Hôm qua NM check mail thấy người bạn gửi truyện này đọc hay hay nên chia xẻ lại vậy
************
Kính gởi quý vị đọc cho vui.
Đức Phú
Thưa ông, ông đưa ra một câu hỏi rất hay. Đó là một nghịch lý của cuộc đời. Người thì đã chết rồi. Biết người đó có vui mừng khi gặp Chúa không? Đời là tạm bợ, là thư thách niềm tin. Bao nhiêu chông gai trên đường đời! Vượt được thì là công trạng. Dĩ nhiên người đó sẽ vui mừng vì hành đạo chỉ trong mong được đắc đạo. Nhưng nếu người đó làm điều ác? Gặp Chúa họ có vui mừng không? Chắc là không. Nhưng họ chết rồi còn đâu để nói lại cho con cháu rằng họ vui mừng hay lo sợ!!!
Tác giả TRÀM CÀ MAU
CHUYỆN ÔNG TƯ CHẾT MÀ VẪN VUI
TRÀM CÀ MAU
NGUỒN: Từ email của ĐỨC PHÚ gửi lamngoc
Xin cảm ơn Tác giả ĐứcPhú.
************
Kính gởi quý vị đọc cho vui.
Đức Phú
Thưa ông, ông đưa ra một câu hỏi rất hay. Đó là một nghịch lý của cuộc đời. Người thì đã chết rồi. Biết người đó có vui mừng khi gặp Chúa không? Đời là tạm bợ, là thư thách niềm tin. Bao nhiêu chông gai trên đường đời! Vượt được thì là công trạng. Dĩ nhiên người đó sẽ vui mừng vì hành đạo chỉ trong mong được đắc đạo. Nhưng nếu người đó làm điều ác? Gặp Chúa họ có vui mừng không? Chắc là không. Nhưng họ chết rồi còn đâu để nói lại cho con cháu rằng họ vui mừng hay lo sợ!!!
Nhưng những người thân còn lại thì sao? Dĩ nhiên trong
thâm tâm của họ vẫn hy vọng người đó về Thiên Đàng cầu nguyện
lại cho những người còn ở trần thế. Nhưng về xác thịt làm sao
những người ấy vui cho được khi biết người thân của mình đã vĩnh
viễn ra đi, và mình chỉ có thể gặp lại khi mình cũng từ giả họ
hàng ra đi như họ.
Ngay như dân HO chúng ta. Chúng ta biết rằng sang Mỹ
cuộc đời sẽ có tương lai hơn, sẽ sướng hơn. Thế mà cũng đã có
người phải khóc khi xa người thân. Họ đáng lẻ phải cười thật
tươi vì còn đường trước mặt sẽ nở đầy hoa. Nhưng họ cũng không
đành bỏ lại mẹ già cùng những người con nào không ra đi được với
họ. Còn những người ở lại thì khỏi nói.
Tôi nhớ lại lúc lên xe lửa, tôi thấy mẹ tôi cười tươi
lắm để tôi khỏi bịn rịn. Nhưng lúc xe lửa vòng qua nhà, tôi thấy
mẹ tôi khóc!! Và tôi cũng khóc! Vợ tôi cũng khóc! Chỉ có đám con
nhỏ không khóc vì chúng chưa biết gì!
Nói vậy để một phần nào trả lời ông về việc có nên chia
vui không?
Hoàng
SP****************
Tác giả TRÀM CÀ MAU
Ông Tư bị ung thư
và biết chắc không thể sống lâu hơn sáu tháng. Ông bình tỉnh
chờ cái chết, và vui vẻ sống những ngày ngắn ngủi còn lại, mà
không bi ai, không sợ hãi. Ông muốn sau khi chết, gia đình làm
đám tang theo ý riêng của ông.
Nếu có ai biết ông
Tư đang cận kề cái chết mà ái ngại cho ông, thì ông cười vui
mà an ủi họ - chứ không phải là họ an ủi ông - rằng, nếu tin
theo đạo Chúa, thì khi chết được về thiên đàng, ngồi dưới chân
Chúa, sung sướng thế sao mà ai cũng sợ chết ?
Nếu theo đạo Phật,
thì khi chết cũng sẽ về Tây Phương Cực Lạc, vĩnh cửu an bình,
thì mừng vui chứ sao lại bi ai ? Và nếu nói theo đức Đạt Lai
Lạt Ma, thì cái xác thân ở trần gian, có thể ví như bộ áo quần
ta mang, khi nó đã sờn cũ, xấu xí, rách rưới mục nát rồi, thì
nên bỏ đi, mà mang bộ áo quần khác, đại ý nói đi đầu thai kiếp
khác, mang thân xác mới hơn.
Ông Tư nói với bạn
rằng, thân xác ông bây giờ như cái quần đã mục mông, rách đáy,
không còn che được cái muốn che, thì phải bỏ đi, không xài nữa
là hơn.
Bởi vậy, ông bình
tỉnh đón chờ cái chết cận kề. Khi biết ông bị ung thư sắp
chết, thì phút đầu tiên, ông lặng người đi. Nhưng rất mau sau
đó, ông nghĩ ra rằng bây giờ chỉ còn hai con đường để lựa
chọn.
Một là rầu rĩ bi
ai, than thân trách phận, oán thán trời đất, làm cho những
ngày ngắn ngủi còn lại trở thành u ám, khổ sở, muộn phiền. Hai
là bình tỉnh chấp nhận điều không thể tránh được với thái độ
tích cực, lạc quan, vui vẻ. Làm cho những ngày còn lại thành
tươi vui, tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Khi ra đi sẽ không có chút
tiếc thương vướng bận.
Ông chọn con đường
sau, nên không buồn bả, không hoang mang, không bi ai. Ông
thấy cuộc đời bỗng đáng yêu hơn, đẹp hơn. Ông mở lòng vui vẻ
đón nhận từng thời khắc, từng ngày còn lại.
Mỗi sáng dậy, ông
ca hát nhạc vui, và nói chuyện khôi hài cùng vợ con. Ông cố
làm đẹp lòng mọi người, vì ông nghĩ rằng, sau khi nhắm mắt nằm
xuống, thì dù có muốn tử tế với những người thân thương, cũng
không còn làm được nữa.
Ông Tư
dặn thêm vợ rằng đừng đăng báo, không đăng cáo phó gì cả. Đừng
làm rộn, bận trí bà con gần xa, buộc họ phải thăm viếng. Không
nên để phiền ai phúng điếu chia buồn. Ông đưa tờ báo cho bà,
và nói:
Em nhìn vào mấy cái
cáo phó nầy đây, đọc thấy buồn cười : Chúng tôi đau đớn báo
tin cho thân bằng quyến thuộc: Ông Nguyễn Văn Mỗ đã được Chúa
gọi về vào ngày , tháng, năm, hưởng thọ 82 tuổi... Được Chúa
gọi thì phải vui mừng, sung sướng, chứ sao lại đau đớn báo tin
? Về với Chúa là khổ lắm sao ? Có đi tù cải tạo đâu mà đau
buồn ?
Đáng ra phải cáo
phó bằng câu : " Chúng tôi hoan hỉ báo tin cùng thân bằng
quyến thuộc rằng, Ông Nguyễn văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào
ngày, tháng, năm,..". Và đây, một cáo phó khác, cũng " khóc
báo " với thân bằng quyến thuộc là thân nhân chúng tôi đã về
cõi Phật. Về cõi ma vương quỷ sứ mới khóc báo, chứ về cõi
Phật, sướng quá, mà khóc cái nỗi gì ?
Mất cái gì mới
ngại, chứ mất cái khổ đau hành hạ, thì cầu cho mất sớm, mất đi
càng nhiều càng mau, càng tốt. Anh nghe nói người Lào có quan
niệm rất hay về lẽ sống sự chết. Khi trong gia đình có người
chết, họ không bao giờ khóc lóc rầu rĩ, mà bình tỉnh an nhiên,
chắc rằng họ đã thấm nhuần cái lẽ thâm sâu của Phật giáo, biết
chết là giải thoát, rũ sạch nợ đời.
Cuộc đời, có thể ví
như một đêm, không đi ngủ lúc chín mười giờ, thì mười hai giờ,
một giờ sáng cũng phải đi ngủ. Nếu đêm không vui, thì tội gì
không đi ngủ sớm cho khỏe, mà phải thức để nỗi buồn gặm nhấm.
Nếu đêm nay đau
răng thì cố thức làm gì, ngủ sớm đi mà quên đau. Nhiều người
sống với thái độ như sẽ không bao giờ chết, cho nên tích tụ
của cải, bao nhiêu cũng không vừa, làm nhiều điều không đúng,
không phải. Bỡi vậy , khi biết mình sắp chết, thì hốt hoảng
khóc lóc, bi ai, mà vẫn không tránh được. Nhiều vị vua chúa
đời xưa cũng muốn sống đời, nên uồng thuốc trường sinh, mà ngộ
độc chết sớm.
Thấy ông tươi vui,
người biết ông có bệnh sắp chết, cũng quên mất là ông đang
bệnh, người không biết bệnh trạng của ông, thì ông cũng không
muốn nói ra làm gì. Ông đưa bà và hai con đi chơi một chuyến
trên du thuyền. Ông tham gia các cuộc chơi tập thể trên du
thuyền như hát hò, nhảy múa ca hát, tham gia các buổi hòa
nhạc, uống rượu, cho đến khi mãn cuộc. Ông vui vẻ, bình tĩnh
đến nỗi nhiều khi bà quên mất là vợ chồng không còn bên nhau
bao lâu nữa.
Ông Tư chuẩn bị
tinh thần cho vợ, cho con, để chấp nhận một sự thực không
tránh được. Chấp nhận với sự bình tỉnh, sáng suốt, không vui
vẻ nhưng không bi ai. Có người nói cho ông Tư nghe về kinh
nghiệm của những kẽ đã chết thật rồi, mà sống lại nhờ sự mầu
nhiệm nào đó. Rằng khi chết, thì thấy mình đi vào một vùng ánh
sáng lạ, rất hân hoan sung sướng, khoái cảm tràn trề. Bỡi vậy,
nên người đã trãi qua cận tử, thì không cón sợ chết nữa, mà
đón nhận như là một ân huệ của trời đất.
( Về việc đóng tiền
cho người khác để mua hòm và mai táng )
Kêu gọi thì tôi
đóng tiền, chứ thực tình trong lòng tôi nghĩ khác. Chết thì
hỏa thiêu là đẹp nhất, tốt nhất và lại vệ sinh. Chôn xuống đất
cho dòi bọ nó rúc rỉa, cho sình thối chứ có được gì. Một vạn
cái xác, mới có được một cái không thối rữa, mà cũng khô đét
nằm nhăn răng ra, hôi hám xấu xí. Nằm chật chội trong tối tăm
âm u, dưới đất lạnh lẽo, chứ có sung sướng gì đâu.
Rồi lâu ngày, thịt
da cũng rữa, xương cũng mục. Được bao nhiêu năm ? Mà cứ nghĩ
kỹ xem, nếu mỗi người chết phải có một nấm mồ chừng hai thước
vuông, thì trên thế giới nầy từ triệu năm trước đến nay, và
nhiều triệu năm sau nữa, tỉ tỉ người đã chết và sẽ chết, lấy
đâu ra đất mà chôn. Không lẽ cả thế giới nầy chẵng còn một tấc
đất mà trồng trọt, nhịn đói chết hết sao?
Nhiều xứ văn minh
hiện nay, người ta thiêu xác. Bên Nhật, bên Tàu, Ấn Độ và
nhiều xứ khác nữa, người chết được hỏa thiêu. Đạo Phật chính
tông, thì các tăng ni đều được hỏa táng, nhưng những người
theo đạo Phật nửa vời, thì lại chôn cất. Bày đặt ma chay linh
đình cho thêm tốn kém.
Bạn ông Tư hỏi : -
Có phải người theo đạo Chúa không dám hỏa táng ? Nghe đâu họ
tin có ngày phán xét cuối cùng, và được sống lại. Bỡi vậy nên
phải giữ thân thể, không muốn thiêu tan thành tro bụi.
Ông Tư cười lớn nói
:
- Chờ đến ngày phán xét cuối cùng, thì sắt đá cũng đã mũn ra tro bụi, nói chi đến cái thân xác mong manh? Có lẽ những kẽ mê tín, kém hiểu biết, diễn dịch sai ý nghĩa của kinh Thánh chăng ? Mà dù cho xương cốt có còn, thì cũng chỉ là bộ xương cũ mục, làm sao mà sống lại trên bộ xương đó được ?
- Chờ đến ngày phán xét cuối cùng, thì sắt đá cũng đã mũn ra tro bụi, nói chi đến cái thân xác mong manh? Có lẽ những kẽ mê tín, kém hiểu biết, diễn dịch sai ý nghĩa của kinh Thánh chăng ? Mà dù cho xương cốt có còn, thì cũng chỉ là bộ xương cũ mục, làm sao mà sống lại trên bộ xương đó được ?
Bỡi thế, nên tôi
cho hỏa thiêu là sạch sẽ và tiện lợi nhất.
Câu chuyện bàn rộng
đến phong trào Việt Kiều về quê xây lăng mộ cho thân nhân, cho
tổ tiên, đến nỗi có nhiều làng thi đua xây cất cho nguy nga,
cho to lớn. Thấy lăng mộ người khác lớn hơn, thì đập cái cũ
ra, xây lại cho lớn, cho đồ sộ hơn. Có nơi người ta đặt tên là
Làng Ma, vì toàn cả lăng mộ.
Ông Tư cho rằng,
xây lại mồ mả cho tổ tiên để báo hiếu, cũng là một hành động
tốt, không có chi sai trái. Nhưng thi đua nhau xây và xây cất
có tính cách phô trương thì chỉ làm trò cười cho thiên hạ.
Liệu những phần mộ kia đứng vững được bao nhiêu năm, và còn
được con cháu chăm sóc đến bao giờ ?
Rồi cũng có ngày
trở thành hoang phế, chẵng ai đoái hoài đến, mà mục rữa với
thời gian. May ra, những nơi thiêng liêng như đền quốc tỗ Hùng
Vương, lăng mộ các bậc anh hùng giữ nước, dựng nước, mới được
con cháu tiếp tục tu sửa chăm nom. Thế mà cũng có còn tả tơi,
tàn tạ, không ai chăm nom.
Huống chi mình, là
thứ thường dân, vô danh tiểu tốt, chưa làm được gì. Chưa kể
những kẽ là tội đồ của dân tộc, bày đặt xây lăng ướp xác, như
các ông lảnh tụ cọng sản từ Âu sang Á, từ từ rồi mồ mã cũng bị
phá bỏ , san bằng. Bỡi thế, ông Tư dặn vợ con đừng xây mộ, tạc
bia cho ông làm chi.
Ông Tư mượn bài thơ
của ông bạn về đánh máy và sắp xếp lại cho đẹp, in ra nhiều
bản, phóng ra một bản lớn, để dành khi ông chết sẽ sử dụng.
Chỉ bốn tháng, sau khi được báo tin ung thư, ông Tư qua đời mà không đau đớn nhiều, không dùng hóa học trị liệu trước khi chết. Có người mách cho ông nhiều loại thuốc ngoại khoa, ông cũng dùng thử.
Chỉ bốn tháng, sau khi được báo tin ung thư, ông Tư qua đời mà không đau đớn nhiều, không dùng hóa học trị liệu trước khi chết. Có người mách cho ông nhiều loại thuốc ngoại khoa, ông cũng dùng thử.
Trong giới bạn bè
thân tình, có người nói là ông Tư đã tự chọn lấy con đường ra
đi nhẹ nhàng, không để bệnh hoạn hành hạ trước khi chết. Ông
Tư thường đùa rằng, còn nước thì còn tát, biết là dù có tát
thì thuyền cũng chìm, thì quẳng gàu đi cho đở mệt trước khi
thuyền chìm.
Bà con bạn bè đến
viếng tang ông Tư tại nhà, khi bước vào cỗng, họ cố sửa soạn
lại bộ mặt cho có vẽ buồn rầu, nghiêm nghị, để hợp với cảnh
tang ma, dù trong lòng họ không có chút bi ai nào. Nhưng họ
nghe có tiếng nhạc vui đang rộn rã vẵng ra từ bên trong, hòa
với tiếng nhạc là tiếng cười vui vang vang, tiếng ồn ào. Người
nào cũng giật mình, vội vả xem kỹ lại số nhà, sợ đi lầm.
Vào nhà, mỗi khách
viếng tang được phát một tờ giấy màu hồng, bên trên ghi bài
thơ Khi Tôi Chết . Bài thơ cũng được chụp phóng lớn, dán trên
tấm bảng che kín cả một bức tường. Khách và chủ đang vui vẻ
chuyện trò, cười đùa.
Không thấy quan tài
ông Tư đâu cả. Trên bệ thờ có cái ảnh ông Tư phóng lớn, miệng
cười toe toét, tóc bù gió lộng. Trước tấm ảnh có cái hộp vuông
chứa tro xương của ông Tư. Tiếng nhạc vui vang vang từ máy
hát. Bài thơ in đậm nét:
Khi Tôi Chết
Nếu làm
biếng, cứ nằm nhà thoải mái
Viếng thăm chi, vài phút có thêm gì ?
Mắt đã nhắm. Lạnh thân. Da bầm tái .
Dẫu bôi son, trát phấn cũng thâm chì
Viếng thăm chi, vài phút có thêm gì ?
Mắt đã nhắm. Lạnh thân. Da bầm tái .
Dẫu bôi son, trát phấn cũng thâm chì
Tôi đi
trước, hẹn gặp nhau ở đó,
Ai thay da mãi mãi sống trăm đời .
Kẽ trước người sau, xếp hàng xuống mộ
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi.
Ai thay da mãi mãi sống trăm đời .
Kẽ trước người sau, xếp hàng xuống mộ
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi.
Nếu có khóc,
khóc cho người còn lại,
Bỡi từ nay thiếu vắng nỗi đầy vơi .
Cũng mất mát, dáng hình , lời thân ái
Tựa nương nhau, hụt hẫng giữa đất trời.
Bỡi từ nay thiếu vắng nỗi đầy vơi .
Cũng mất mát, dáng hình , lời thân ái
Tựa nương nhau, hụt hẫng giữa đất trời.
Đừng đăng
báo, phân ưu lời cáo phó
Chuyện thường tình, phí giấy có ích chi ?
Gởi mua gạo, giúp người nghèo đói khó
Dịu đau buồn những kiếp sống hàn vi,
Chuyện thường tình, phí giấy có ích chi ?
Gởi mua gạo, giúp người nghèo đói khó
Dịu đau buồn những kiếp sống hàn vi,
Trỗi nhạc
vui cho người người ý thức,
Cuộc nhân sinh sống chết cũng tương đồng,
Khi nằm xuống, xuôi tay và nhắm mắt
Thì đau buồn hạnh phúc cũng hư không.
Cuộc nhân sinh sống chết cũng tương đồng,
Khi nằm xuống, xuôi tay và nhắm mắt
Thì đau buồn hạnh phúc cũng hư không.
Đừng xây mộ,
khắc bia ghi tên tuổi
Vài trăm năm hoang vắng, chẳng ai hoài .
Vũ trụ vô cùng, thời gian tiếp nối,
Tỉ tỉ người đã chết tự sơ khai.
Vài trăm năm hoang vắng, chẳng ai hoài .
Vũ trụ vô cùng, thời gian tiếp nối,
Tỉ tỉ người đã chết tự sơ khai.
Khi tôi chết
đừng ma chay đình đám,
Hỏa thiêu tàn, tro xác gởi về quê
Dẫu bốn biển, cũng là nhà, bầu bạn
Trong tôi còn tha thiết chút tình mê.
Hỏa thiêu tàn, tro xác gởi về quê
Dẫu bốn biển, cũng là nhà, bầu bạn
Trong tôi còn tha thiết chút tình mê.
Thì cũng C,
H, O, N kết lại,
Nắm tro xương hài cốt khác nhau gì,
Nhưng đất mẹ chan hòa niềm thân ái,
Cho tôi về, dù cát bụi vô tri.
Nắm tro xương hài cốt khác nhau gì,
Nhưng đất mẹ chan hòa niềm thân ái,
Cho tôi về, dù cát bụi vô tri.
Khi đọc xong bài
thơ, có người thì mĩm cười, có người vui hẵn, và nói chuyện
oang oang. Họ cho rằng bài thơ đã nói hết ý nguyện của người
chết. Người chết không muốn bạn bè buồn rầu, thương tiếc, thì
việc chi mà lại làm bộ, gượng gạo tạo ra nét buồn khổ trên
mặt.
Vợ con người chết
cũng không tỏ vẽ buồn rầu, mà cũng không hớn hở. Không một
tiếng khóc lóc, thở than. Nhạc vui vẫn dồn dập phát ra từ máy
vang dội. Khi khách đã đến chật nhà, và đúng giờ cử hành tang
lễ, bà vợ ông Tư và đứa con trai mang áo quần trắng đứng chắp
tay bên bàn thờ, cô con gái đứng bên tấm ảnh ông, cầm máy vi
âm nhoẻn miệng cười và nói :
-Thưa các cụ, cô
bác chú dì, bà con bạn bè thân thiết xa gần, chúng tôi xin cám
ơn quý vị đã có lòng đến viếng tang Ba chúng tôi. Tang lễ nầy
làm theo ý nguyện của người quá cố. Không làm tang lễ theo tục
lệ bình thường, vì sợ trái với ước vọng cuối cùng của Ba chúng
tôi. Chúng tôi xin nhận lấy mọi lời trách móc nếu có từ bà con
bạn bè.
Ba chúng tôi đã
bình tĩnh và vui vẻ đón cái chết như một sự trở về không tránh
được . Trong những ngày cuối của cuộc đời, Ba chúng tôi rất
vui, chuẩn bị kỹ cho gia đình và cho chính ông. Ông đã dặn dò
chúng tôi, không nên khóc lóc, không nên buồn rầu, vì sự thực
không có chi đáng buồn cả. Ông dặn chúng tôi vặn cuốn băng sau
đây cho bà con cô bác nghe.
( Ông Tư đọc bài
thơ trên )
Giọng Huế của ông
Tư đọc chậm và ngân dài những đoạn ông đắc ý : Tôi đi trước,
hẹn gặp nhau ở đó . Ai thay da mãi mãi sống muôn đời, Kẽ trước
người sau xếp hàng xuống mộ, biết đâu là khởi điểm cuộc rong
chơi. Cuối cùng, có một tràng cười ha ha của ông Tư để chấm
dứt bài thơ.
Sau bài thơ, có ba
ông người Mỹ, hai ông da đen, một ông da trắng, cầm đàn và kèn
trỗi lên mấy khúc nhạc vui, các ông nhún nhẫy uốn éo, nhiều
lúc dậm chân xuống sàn. Ba ông cùng lúc lắc, làm hàng một, đi
quanh phòng khách, như múa lượn trước bàn thờ ông Tư. Những
ông nầy, là bạn chơi nhạc với ông Tư tại các quán ca nhạc ban
đêm.
Một bạn thân của
ông Tư, quen nhau từ thuỡ trung học, đại diện bà con, đến
trước bàn thờ, vỗ vào hộp tro xương, cười ha hả và nói:
- Tư ơi, ông là số một rồi đó, chả có ai bằng ông. Ông hiểu tận tường lẽ huyền vi của tạo hóa. Sống cũng vui, mà chết cũng vui. Sống cũng dám làm, mà chết rồi cũng dám làm, và làm được. Tôi cũng ước mong rằng, sau khi chết, vợ con làm cho tôi một đám tang như thế nầy, thì vô cùng sung sướng. Tưởng ông nói đùa chơi, ai ngờ làm thật.
- Tư ơi, ông là số một rồi đó, chả có ai bằng ông. Ông hiểu tận tường lẽ huyền vi của tạo hóa. Sống cũng vui, mà chết cũng vui. Sống cũng dám làm, mà chết rồi cũng dám làm, và làm được. Tôi cũng ước mong rằng, sau khi chết, vợ con làm cho tôi một đám tang như thế nầy, thì vô cùng sung sướng. Tưởng ông nói đùa chơi, ai ngờ làm thật.
Một vị mục sư là
bạn thân của gia đình, cũng đến trước bàn thờ, và đoan chắc
rằng bây giờ ông Tư đã được về với Thiên Chúa. Ông cho rằng
thái độ của ông Tư trước cái chết rất sáng suốt, đáng khâm
phục, và đáng được mọi người noi theo.
Một vị sư già, có
bà con họ hàng với ông Tư, đã từng viết nhiều sách Phật và rao
giảng đạo từ bi, nói trước linh vị :
- Bần đạo không cần đọc kinh cầu siêu cho thí chủ. Bởi linh hồn thí chủ đã thực sự siêu thoát trước khi chết. Thí chủ không vướng bận cõi trần, không hệ lụy vào cái thân xác tạm bợ. Thanh thản ra đi như kẽ đi chơi, thong dong, dễ dàng. Thí chủ đã hiểu thấu đáo cái lẽ vô thường trong đạo pháp.
- Bần đạo không cần đọc kinh cầu siêu cho thí chủ. Bởi linh hồn thí chủ đã thực sự siêu thoát trước khi chết. Thí chủ không vướng bận cõi trần, không hệ lụy vào cái thân xác tạm bợ. Thanh thản ra đi như kẽ đi chơi, thong dong, dễ dàng. Thí chủ đã hiểu thấu đáo cái lẽ vô thường trong đạo pháp.
Mọi người ra về,
lòng nhẹ nhàng, tưởng như đi trong mơ. Từ phía nhà ông Tư, còn
vang vọng nhạc vui đưa tiển đám tang khách.
Khi tôi
chết, viếng tang đừng buồn bã
Cười cho to, kể chuyện tếu vui đùa ,
Trong sáu tấm biết chắc tôi hả dạ,
Lên tinh thần, ấm áp buổi tiễn đưa
Cười cho to, kể chuyện tếu vui đùa ,
Trong sáu tấm biết chắc tôi hả dạ,
Lên tinh thần, ấm áp buổi tiễn đưa
Cuộc đời này chỉ là 1 giấc mơ. Có
nhiều người đang sống, nhưng vẫn còn mơ...
Đến khi bịnh hoạn lên giường nằm
rồi, mới nhìn lại được quãng đời mình.
Như 1 cuốn phim, quay chậm...
Cuộc vui nào rồi cũng tàn, họp mặt
nào rồi cũng chia xa, hạnh phúc nào rồi cũng ly tan.
Và con người nào rồi cũng trở thành
cát bụi. Đây là luật Vô Thường - không ai thoát được.
Có quán niệm được điều này (không
qua nói miệng) trong mổi ngày, trong hành động, và từng hơi
thở..
Thì sẽ tìm được hạnh phúc không xa...TRÀM CÀ MAU
NGUỒN: Từ email của ĐỨC PHÚ gửi lamngoc
Xin cảm ơn Tác giả ĐứcPhú.
7 nhận xét:
http://d4.violet.vn/uploads/blogs/727590/cafe.gif
Mời chị cafe. Chúa Nhật an lành chị nhé!
Đức Phú là người bạn đã gửi email này chung đến nhiều người, trong đó có mình. Đức Phú từng là chủ tịch Hội đồng mục vụ giáo xứ Đồng Tiến, La Gi, Bình Thuận. Mình chia sẻ bài viết do Đức Phú sưu tầm và chuyển tiếp email do bạn bè gửi.
Mời chia sẻ bài thơ của Xuân Ly Băng (tức là Đức Ông Lm Gio an Bao- tít -xta Lê Xuân Hoa) với ý tức sẵn sàng đón nhận cái chết
http://www.youtube.com/watch?v=9TpECgQ9bZg#t=60
Vâng ạ cảm on bạn đã cho biết thong tin về ĐP mấy hôm NM bận nhiều việc quá nên chưa viết bài TG Tràm Cà Mau thì mình biết vì ông ấy cũng là bạn của bạn mình (ở bên này )
Kính chúc Đức Ông nhiều tốt đẹp
à mình nói chuyện này là người Mỹ họ cũng đón nhận cái chết một cách tự nhiên đám tang ko có khóc lóc thê thảm ăn mặc tang phục nhầu nát như người Tàu mà than nhân và người đi đưa đều ăn mặc sạch sẽ lịch sự tươm tất đẹp đẽ ý là '' vui'' khi tiễn người chết về cõi địa đàng gần như lúc sống ai cũng sẵn sàng cho cái chết (ngay cả mình cũng đã có di chúc và đóng tiền cho hội trợ tang khi nào chết sẽ có đủ tiền lo chi phí đám tang mà ko làm phiền con cháu (nói vậy chứ NM sợ chết lắm hic hic...)Lúc mới qua Mỹ có lần đi đám tang một người Mỹ mình rất ngạc nhiên là ai cũng mặc đồ đẹp...
cảm ơn caphe của HP và tang TEMMMM VANGGGG cho HP nhé Chúc vui nhiều sang tác hay
Chị có một số sách phật giáo nói về sự chuẩn bị cho cái chết nhưng dài quá, các cháu nó ko có thì giờ đọc. Bài này cũng mang tinh thần đó một cách cô đọng, Chị in bài này của em cho cả nhà đọc. Cám ơn NM
EM GAI CAM ON CHI THAN YEU
Đăng nhận xét