桃花溪
隱隱飛橋隔野煙,
石磯西畔問漁船。
桃花盡日隨流水,
洞在清溪何處邊。
張旭
ĐÀO HOA KHÊ
TRƯƠNG HÚC
Phiên âm Hán Việt
Ẩn ẩn phi kiều cách dã yên
Thạch ky tây bạn vấn ngư thuyền
Đào hoa tận nhựt tùy lưu thủy
Động tại thanh khê hà xứ biên?
Dịch:
SUỐI ĐÀO HOA
Cầu treo ẩn hiện khói đồng
Hỏi ông thuyền đậu bên dòng bờ tây
Hoa đào theo nước lao xao
Biết chăng lối động đường vào ở đâu?
烏棲曲
姑蘇台上烏棲時,
吳王宮裡醉西施。
吳歌楚舞歡未畢,
青山欲含半邊日。
銀箭金壺漏水多,
起看秋月墜江波,
東方漸高奈樂何。
李白
Ô THÊ KHÚC
LÝ BẠCH
Phiên âm Hán Việt
Cô tô đài thượng ô thê thì
Ngô Vương cung lúy túy Tây Thi
Ngô ca Sở vũ hoan vị tất
Thanh sơn dục hàm bán biên nhật
Ngân tiển kim hồ lậu thủy đa
Khởi khan thu nguyệt trung giang hà
Đông phương tiệm cao nại lạc hà
Dịch:
KHÚC CA QUẠ ĐẬU
Cô Tô đàn quạ tụ về
Vua Ngô Tây Tử mãi mê vui vầy
Hát Ngô múa Sở kéo dài
Mặt trời xuống thấp non đoài xa xa
Bình vàng tên bạc trôi qua
Trăng thu đã lặn sóng xa trập trùng
Phương tây trời đã ửng hồng
Cuộc vui kéo mãi vẫn không chịu tàn
TÂY THI
TÔ ĐÔNG PHA
Phiên âm Hán Việt
Thủy quang liễm diễm tình phương hảo
Sơn sắc không mông vũ diệc kỳ
Dục bá Tây Hồ tỉ Tây Tử
Đạm trang nồng mật tốn tương nghi
Dịch :
TÂY THI
Nắng dọi lượn lờ bóng nước xao
Mưa tuôn vẫn sắc nước xanh màu
Tây hồ ví tựa Tây Thi vậy
Trang điểm thế nào đẹp như nhau
西施石
西施昔日浣紗津
石上青苔思殺人
一去姑蘇不復返
岸傍桃李為誰春
樓穎-
TÂY THI THẠCH
LÂU DĨNH
(Phiên âm Hán Việt)
Tây Thi tích nhựt tẩy sa tân
Thạch thượng thanh đài sầu sát nhân
Nhứt khứ Cô Tô bất phục phản
Ngạn bàng đào lý vị thùy xuân
Dịch :
PHIẾN ĐÁ TÂY THI
Tây Thi giặt lụa bến sông này
Đá bám rêu buồn dạ xót thay
Cô Tô một chuyến đi không lại
Đào lý bên sông vẫn nở đầy.
閨怨
閨中少婦不知愁,
春日凝妝上翠樓。
忽見陌頭楊柳色,
悔教夫婿覓封侯
王昌齡
KHUÊ OÁN
Phiên âm Hán Việt
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhựt hương trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu
VƯƠNG XƯƠNG LINH
Dịch:
LỜI THAN KHUÊ PHỤ
Trong cung thiếu phụ không sầu
Ngày xuân trang điểm lên lầu nhìn quanh
Giật mình thấy sắc liễu xanh
Tiếc chồng vạn dặm công danh chưa về.
春望 XUÂN VỌNG
( Phiên âm Hán Việt)
國破山河在, Quốc phá sơn hà tại,
城春草木深。 Thành xuân thảo mộc thâm.
感時花濺淚, Cảm thời hoa tiễn lê,
恨別鳥驚心。 Hận biệt điểu kinh tâm.
烽火連三月, Phong hỏa liên tam nguyệt,
家書抵萬金。 Gia thư để vạn kim.
白頭搔更短, Bach. đầu tao cánh đoản,
渾欲不勝簪。 Hồn dục bất thắng trâm.
杜甫 ĐỖ PHỦ
。
王昌齡
KHUÊ OÁN
Phiên âm Hán Việt
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhựt hương trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu
VƯƠNG XƯƠNG LINH
Dịch:
LỜI THAN KHUÊ PHỤ
Trong cung thiếu phụ không sầu
Ngày xuân trang điểm lên lầu nhìn quanh
Giật mình thấy sắc liễu xanh
Tiếc chồng vạn dặm công danh chưa về.
春望 XUÂN VỌNG
( Phiên âm Hán Việt)
國破山河在, Quốc phá sơn hà tại,
城春草木深。 Thành xuân thảo mộc thâm.
感時花濺淚, Cảm thời hoa tiễn lê,
恨別鳥驚心。 Hận biệt điểu kinh tâm.
烽火連三月, Phong hỏa liên tam nguyệt,
家書抵萬金。 Gia thư để vạn kim.
白頭搔更短, Bach. đầu tao cánh đoản,
渾欲不勝簪。 Hồn dục bất thắng trâm.
杜甫 ĐỖ PHỦ
。
MN Phỏng dịch:
XUÂN VỌNG
Nước đã mất núi sông còn đó
Trời vào xuân cây cỏ xanh rì
Chim buồn hoảng sợ phân ly
Cỏ hoa rơi lệ sầu bi những ngày
Lửa binh ba tháng dài ly hận
Nhận thư nhà mỗi bận có vui
Bạc đầu tóc rụng dần thôi
Lưa thưa khó búi lấy gì cài trâm !
題都城南莊
去年今日此門中,
人面桃花相映紅;
人面不知何處去,
桃花依舊笑東風
崔護
XUÂN VỌNG
Nước đã mất núi sông còn đó
Trời vào xuân cây cỏ xanh rì
Chim buồn hoảng sợ phân ly
Cỏ hoa rơi lệ sầu bi những ngày
Lửa binh ba tháng dài ly hận
Nhận thư nhà mỗi bận có vui
Bạc đầu tóc rụng dần thôi
Lưa thưa khó búi lấy gì cài trâm !
題都城南莊
去年今日此門中,
人面桃花相映紅;
人面不知何處去,
桃花依舊笑東風
崔護
ĐỀ ĐÔ THÀNH NAM TRANG
THÔI HỘ
Phiên âm Hán Việt
Khứ niên kim nhựt thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
Dịch:
ĐỀ ĐÔ THÀNH NAM TRANG
Năm xưa bên cửa ngày này
Đào hoa sánh tựa má ai ửng hồng
Hỏi người năm trước còn không
Hoa đào cùng với gió Đông vẫn cười.
搗衣篇
閨里佳人年十余,
顰蛾對影恨離居。
忽逢江上春歸燕,
銜得雲中尺素書。
玉手開緘長嘆息,
狂夫猶戍交河北。
萬里交河水北流,
愿為雙燕泛中洲。
君邊雲擁青絲騎,
妾處苔生紅粉樓。
樓上春風日將歇,
誰能攬鏡看愁發。
曉吹員管隨落花,
夜搗戎衣向明月。
明月高高刻漏長,
真珠帘箔掩蘭堂。
橫垂寶幄同心結,
半拂瓊筵蘇合香。
瓊筵寶幄連枝錦,
燈燭熒熒照孤寢。
有便憑將金剪刀,
為君留下相思枕。
摘盡庭蘭不見君,
紅巾拭淚生氤氳。
明年若更征邊塞,
愿作陽臺一斷雲。
李白
ĐẢO Y THIÊN
LÝ BẠCH
Phiên âm Hán Việt
Khuê lý giai nhân niên thập dư
Tần nga đối ảnh hận ly cư
Hốt phùng giang thượng xuân qui yến
Hàm đắc vân trung xích tố thư
Ngọc thủ khai giam thường khan thức
Cuồng phu do thú Giao hà bắc
Vạn lý Giao hà thủy bắc lưu
Nguyện vi song điểu phiếm trung châu
Quân biên vân ủng thanh ty kỵ
Thiếp xứ đài sinh hồng phấn lâu
Lâu thượng xuân phong nhật tương yết
Thùy năng lãm kính khan sầu phát
Hiểu xuy niên quản tùy lạc hoa
Dạ đảo nhung y hướng minh nguyệt
Minh nguyệt cao cao khắc lậu trường
Chân châu liêm bạc yểm lan đường
Hoành thùy bảo ác đồng tâm kết
Bán nhất quỳnh diên tô hợp hương
Quỳnh diên bảo ác liên chi cẩm
Đăng chúc quỳnh quỳnh chiếu cô tấm
Hữu sứ bằng tương kim tiển đao
Vi quân lưu hạ tương tư chẩm
Trích tận đình lan bất kiến quân
Hồng cân thức lệ sinh nhân uân
Minh niên nhược canh chinh biên tái
Nguyện tác dương đài nhứt đoạn vân
SL phỏng dịch :
BÀI CA GIẶT ÁO
Mười năm vắng lặng phòng khuê
Chau mày một bóng não nề sầu dâng
Xuân về én liệng bên sông
Trong mây miệng ngậm mấy dòng tin xa
Thở dài tay ngọc mở ra
Biết chàng còn ở ngoài xa Giao hà
Sông Giao cách biệt nơi nào
Nguyện làm đôi én trời cao bay cùng
Ngựa chàng mây phủ mông lung
Lầu hồng phận thiếp xanh cùng cỏ rêu
Gió xuân lặng lẽ đìu hiu
Ngắm gương thấy tóc bạc nhiều tháng năm
Hoa rơi tiếng sáo xa xăm
Áo nhung đấp phủ đêm nằm trăng sao
Trăng lên thời khắc qua mau
Rèm buông phủ kín hiên sau lạnh buồn
Bức màn kết giải đồng tâm
Hương thơm rũ bỏ tràn trên chiếu nằm
Gấm hoa ai dệt chiếu màn
Chỗ nằm hiu quạnh riêng hàng nến soi
Một mai tin đã tới nơi
Tương tư làm gối cùng mời người xưa
Tháng ngày thắm thoát thoi đưa
Khăn hồng thấm lệ người xa chưa về
Năm sau chàng vẫn ngoài biên
Thiếp xin làm áng mây trên Dương đài
所見行 SỞ KIẾN HÀNH NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY
有婦攜三兒, Hữu phụ huề tam nhi Có mẹ dắt ba con
相將坐道旁。 Tương tương tọa đạo bàng Ngồi với nhau bên đường
小者在懷中, Tiểu giả tại hoài trung Đứa nhỏ ẵm trong bụng
大者持竹筐。 Đại giả trì trúc khuông Đứa lớn tay xách giỏ
筐中何所盛, Khuông trung hà sở thịnh Trong giỏ có những gì
藜藿雜枇糠。 Lê hoắc tạp tì khang Rau quả và tấm cám
日晏不得食, Nhựt án bất đắc thực Trưa rồi vẫn chưa ăn
衣裙何框禳。 Y quần hà khuông nhương Áo quần rách thê thảm
見人不仰視, Kiến nhân bất ngưỡng thị Gặp ai không dám nhìn
淚流襟浪浪。 Lệ lưu khâm lang lang Nước mắt chảy quanh áo
群兒且喜笑 , Quần nhi thả hỉ tiếu Lũ trẻ mãi cười vui
不知母心傷。 Bất tri mẫu tâm thương Đâu biết lòng mẹ khổ
母心傷如何, Mẫu tâm thương như hà Lòng mẹ sao đau xót
歲饑流異鄉。 Tuế cơ lưu dị hương Năm đói lạc quê người
異鄉稍豐熟, Dị hương sảo phong thục Quê người mùa màng tốt
米價不甚昂。 Mễ giá bất thậm ngang Giá gạo không quá cao
不惜棄鄉土, Bất tích khí hương thổ Bỏ làng nước ra đi
苟圖救生方。 Cầu đồ cứu sinh phương Để tìm phương sống sót
一人竭傭力, Nhứt nhân kiệt dung lực Cố sức mình làm mướn
不充四口糧。 Bất sung tứ khẩu lương Không đủ bốn miệng ăn
沿街日乞食, Duyên nhai nhựt khất thực Ngày ngày phải khất thực
此計安可長。 Thử kế an khả trường Cách ấy đâu lâu dài
眼下委溝壑, Nhãn hạ ủy câu thác Mai bỏ xác giữa đường
血肉飼豺狼。 Huyết nhục tự sài lang Máu thịt nuôi hùm sói
母死不足恤, Mẫu tử bất túc tuất Mẹ chết đã đành thôi
撫兒增斷腸。 Phủ nhi tăng đoạn trường Ôm con càng đứt ruột
奇痛在心頭, Kỳ thống tại tâm đầu Đau đớn tận tim gan
天日皆為黃。 Thiên nhựt giai vị hoàng Mặt trời xuống úa vàng
陰風飄然至, Âm phong phiêu nhiên chí Gió lạnh thổi ào ào
行人亦悽惶。 Hành nhân diệc thê hoàng Khách qua đường thương xót
昨宵西河驛 , Tạc tiêu Tây Hà vực Đêm qua ở Tây Hà
供具何張黃。 Cung cụ hà trương hoàng Yến tiệc linh đình quá
鹿筋雜魚翅, Lộc cân tạp ngư xí Gân hưu cùng vi cá
滿棹陳豬羊。 Mãn trác trần trư dương Đầy bàn heo dê gà
長官不下箸, Trưởng quan bất hạ trợ Quan lớn không đụng đuã
小們只略嘗。 Tiểu quan chỉ lược thường Tùy tùng chỉ nếm qua
撥棄無顧惜, Bát khí vô cố tích Vứt bỏ không hề tiếc
鄰狗厭膏粱。 Lân cẩu yếm cao lương Chó còn chán thức ngon
不知官道上, Bất tri quan đạo trường Nào ai biết bên đường
有此窮兒娘。 Hữu thử cùng nhi nương Mẹ con đang đói lã
誰人寫此圖 , Thuỳ nhân tả thử đồ Thế gian ai vẽ đươc
持以奉君王。 Tri dĩ phụng quân vương Đem tranh này dâng vua
阮攸 NGUYỄN DU NM phỏng dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét