VĂN TẾ NGHĨA SĨ HOÀNG SA
Hỡi ơi!
Nhẹ tựa lông hồng,
Nặng tày non Thái.
Những cái chết đã đi vào quốc sử, con cháu nghe mà xót dạ bàng hoàng,
Bao con người vì gánh vác giang sơn, cây cỏ thấy cũng chạnh lòng tê tái.
Anh linh kia hoài phảng phất thiên phương,
Chính khí đó sẽ trường tồn vạn tải.
Mới hay,
Giòng giống Việt luôn còn nòi nghĩa dũng, thịt tan xương nát sá chi,
Trời đất Nam đâu thiếu bậc anh hùng, máu đổ thây rơi nào ngại.
Kính các anh vị quốc thân vong
Bày một lễ thâm tình cung bái.
Nhớ các anh xưa,
Tuổi trẻ thanh xuân,
Khí hùng chí đại.
Thời binh hỏa đâu màng gì nhung gấm, chọn tri âm tri kỷ chốn sa trường,
Thuở can qua há tiếc chút bình an, nguyền báo quốc báo dân nơi hiểm ải.
Một tấc đất vẫn là cương thổ, ông cha xưa bao đời gầy dựng, sao cam lòng để vuột mất đi.
Dăm hòn đảo ấy vốn bản hương, anh em nay mấy độ canh cày, quyết tận sức ra gìn giữ mãi.
Từ Chúa Nguyễn sách văn[1] chép rõ, nhân dân Nam từng khai thác làm ăn,
Đến Pháp Thanh công ước[2] còn ghi, chủ quyền Việt chẳng luận bàn tranh cãi.
San Francisco hội nghị[3], mừng biết bao, thấy thế giới đồng lòng,
Việt Nam Quốc gia chính quyền[4], vui xiết kể, đón sơn hà trở lại.
Thế nên,
Đất cát ông cha thì phải giữ, dẫu mũi tên hòn đạn không sờn,
Núi sông tiên tổ sao chẳng gìn, mặc ăn gió nằm mưa chi nại.
Trùng dương sóng dữ, mập mờ thuyền viễn thú, thân trai há sợ kiếp gian nan,
Hải đảo gió cuồng, vời vợi biển quê hương, vai lính thêm bền lòng hăng hái.
Hội khao lề lại trống chiêng bi tráng, tiễn người đi mờ bóng cuối chân trời,
Nơi quê nhà đành con vợ u buồn, thương kẻ đợi trông buồm về trước bãi.
Có ngờ đâu,
Giặc ác hiểm quen tuồng xâm lược, máu tham tàn không giấu kín ý gian,
Ta hiền lương chuộng đạo hiếu hòa, tình hữu nghị có đâu ngoài lẽ phải.
Địch thả câu nước đục, hai ba lần chiếm đảo[5], xây đồn đắp lũy đó đây,
Chúng luồn gió bẻ măng, bốn năm dạo lên bờ, dựng trại cắm cờ lải rải.
Ngày 16 Quang Hòa, Hữu Nhật[6],… giặc đã nuốt tươi,
Đến 17 Duy Mộng, Quang Ảnh6,.. chúng đang xơi tái.
Lửa hờn bốc tận thanh vân.
Khí uất tràn đầy thương hải.
Ghìm máu nóng, thông tin bằng quang hiệu, giặc cứ ngang tàng,
Hạ quyết tâm, biệt hải tiến vào bờ, ta ôm thất bại.
Không nản chí, Thường Kiệt, Nhật Tảo băng băng pháo đạn xông pha,
Chẳng dùi lòng Bình Trọng, Khánh Dư[7] né né tiễn lôi lèo lái.
Vẳng đôi tai còn nghe khúc “Thuật Hoài”[8]
Bừng con mắt đà thấy câu “Trung Ngãi”[9]
Thế nhưng,
Lực bất tòng tâm,
Thiên dung vô lại[10].
Giặc đã nhiều chuẩn bị, nào tảo lôi, nào liệp đỉnh, tàu nhiều quân bộn giàn hàng,
Ta mất thế thượng phong, này sóng dữ, này đá ngầm, biển rộng đường xa phải trải.
Phía chếch đông tàu Mỹ đứng mà nhìn,
Phương chính bắc hạm Tàu nằm sắp phái.
Dù như thế ta vẫn quyết thư hùng
Có ra sao mình cứ liều sống mái.
Đùng đoành trọng pháo nổ thấp cao,
Sàn sạt hỏa tiễn bay trái phải,
Ngụy Văn Thà[11] trúng thương trước ngực, máu anh hùng đẫm ướt chiến y,
Lý Thường Kiệt[12] lãnh đạn ngang hông, nước đại hải ngập đầy buồng máy.
Khói mù tàu giặc cháy bốc lên,
Pháo nổ thuyền mình câu vọng lại.
Thương ơi!
Thế lực không cân
Thời cơ cũng trái.
Bảy tư người bỏ mình vì nước, biển sâu ký gởi thân phàm,
Cả bốn tàu trúng pháo quân thù, bờ cạn lui về gác mái.
Cờ quốc gia phủ người ra trận, toàn quân dân uất ức trẻ như già
Vành khăn tang chít tóc đang xanh, bao thân quyến nghẹn ngào trai lẫn gái.
Công các anh,
Tổ quốc thề không quên,
Toàn dân nguyền nhớ mãi.
Chống ngoại xâm là truyền thống muôn đời
Giữ lãnh thổ vốn luân thường vạn đại.
Máu tử sĩ sẽ nuôi khôn dân tộc, mau kiên trì giành lại giang sơn,
Xương anh linh rồi nung chín hùng tâm, sớm quyết liệt san bằng oan trái.
Nước cường thịnh khi dân biết kết đoàn,
Dân phú túc lúc người luôn thân ái.
Hôm nay.
Sơ sài lời điếu câu văn,
Đạm bạc chùm hoa dĩa trái.
Xót uy linh, xin tượng tạc bia xây,
Tỏ thâm tạ, khiến dân quì quan vái.
Mong các anh siêu độ tái sinh,
Cầu đất nước dân an quốc thái.
Hỡi ơi!
Xót xa tiếng mất ý còn,
Tha thiết lòng phơi ruột trải.
Hồn có linh thiêng
Niệm tình thụ bái.
Huế, ngày 18.01.2014
NP VĨNH BA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét