễu hoa hồng phiến phiến,
佳人閒打鞦韆院。    Giai nhân nhàn đả thu thiên viện.
傷春背立一黄鶯,    Thương xuân bối lập nhất hoàng oanh,
惜景哀啼雙紫燕。    Tích cảnh ai đề song tử yến.
停針無語翠眉低,    Đình châm vô ngữ thúy mi đê,
倦倚紗窗夢欲迷。    Quyện ỷ sa song mộng dục mê.
却怪捲簾人喚起,    Khước quái quyển liêm nhân hoán khởi,
香魂終不到遼西。    Hương hồn chung bất đáo Liêu Tê (Tây).
  
     Inline image
        
* Chú Thích :
    - Thu Thiên 鞦韆 : là Cái Đu; nên ĐẢ THU THIÊN 打鞦韆 là Đánh Đu. 
    - Thương Xuân 傷春 : là Đau xót vì mùa xuân đã đi qua.
    - Bối Lập 背立 : là Đứng xây lưng lại.
    - Tích Cảnh 惜景 : là Tiếc cảnh xuân đà hết.
    - Ai Đề 哀啼 : là Tiếng chim hót bi ai, buồn thảm. Nếu từ nầy dùng cho người thì có nghĩa là "Khóc lóc một cách thảm thiết".  
    - Quyện Ỷ 倦倚 : Mõi mệt mà vựa vào... SA SONG 紗窗 : là Cửa sổ có màn che.  
    - Khước Quái 却怪 : Lại trách rằng...QUÁI là Động từ có nghĩa : Trách móc. 
    - Hương hồn 香魂 : là cái Hồn thơm, chỉ Hồn của phái nữ. Của phái nữ thì CÁI GÌ cũng thơm cả, kể cả hồn phách. (Mời đọc bài Tạp ghi và Phiếm luận : "HƯƠNG trong Truyện Kiều" sẽ rõ.) 
    - Liêu Tây 遼西 : Tên một quận xưa nằm ở phía tây của Liêu Hà thuộc tỉnh Liêu Ninh hiện nay, nhưng lại là vùng biên tái ngày xưa. 

* Nghĩa Bài Thơ :
                                         THƠ  MÙA HÈ
       Gió thổi hoa liễu từng mảnh từng mảnh đo đỏ bay bay. Người đẹp rảnh rỗi nên chơi đánh đu ở trong sân nhà. Vì thương xót cho mùa xuân đã đi qua nên một con oanh còn kêu trên cành liễu và hai con én tía còn tiếc cảnh xuân mà cất tiếng líu lo buồn bã. Nàng ngừng mũi kim thêu đôi mày biếc cúi thấp xuống, mõi mệt vựa vào màn nhiễu của song cửa chập chờn trong giấc mộng. Chỉ trách ai đó đã đến cuốn rèm làm cho nàng giật mình tỉnh giấc, nên mộng hồn rốt cuộc vẫn không thể đến được xứ Liêu Tây nữa rồi.

       Đọc bài thơ nầy làm cho ta nhớ đến bài kệ của Thiền sư Thích Trung Nhân đời Tống 宋.释中仁 là :

                 二八佳人刺繡遲,   Nhi bát giai nhân thích tú trì,
                 紫荊花下囀黃鸝。   Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng li.
                 可憐無限傷春意,   Khả lân vô hạn thương xuân ý,
                 盡在停針不語時。   Tận tại đình châm bất ngữ thì !
Có nghĩa :
                Thêu thùa lơ đễnh giai nhân,
                Dưới cành hoa tím chim oanh hót chào.
                Thương thay xuân sắc dạt dào,
                Ngừng kim lặng lẽ biết bao ý tình !

       Hai câu chót của bài thơ lại làm cho ta nhớ đến bài "Y Châu Ca 伊州歌" của Kim Xương Tự 金昌绪(Có bản cho là Xuân Oán 春怨 của Cáp Gia Vận 亦作蓋嘉運)đời Đường :

                打起黃鶯兒,   Đả khởi hoàng oanh nhi,
                莫教枝上啼。   Mạc giao chi thượng đề.
                啼時驚妾夢,   Đề thời kinh thiếp mộng,
                不得到遼西。   Bất đắc đáo Liêu Tê (Tây).           
 Có nghĩa :
                Đuổi đi con chim hoàng oanh,
                Đừng để trên cành cất tiếng hót vang.
                Giật mình thiếp tỉnh mộng vàng,
                Liêu Tây khó đến thăm chàng đêm nay !

               Inline image

      Ngồi ở cảnh mùa hè, mà lại cứ nhớ tiếc cảnh mùa xuân. Bài thơ có tựa là HẠ TỪ (Thơ mùa Hạ) nhưng đúng ra là một bài thơ THƯƠNG XUÂN (Thương cảm cho mùa Xuân) thì đúng hơn.

*Diễn Nôm :
                                    HẠ TỪ
    
                   Lấm chấm liễu hồng bay phất phới,
                   Người đẹp đánh đu lòng phơi phới.
                   Thương cảm oanh vàng một tiếng kêu,
                   Đôi chim én liệng buồn hè tới.
                   Dừng kim nín lặng nhíu mày xanh,
                   Tựa màn song cửa mộng hồn quanh.
                   Trách kẻ kéo rèm làm tỉnh giấc,
                   Liêu Tây chẳng thể đến cùng anh.
    Lục bát :
                   Liễu hồng bay rụng phất phơ,
                Đánh đu người đẹp vẩn vơ vườn nhà. 
                   Thương xuân một chú oanh già,
                 Một đôi chim én la đà tiếc xuân.
                   Dừng kim nín lặng tần ngần,
               Tựa song hồn mông lâng lâng cỏi nào.
                   Trách ai kéo tỉnh giấc đào,
              Liêu Tây rốt cũng không sao gặp chàng !   
                                            
            
3. Tứ Thời Thi : THU TỪ.
            
    秋詞                               THU TỪ

清商浮空澄霽景,   Thanh thương phù không trừng tể cảnh,
霜信遙將孤雁影。   Sương tín diêu tương cô nhạn ảnh.
十丈蓮殘玉井香,   Thập trượng liên tàn ngọc tỉnh hương,
三更楓落吳江冷。   Tam canh phong lạc Ngô giang lãnh.
飛螢夜度碧闌干,   Phi huỳnh dạ độ bích lan can,
衣薄難禁剪剪寒。   Y bạc nan câm tiễn tiễn hàn.
聲斷洞簫凝立久,   Thanh đoạn động tiêu ngưng lập cữu,
瑤臺何處覓驂鸞 ?   Dao đài hà xứ mịch tham loan ?

         Inline image
* Chú Thích :
    - Thanh Thương 清商 : THANH là Trong, THƯƠNG là Một trong Ngũ Âm : Cung, Thương, Giốc, Trủy, vũ. THƯƠNG có giọng thê lương bi thiết, nên gọi là Thanh Thương. Ở trong bài mượn để chỉ tiếng gió thu hiu hắt. 
    - Trừng Tể 澄霽 : TRỪNG là trong vắt. TỂ là Trời vừa tạnh mưa. Nên TRỪNG TỄ là Trời quang mây tạnh.
    - Sương Tín 霜信 : là Tin Sương. Mỗi năm cứ gần đến tiết Sương giáng thì có chim nhạn bay đến trước để báo tin, nên thấy nhạn bay đến là biết sắp có sương rơi. Lâu dần, Tin Sương chỉ còn có nghĩa chỉ "Tin Tức" mà thôi. Như trong Truyện Kiều tả cô Kiều nhớ nhà lúc ở lầu Ngưng Bích :"Tin Sương luống những rày trông mai chờ".
    - Cô Nhạn 孤雁 : là Con nhạn cô độc.
    - Ngọc Tỉnh 玉井 : là Giếng Ngọc. Theo truyền thuyết, trên núi Thái Hoa có giếng ngọc, trong giếng có bạch liên ngàn cánh. Người nào ăn được hoa sen trắng ngàn cánh nầy có thể lên tiên. Trong bài thơ CỔ Ý của Hàn Dũ đời Đường có câu :"Thái Hoa phong đầu ngọc tỉnh liên, Hoa khai thập trượng ngẫu như thuyền 太华峰头玉井莲,花开十丈藕如船", vì thế NGỌC TỈNH còn gọi là BẠCH LIÊN TRÌ 白莲池 là "Giếng hoa sen trắng".
    - Phi Huỳnh 飛螢 : là Những con đom đóm lặp lòe đêm thu.
    - Nan Câm 難禁 : Khó mà cấm, Khó tránh khỏi, Không ngăn được...
    - Tiễn Tiễn Hàn 剪剪寒 : Từng trận từng trận gió lạnh.
    - Ngưng Lập 凝立 : là Ngưng đọng lại. Đứng một chỗ.
    - Dao Đài 瑤臺 : là Lầu cao được dát ngọc, thường dùng để chỉ chỗ tiên ở.
    - Tham Loan 驂鸞 : THAM là Xe ba ngựa kéo. LOAN là Chim Loan. THAM LOAN có nghĩa Cởi Chim Loan lên tiên dạo chơi.

* Nghĩa Bài Thơ :
                            THƠ MÙA THU
        Tiếng gió thu se sắt như cung thương rít trong cảnh từng không trong vắt khi trời quang mây tạnh. Nhìn bóng nhạn cô đơn mà mong ngóng tin sương. Hoa sen trắng đã tàn nhưng củ sen mười trượng trong giếng ngọc vẫn tỏa hương. Canh điểm ba nửa đêm lá cây phong rụng xuống làm cho nước sông Ngô chợt lạnh thêm. Những con đom đóm ban đêm bay vào lan can bằng đá xanh biếc. Áo mỏng nên không ngăn nổi từng trận từng trận gió lạnh. Tiếng tiêu ngọc đà chấm dứt hèn lâu mà người vẫn còn tần ngần đứng đó. Biết chim tham loan ở đâu mà tìm để cởi về Dao Đài cho đây ?
                   
                    Inline image
* Diễn Nôm :
                        THU TỪ
               Gió thu se sắt tầng xanh ngắt,
               Cánh nhạn tin sương trời trong vắt.
               Mười trượng sen tàn giếng tỏa hương,
               Ba canh phong rụng sông lạnh ngắt.
               Đêm về đom đóm lượn lan can,
               Gió thổi áo the rét ngập tràn.
               Lặng ngắt tiêu thiều thanh đứt đoạn,
               Dao đài tìm chốn cởi tham loan.
   Lục bát :
               Gío thu hiu hắt trời quang,
               Tin sương cô nhạn vút ngang lưng trời.
               Sen tàn hương tỏa nơi nơi,
               Ngô giang phong rụng nước trôi lạnh lùng.
               Lan can đóm lượn đêm nhung,
               Áo the từng trận lạnh cùng gió thu.
               Tiêu thiều lặng ngắt từ lâu,
               Dao Đài muốn đến phải cầu tham loan.
                                       

4. Tứ Thời Thi : ĐÔNG TỪ.

    冬詞                             ĐÔNG TỪ

寶爐撥火銀瓶小,    Bảo lô bát hỏa ngân bình tiểu,
一杯羅浮破清曉。    Nhất bôi La Phù phá thanh hiểu.
雪將冷意透疎簾,    Tuyết tương lãnh ý thấu sơ liêm,
風遞輕冰落寒沼。    Phong đệ khinh băng lạc hàn chiểu.
美人金帳掩流蘇,    Mỹ nhân kim trướng yễm lưu tô,
紙護雲窗片片糊。    Chỉ hộ vân song phiến phiến hồ.
暗裏挽回春世界,    Ám lý vãn hồi xuân thế giới,
一株芳信小山孤.      Nhất chu phương tín tiểu sơn cô.

        Inline image

* Chú Thích :
    - Bảo Lô Bát Hỏa 寶爐撥火 : là Bươi lửa (than) trong cáo lò nhỏ (qúy).
    - Nhất Bôi La Phù 一杯羅浮 : Một ly rượu La Phù.
    - Thanh Hiểu 清曉 : Buổi sáng trong lành.
    - Sơ Liêm 疎簾 : là Bức rèm thưa.
    - Hàn Chiểu 寒沼 : Đầm (ao) nước lạnh.
    - Kim Trướng 金帳 : là Cái mùng bằng chỉ kim tuyến.
    - Lưu Tô 流蘇 : Cái viền mùng có tua đẹp.
    - Ám lý 暗裏 : Trong âm thầm. Trong lặng lẽ.
    - Nhất Chu Phương Tín 一株芳信 : là do câu thơ của Tô Đông Pha đời Tống :" Niên niên phương tín phụ hồng mai 年年芳信负红梅". Có nghĩa : Mỗi năm cái cây mang lại tin thơm là đều vựa vào hồng mai cả. Ý chỉ mỗi năm báo tin thơm ( tin của mùa xuân sắp đến) đều là nhờ vào hồng mai cả ! Còn dân miền Nam Việt Nam ta thì chỉ biết có mai vàng báo tin xuân mà thôi, cũng như dân Miền Bắc, hễ cứ "Mỗi năm hoa đào nở" là biết xuân về Tết đến ngay !

* Nghĩa Bài Thơ :
                                Thơ Mùa Đông
        Khều lửa trong cái lò qúy để cho cái bình bằng bạc nho nhỏ ở trên, hâm lên một chung rượu La Phù để phá tan cái lạnh của một buổi sớm mai trong lành. Tuyết đem cái ý lạnh thấm qua bức màn thưa bên song của và gió lạnh đã đưa những làn băng mỏng rơi trên mặt ao lạnh. Cái màn bằng kim tuyến của người đẹp có tua viền đẹp đẽ phủ quanh. Trong khi bên cửa sổ chỉ che đậy bằng những mảnh giấy ván bằng hồ. Trong âm thầm cái thế giới của mùa xuân đang được vãn hồi, khi tin thơm của cây hồng mai đang trổ bông trên ngọn núi cô đơn nho nhỏ.

        Inline image
  
* Diễn Nôm :
                          ĐÔNG TỪ

               Bình bạc than hồng bên lò nhỏ,
               La Phù một chén trời sáng tỏ.
               Tuyết đem hơi lạnh thấm rèm thưa,
               Gió bấc đưa băng ao đóng bó.
               Người đẹp màn vàng phủ nhiễu tô,
               Bên song cản gió giấy thoa hồ.
               Âm thầm thế giới xuân hồi phục,
               Một cội mai hồng nở núi cô.
   Lục bát :
               Lò hồng bình bạc lửa reo,
            La phù một chén sáng theo nhau về.
               Tuyết rơi lạnh thấm màn the,
            Gió đưa băng mỏng phủ che mặt hồ.
               Trướng vàng người đẹp nhiễu tô,
             Giấy hoa chắn gió song hồ căm căm.
               Hồi xuân thế giới âm thầm,
            Một cành mai đỏ trổ bông báo điềm !

       Trên đây là TỨ THỜI THI đủ bốn mùa XUÂN HẠ THU ĐÔNG của nữ sĩ Ngô Chi Lan, một nữ tài danh thi nhân Việt nam dưới thời Hậu Lê, Trịnh Nguyễn.
       Xin được giới thiệu cùng tất cả các Thầy Cô, Các Thân Hữu trong Vườn Thơ Thẩn cùng tất cả các em học sinh thần mến; nếu có cảm hứng , xin cùng dịch cho vui !

                                                                                        Nay kính,
                                                                                     ĐỖ CHIÊU ĐỨC
                                                                                          杜紹德
                                                                                       04-30-2020 

Không có nhận xét nào: