duc do
12:16 (13 giờ trước)
tới tôi :
TIỂU SỬ:
Tùng Thiện Vương Miên Thẩm là con trai thứ 10 của Minh Mạng, sinh ngày 24 tháng 10 năm Kỷ Mão (tức 11 tháng 12 năm 1819) tại cung Thanh Hòa trong cấm thành Huế. Mẹ ông là Thục tần Nguyễn Thị Bửu (阮氏寶), người Bình Chương, Gia Định, con gái của Tư không Nguyễn Khắc Thiệu (阮克紹), rất giỏi chữ nghĩa.
Thuở lọt lòng, ông được ông nội đặt tên là Hiện (晛)[1][2]. Đến năm 1832, khi đã có Đế hệ thi, ông được cải tên là Nguyễn Phúc Miên Thẩm (阮福绵审).
Ông nội ông là Gia Long rất vui mừng, thưởng liền 10 lạng vàng[3]. Khi còn nhỏ, tính hay khóc, Thục tần rất lo mà không biết thế nào. Bỗng có đạo sĩ nói rằng: "Đây là sao Thái Bạch Kim Tinh giáng sinh, làm lễ tiễn thì khỏi.". Sau làm lễ, quả nhiên khỏi hẳn.
Năm lên 7 tuổi, Miên Thẩm cùng với các em vào Dưỡng Chính đường (養正堂), được thầy Thân Văn Quyền[4] dạy chu đáo. Ông rất chịu khó học tập, nên mới 8 tuổi (1827), nhân theo hầu Minh Mạng dự lễ Nam Giao, ông làm bài Nam Giao thi, rất được tán thưởng.
Năm 1839, ông được phong làm Tùng Quốc công (從國公), mở phủ ở phường Liêm Năng, bên bờ sông An Cựu, Huế.
Năm 1849, ông lập thêm Tiêu Viên sau phủ, đón mẹ (Thục tân Nguyễn Thị Bửu) và ba em gái (Nguyệt Đình, Mai Am và Huệ Phố) ra phụng dưỡng chăm nuôi. Khi các em lần lượt có chồng, rồi mẹ mất, ông cải tạo phủ chính làm nhà thờ, còn mình lui về ở Tiêu Viên và dựng lều tranh bên cạnh mộ mẹ cư tang ba năm.
Năm 1854, mãn tang, ông được gia phong Tùng Thiện công (從善公). Năm 1858, ông mua 12 mẫu ruộng ở xã Dương Xuân, làm nhà ở gọi là Phương Thốn thảo đường.
Năm 1865, ông giữ chức Tả Tôn Nhân phủ, trong thời gian này xảy ra sự biến giặc Chày vôi. Trước đó, ông đã gả con gái là Thể Cúc cho Đoàn Hữu Trưng, một thanh niên ở làng An Truyền (tức làng Chuồn). Năm 1866, Hữu Trưng ngầm làm cuộc nổi dậy nhằm lật đổ Tự Đức. Việc thất bại, Hữu Trưng và nhiều người bị hành hình. Mặc dù trước đó, Hữu Trưng đã lấy cớ vợ cư xử trái lễ với mẹ chồng mà trả về để tránh liên lụy cho nhà vợ, Miên Thẩm cũng trói cả con gái và cháu ngoại, quỳ dâng sớ xin chịu tội.
Tự Đức không kết tội chỉ nói ông: "Chọn rể không cẩn thận để mất thanh danh, nay trừ bổng trong tám năm". Suốt những năm bị trừ bổng ấy, ông lên ngôi chùa cổ Từ Lâm hoang tàn ở xã Dương Xuân làm nơi cư ngụ, vợ con phải canh tác trồng cây quả đem ra chợ bán để có cái ăn hàng ngày.
Ông mất ngày 30 tháng 3 năm Canh Ngọ (tức 30 tháng 4 năm 1870), lúc 51 tuổi. Thụy là Văn Nhã (文雅). Năm 1878, ông được Tự Đức gia tặng là Tùng Thiện Quận vương (從善郡王).
Năm 1936[5], Bảo Đại mới truy phong ông là Tùng Thiện vương (從善王), tước vị mà ngày nay người ta quen gọi.
Tùng Thiện Vương là bạn thơ chí tình của Cao Bá Quát
( Nguồn gốc : Wikipedia VN )
1.
柳 LIỄU
去歲春殘黃鳥歸, Khứ tuế xuân tàn hoàng điểu quy,
秋容憔悴月明知. Thu dung tiều tụy nguyệt minh tri.
東風昨夜吹何處, Đông phong tạc dạ xuy hà xứ ?
更惹新愁上曉眉. Cánh nhạ tân sầu thướng hiểu my.
Diễn Nôm :
LIỄU
Năm ngoái xuân tàn oanh vội bay,
Dáng thu tiều tụy mảnh trăng soi.
Đêm qua gió cuốn về đâu nhỉ ?
Lại rước thêm sầu liễu sáng nay !
Lục bát :
Xuân tàn oanh vội bay về,
Nét thu tiều tụy não nề trăng soi.
Đêm qua gió thổi nhà ai,
Sáng nay sầu đượm nét ngài ủ ê !
2.
淥水 LỤC THỦY
淥水青山常在, Lục thủy thanh sơn thường tại,
孤雲野鶴同飛。 Cô vân dã hạc đồng phi.
短艇柳邊客釣, Đoản đĩnh liễu biên khách điếu,
小橋月下僧歸。 Tiểu kiều nguyệt hạ tăng quy.
CHÚ THÍCH :
* Lục Thủy : là Dòng nước trong. Chữ LỤC 淥 có 3 chấm thủy 氵, có nghĩa là Trong trẻo. Chữ LỤC 綠 có bộ Mịch 糸 là sợi tơ mới có nghĩa là Màu Xanh.
* Đoản Đĩnh : là chiếc xuồng con.
DIỄN NÔM :
NƯỚC BIẾC
Nước biếc núi xanh còn đó,
Mây đơn hạc lẻ cùng bay.
Xuồng con thả câu bờ liễu,
Sư về cầu nhỏ trăng lay !
Lục Bát :
Núi xanh nước biếc còn đây,
Hạc đơn mây lẻ cùng bay ven trời.
Xuồng con bờ liễu câu hời,
Dưới trăng cầu nhỏ sư hồi thiền môn.
3.
金井怨 KIM TỈNH OÁN
美人照金井, Mỹ nhân chiếu kim tỉnh,
井底華顏冷。 Tỉnh để hoa nhan lãnh.
空房夜不歸, Không phòng dạ bất quy,
月轉梧桐影。 Nguyệt chuyển ngô đồng ảnh.
CHÚ THÍCH :
* Kim Tỉnh : Giếng vàng, là giếng của các nhà quyền qúy, trên mặt miệng giếng có dát vàng. Trong Kiều khi chuyển mùa Nguyễn Du cũng đã viết :
Thú quê thuần hức bén mùi,
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.
* Hoa Nhan : là dung nhan của tuổi hoa niên, chỉ nét mặt son trẻ.
DIỄN NÔM :
NỖI OAN NƠI GIẾNG VÀNG
Người đẹp soi giếng vàng,
Dưới giếng dung nhan lạnh.
Phòng không cũng chẳng màng,
Trăng soi ngô đồng ảnh.
Lục Bát :
Săm soi người đẹp giếng vàng,
Lạnh lùng nhan cắc ngỡ ngàng tái tê.
Phòng không đêm chẳng buồn về,
Ánh trăng lay động đã xê ngô đồng !
4.
南溪 NAM KHÊ
亂山深處一溪橫, Loạn sơn thâm xứ nhất khê hoành,
十二年前駐馬情。 Thập nhị niên tiền trú mã tình
流水自知人事異, Lưu thủy tự tri nhân sự dị,
潺湲不作昔來聲。 Sàn viên bất tác tích lai thinh
CHÚ THÍCH :
* Khê : Ta nói là Khe, là dòng nước từ trong núi chảy ra, là con sông nhỏ được hình thành bởi các dòng suối, mà ta quen gọi là SƠN KHÊ 山溪.
* TRÚ : là Trú đóng, là dừng lại để nghỉ ngơi, ăn uống, cắm trại... khác với Đình Mã 停馬 là chỉ dừng chân một chút rồi đi.
* Sàn Viên : từ Tượng Thanh, chỉ tiếng Róc ra róc rách của nước chảy.
DIỄN NÔM :
KHE SUỐI NAM
Ngổn ngang ngàn núi dòng khe cũ,
Dừng ngựa mười năm tình ấp ủ.
Nước chảy như tình người đổi thay,
Róc ra róc rách không như cũ !
Lục Bát :
Vắt ngang trong suối dòng khe,
Mười hai năm trước ấp e hàm tình.
Nước trôi nhân sự điêu linh,
Chẳng còn róc rách hàm tình như xưa !
ĐỖ CHIÊU ĐỨC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét