GÓC VIỆT THI:
Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (7)
. Bài thơ LỴ NHÂN THỔ NỮ :
蒞仁土女 Lỵ Nhân Thổ Nữ
高塘春近雨風寒, Cao đường xuân cận vũ phong hàn,
秦女燕姬笑語歡。 Tần nữ Yên cơ tiếu ngữ hoan,
溪上千紅芳思暖, Khê thượng thiên hồng phương tứ noãn,
遊蜂無意不相干。 Du phong vô ý bất tương can !
* Chú thích :
- Lỵ Nhân Thổ Nữ 蒞仁土女 : THỔ NỮ chỉ những người con gái ở một địa phương nào đó (cũng như THỔ SẢN 土產 chỉ Sản phẩm hay hàng hóa của riêng một nơi nào đó). Nên LỴ NHÂN THỔ NỮ chỉ những người con gái của đất Lỵ Nhân (LỴ NHÂN là huyện Lý Nhân, Hà Nam hiện nay).
- Cao Đường 高塘 : là Trên bờ đê cao cao.
- Tần Nữ Yên Cơ 秦女燕姬 : Chỉ các cô gái đẹp, lấy ý theo 4 câu cuối trong bài thơ "Cổ Ca 古歌" của Thẩm Thuyên Kỳ 沈佺期 đời Đường là :
燕姬綵帳芙蓉色, Yên cơ thái trướng phù dung sắc,
秦女金爐蘭麝香; Tần nữ kim lô lan xạ hương;
北斗七星橫夜半, Bắc đẩu thất tinh hoành dạ bán,
清歌一曲斷人腸. Thanh ca nhất khúc đoạn nhân trường.
Có nghĩa :
Tấm màn có hoa văn của cô gái nước Yên màu hoa phù dung, Chiếc lò vàng của cô gái nước Tần có mùi hương lan, xạ; Bảy ngôi của chòm sao Bắc Đẩu lúc nửa đêm đã nằm vắt ngang bầu trời. Một tiếng ca trong trẻo vút lên cao khiến người nghe như đứt từng khúc ruột.
- Khê Thượng 溪上 : Trên bờ khe suối.
- Phương Tứ Noãn 芳思暖 : Cái vẻ xuân thơm tho nồng ấm.
- Du Phong 遊蜂 : Chỉ Những con ong bay lượn nhởn nhơ.
- Bất Tương Can 不相干 : Không liên quan gì đến cả. Không màng đến.
* Nghĩa bài thơ :
Các Cô Gái Đất Lỵ Nhân
Mặc dù đã gần đến mùa xuân, nhưng trên bờ đê cao cao gió mưa xuân vẫn còn lành lạnh. Các cô gái đẹp như những Tần nữ Yên cơ đang cười nói vui vẻ. Trên khe suối muôn hồng ngàn tía tỏa ra cái dáng xuân thơm tho nồng ấm. Nhưng các con ong cứ bay nhởn nhơ như chẳng thèm chú ý gì đến cả !
* Diễn Nôm :
LỴ NHÂN THỔ NỮ
Đê cao lành lạnh gió mưa xuân,
Tần nữ Yên cơ cười nói rân,
Khe suối muôn hồng ngàn tía ngát,
Ong kia bay lượn cứ như không !
Lục bát :
Chớm xuân mưa lạnh đê cao,
Yên cơ Tần nữ lao xao nói cười.
Hoa thơm khe suối khoe tươi,
Nhởn nhơ ong nọ vui chơi chẳng màng !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
32. Bài thơ MẶC :
墨 MẶC
祖父惟從易水津, Tổ phụ duy tòng Dịch thủy tân,
詞場贊劃掃千軍。 Từ trường tán hoạch tảo thiên quân.
可憐萬杵魚胞熟, Khả lân vạn chử ngư bào thục,
仰見經天緯地文。 Ngưỡng kiến kinh thiên vĩ địa văn.
* Chú thích :
- MẶC 墨 : là Thỏi mực Tàu; Mực của ngày xưa dùng để viết bút lông.
- Câu đầu TỔ PHỤ 祖父là Ông Nội, ý chỉ Tổ Tiên; DUY TÒNG 惟從 là Chỉ đi theo; DỊCH THỦY TÂN 易水津 : là Bến sông Dịch; nên câu đầu có nghĩa : Tổ tiên của mực chỉ theo hai bên bờ của dòng sông Dịch mà truyền đi... Vì, một dãy của Thái Hành Sơn quanh bờ sông Dịch sản xuất loại thông ba lá cho nhựa và khói thật đen, thật mịn, thật bóng để làm thành những thỏi mực Tàu ngày xưa.
- Tán Hoạch 贊劃 : Tán đồng giúp đỡ cho các trù hoạch tính toán.
- Vạn Chữ Ngư Bào Thục 萬杵魚胞熟 : CHỮ là Cái chày giã; NGƯ BÀO là Bong bóng cá (có nhiều chất nhựa); THỤC 熟 " là Chín, là nhuyễn. Nên VẠN CHỮ NGƯ BÀO THỤC có nghĩa : Giả một muôn lần cho bóng bóng cá nhuyễn ra (đễ làm chất nhựa pha vào mực). Theo như thơ của Khất Triết Đốc 契哲篤 đời Nguyên :
魚胞萬杵成玄玉, NGƯ BÀO VẠN CHỮ thành huyền ngọc,
應是柯仙得妙傳。 Ưng thị Kha tiên đắc diệu truyền.
Có nghĩa :
Giã muôn lần cho bong bóng cá nhuyễn ra thành ngọc đen,
Đó là do Kha Tiên truyền cho bí kíp kỳ diệu đó.
- Kinh Thiên Vĩ Địa 經天緯地 : KINH là Kinh tuyến, là đường dọc; VĨ là Vĩ Tuyến, là đường ngang; cho nên KINH THIÊN VĨ ĐỊA là Trời dọc đất ngang, như cụ Nguyễn Công Trứ đã nói :
Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc !
* Nghĩa bài thơ :
MỰC
Tổ tiên (của MỰC) vốn dĩ được truyền dọc theo bờ sông Dịch (trong dãy núi Thái Hành Sơn). Đã giúp đỡ cho các văn thơ thêm sức mạnh có thể quét sạch trăm ngàn quân lính. Khá thương thay phải trải qua muôn ngàn lần chày giã bóng cá cho nhuyễn (để hòa vào mực), nên mới có được những áng văn dọc ngang trời đất để cho người đời ngưỡng mộ !
* Diễn Nôm :
MẶC
Dịch Thủy tổ tiên dọc bến sông,
Giúp văn từ mạnh quét ngàn quân.
Khá thương chày giã muôn muôn lượt,
Mới được dọc ngang trời đất văn !
Lục bát :
Tổ tiên sông Dịch theo bờ,
Quét ngàn quân địch văn nhờ vào đây.
Muôn lần chày giã thương thay,
Dọc ngang trời đấy văn bài từ ta !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
月下醉飲 NGUYỆT HẠ TÚY ẨM
皎皎懸天頭戴一, Hạo hạo huyền thiên đầu đới nhất,
翻翻伴我影成三。 Phiên phiên bạn ngã ảnh thành tam.
攻腸濁酒無刀箭, Công trường trọc tửu vô đao tiễn,
聒耳煩心士不堪。 Quát nhĩ phiền tâm sỹ bất kham.
* Chú thích :
- Nguyệt Hạ Túy Ẩm 月下醉飲 : Uống say dưới trăng là Dưới ánh trăng uống đến say sưa.
- Hạo Hạo 皎皎 : Sáng vằng vặc.
- Huyền Thiên 懸天 : là Treo lơ lửng trên trời.
- Phiên phiên 翻翻 : là Chập chờn, chấp chới.
- Trọc Tửu 濁酒 : Không phải là rượu dơ, mà là rượu chưa được lọc kỹ.
- Quát Nhĩ Phiên Tâm 聒耳煩心 : Tai ù tim rối; Tai thì lù ù, tim thì đập loạn xạ; ý chỉ không còn tỉnh táo minh mẫn nữa.
- Sĩ Bất Kham 士不堪 : là Không kham nổi là kẻ sĩ nữa; tức là không còn giữ được bản chất của kẻ sĩ nữa.
* Nghĩa bài thơ :
UỐNG SAY DƯỚI TRĂNG
Một vầng sáng vằng vặc treo lơ lửng trên đầu là một; Chập chờn bên cạnh là bóng của ta nữa là ba. Công phá ruột gan cái thứ đồ rượu cặn nầy không cần dùng đến cung đao, mà cũng làm cho kẻ sĩ đầu choáng mắt hoa tai ù tim loạn không ra thể thống gì cả !
Đọc bài thơ nầy của ông vua làm cho ta nhớ lại 2 câu trong bài Nguyệt Hạ Độc Chước 月下獨酌 (Chuốc rượu một mình dưới trăng) của Thi Tiên Lý Bạch 李白 :
舉杯邀明月, Cử bôi yêu minh nguyệt,
對影成三人。 Đối ảnh thành tam nhân.
Có nghĩa :
Nâng ly mời trăng sáng,
Đối bóng nữa ba người !
Nhưng, Thi Tiên nói lên sự hào sảng phóng khoáng của đệ tử Lưu Linh, uống rượu một mình rồi mời trăng mời bóng, nên cũng vui vẻ và thoải mái như thường; Còn ông vua của ta có ý chê trách kẻ sĩ uống rượu vào sẽ mất tư cách vì tai ù tim loạn, đầu choáng mắt hoa nên trông gà hóa cuốc, thấy trăng thấy bóng như chập chờn lởn vởn bên mình !
* Diễn Nôm :
NGUYỆT HẠ TÚY ẨM
Một vầng vằng vặc đỉnh đầu ta,
Lởn vởn quanh mình bóng nữa ba.
Rượu phá ruột gan không giáo mác,
Tai ù kẻ sĩ mắt thì hoa !
Lục bát :
Đỉnh đầu vằng vặc một vầng,
Chập chờn bóng của riêng mình nữa ba.
Rượu công gan ruột xót xa,
Bất kham kẻ sĩ mắt hoa tai ù !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
34. Bài thơ NGỰ CHẾ ĐỀ LỤC VÂN ĐỘNG :
御制題綠雲洞 NGỰ CHẾ ĐỀ LỤC VÂN ĐỘNG
綠雲深洞碧巑岏, Lục vân thâm động bích toàn ngoan,
名利塵消宇宙寬。 Danh lợi trần tiêu vũ trụ khoan.
夕照溪山花掩暎, Tịch chiếu khê sơn hoa yểm ánh,
春開楊柳鳥間關。 Xuân khai dương liễu điểu gian quan.
清泉洗耳猿心靜, Thanh tuyền tẩy nhĩ viên tâm tĩnh,
幽室懸燈鹿夢寒。 U thất huyền đăng lộc mộng hàn.
無相虛靈機事少, Vô tướng hư linh cơ sự thiểu,
壼天日月不勝閒。 Hồ thiên nhật nguyệt bất thăng nhàn.
* Chú thích :
- NGỰ CHẾ ĐỀ LỤC VÂN ĐỘNG 御制題綠雲洞 : Thơ của vua đề Lục Vân động. LỤC VÂN ĐỘNG là Động có mây màu xanh lục (có thể do có nhiều cây cỏ). Bài thơ này được khắc trên vách núi tại xã Nga Thiện, Nga Sơn, Thanh Hoá. Lạc khoản đề “Hữu Thiên Nam hoàng đế đề; Hồng Đức kỷ nguyên chi nhị thập ngũ xuân tam nguyệt cát nhật; Trung thư giám Trung thư Xá nhân Nguyễn Công Trực phụng thư; Ngự dụng giám san thư cục chính Phạm Bảo phụng tuyên” 右天南皇帝題,洪德紀元之二十五春三月吉日, 中書監中書舍人阮公直奉書,御用監山書局正范寶奉鐫 (Thiên Nam hoàng đế đề; Ngày lành tháng 3 năm Hồng Đức 25 (1494); Trung thư giám Trung thư xá thân Nguyễn Công Trực vâng mệnh viết chữ; Ngự dụng giám san thư cục chính Phạm Bảo vâng mệnh khắc).
- Toàn Ngoan 巑岏 : Núi nhọn cao chót vót; lẽ ra phải đọc là "Tán Hoàn", âm Quan Thoại là [cuánwán], cũng có thể đọc là "Toản Ngoan"; đọc là TOÀN NGOAN để cho ăn Luật và ăn Vận mà thôi.
- Trần Tiêu 塵消 : Tiêu tan như bụi bặm.
- Yễm Ánh 掩暎 : Chấp chới ẩn hiện.
- Gian Quan 間關 : Líu lo, oang oác (tiếng chim hót).
- Viên Tâm 猿心 : Lòng của con vượn. Thiền gia ví cái tâm của con người hay động loạn như tâm con vượn hay nhảy nhót lung tung.
- Lộc Mộng 鹿夢 : Giấc mộng đuổi bắt con nai, là giấc mộng tranh danh đoạt lợi. Theo "Sử Ký. Hoài Âm Hầu Liệt Truyện 史記˙淮陰侯列傳": Giềng mối của nhà Tần đã hết nên lỏng lẻo, đất Sơn Đông đại loạn, các họ khác đều nổi lên, anh hùng các nơi tập hợp. Tần như làm sổng mất con nai, nên thiên hạ đều cùng đuổi bắt, gọi là "Trục Lộc Trung Nguyên 逐鹿中原", vì thế, ai tài giỏi và nhanh chân thì sẽ bắt đựơc. Các lộ anh hùng nổi lên lại tiêu diệt lẫn nhau, cuối cùng Lưu Bang dành được thiên hạ, lập nên nhà Hán kéo dài hơn bốn trăm năm.
* Nghĩa bài thơ :
Thơ Đề LỤC VÂN ĐỘNG của Nhà Vua
Động Lục Vân sâu thăm thẳm trên vách núi cao dựng đứng màu xanh biếc. Trước cảnh vũ trụ bao la thì lòng danh lợi cũng tiêu pha như bụi trần. Ánh nắng chiều chiếu trên hoa lá bên khe núi chập chờn như ẩn như hiện; Mùa xuân đã ngự đến trên cành dương liễu đang rộn ràng tiếng chim hót líu lo. Tiếng suối nước trong như rửa sạch tai làm cho lòng thích động loạn nhảy nhót như con vượn cũng phải yên ắng lại. Trong căn phòng thâm u với ngọn đèn treo khi mờ khi tỏ cũng làm cho nguội lạnh đi cái lòng hám danh lợi quyền uy "trục lộc Trung nguyên". Không còn sắc tướng, chỉ có hư linh nên những huyền cơ cũng ít đi (Ý nói không còn gì để ham muốn theo đuổi, chỉ là hư không nên ít phiền toái). Như mặt trăng mặt trời trong một cái bầu riêng biệt (Ý nói có riêng một góc trời) nên cảm thấy rất là nhàn tản.
* Diễn Nôm :
NGỰ CHẾ ĐỀ LỤC VÂN ĐỘNG
Thẳm thẳm Lục Vân mờ núi biếc,
Lợi danh như bụi vút trời cao.
Nắng chiều khe núi hoa khoe sắc,
Xuân đến liễu dương chim hót chào.
Suối rửa sạch tai lòng vượn tịnh,
Phòng im đèn lạnh mộng nai chao.
Tâm không vướng bận không phiền toái,
Nhật nguyệt riêng bầu nhàn tản sao !
Lục bát :
Lục Vân Động, núi biếc xanh,
Bao la vũ trụ lợi danh bụi trần.
Nắng chiều hoa cỏ chập chờn,
Xuân tươi dương liễu chim cành hót vang.
Suối trong tai sạch vượn an,
Phòng đơn trục lộc đèn tàn mộng tiêu.
Sắc không thế sự ít nhiều,
Bầu trời riêng một, tiêu diêu thanh nhàn !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
35. Bài thơ NHA TƯỜNG NGUYỆT THI :
牙檣月詩 NHA TƯỜNG NGUYỆT THI
銀魄當天刻漏長, Ngân phách đương thiên khắc lậu trường,
溶溶玉鏡掛牙檣。 Dung dung ngọc kính quải nha tường.
山河滿目光如晝, Sơn hà mãn mục quang như trú,
倚遍欄杆夜未央。 Ỷ biến lan can dạ vị ương !
* Chú thích :
- NHA TƯỜNG NGUYỆT THI 牙檣月詩 : NHA là Ngà Voi, TƯỜNG là Cột Buồm; nên NHA TƯỜNG là Cột buồm được trang trí bằng ngà voi. Vì thế NHA TƯỜNG NGUYỆT THI là "Bài thơ trăng treo cột buồm".
- Ngân Phách 銀魄 : là Cái đĩa bằng bạc, chỉ mặt trăng tròn và sáng.
- Dung Dung 溶溶 : là Tan chảy hòa vào nhau. Quải 掛 : là Treo.
- Trú 晝 : là Ban ngày, nên Quang Như Trú 光如晝 có nghĩa "Sáng như ban ngày".
- Ỷ 倚 là Dựa vào; Biến 遍 là Khắp cùng.
- Dạ Vị Ương 夜未央 : VỊ ƯƠNG là Chưa đến cao điểm; nên DẠ VỊ ƯƠNG là Đêm chưa đến lúc cao điểm, nghĩa là chưa đến giờ Tý, vì giờ Tý là giờ cao điểm của giữa đêm.
* Nghĩa bài thơ :
Bài thơ Trăng Treo Cột Buồm
Một cái đĩa bạc lơ lửng trên bầu trời, thời khắc của cái đồng hồ cứ nhỏ giọt dài dài. Ánh trăng hòa vào không gian như chiếc gương ngọc treo lơ lửng trên cột buồm được nạm ngà voi. Cảnh núi sông bày ra trước mắt sáng rực như ban ngày. Ta đã lần lượt vựa hết lan can quanh thuyền để ngắm trăng, mà đêm vẫn còn chưa về khuya chút nào cả !
* Diễn Nôm :
NHA TƯỜNG NGUYỆT THI
Đĩa bạc giữa trời khắc lậu trôi,
Cột buồm gương ngọc lửng lơ rồi.
Núi sông trước mắt như bừng sáng,
Tựa hết lan can đêm chửa vơi !
Lục bát :
Đêm trôi đĩa bạc giữa trời,
Trong như gương ngọc chơi vơi cột buồm.
Non sông bừng sáng khác thường,
Tựa lan can ngắm đêm trường mênh mang !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Hẹn bài dịch tới :
Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (8)
杜紹德
ĐỖ CHIÊU ĐỨC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét