CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Ba, 5 tháng 8, 2025

CON SÔNG BỒ ĐỀ - PHAN NI TẤN

 


CON SÔNG BỒ ĐỀ

(trích Chuyện Quê Nam)

Chuyện đời nhiều lúc kỳ cục, khó tin, nhưng sự thật vẫn là sự thật.
Tập hồi ký đánh máy của cha tôi dầy ngót ngàn trang, hoàn tất vào cuối năm 1940, trong đó chương cuối cùng cha tôi có kể về chuyện tình khá thơ mộng mà kỳ lạ của ông.
Chuyện kể rằng hồi trẻ cha tôi sớm có năng khiếu văn chương. Sinh ở Huế nhưng thơ văn ông được đăng tải trong một số tạp chí văn học Sài Gòn nhiều hơn báo địa phương. Mến mộ văn tài của cha tôi mẹ đã đến với ông. Tuy nhiên, hồi đó gia đình bên ngoại tôi thuộc dòng dõi danh gia vọng tộc không chấp nhận một anh sinh viên nghèo, không cha không mẹ nên họ dùng mọi cách ngăn cản không cho hai người gặp nhau. Nhưng với lòng đam mê văn chương nghệ thuật, sau một thời gian dài gian nan, khổ cực, cay đắng trăm bề, mẹ cũng quyết về với cha. Cuối cùng bên ngoại tôi đành buông xuôi theo nghĩa thuận vợ thuận chồng, song họ quyết định từ bỏ mẹ tôi.
Từ đó mẹ gạt nước mắt theo cha về Sài Gòn tìm kế sinh nhai, nhưng mà mẹ tôi vốn thuộc tiểu thơ đài các lúc chạm thực tế mẹ thật vụng về. Thương mẹ cha tôi vừa chạy xe đạp thồ vừa dạy học tư. Ba năm sau, mẹ tôi mới có thai song sinh. Tôi sinh ra trước, đến phiên em tôi đẻ ngược không may cả mẹ lẫn con đều chết trên bàn mổ. Cha tôi trở thành gà trống nuôi con, sống hẳn bằng nghề viết văn. Dù lương ba cọc ba đồng, chữ nghĩa của cha cũng nuôi tôi nên người. Ngày tôi có chồng ra nước ngoài, cha tôi vẫn ở vậy, một mình. Mãi đến năm 75 tuổi cha mới tục huyền. Âu cũng là duyên nợ từ kiếp nào.
Tóm lại, cha tôi có hai bà vợ. Bà chánh thất là người đẻ ra tôi. Mẹ và em mất, cha đi bước nữa.
Bà thứ thất tên Phan Lệ Hồng, gốc Hải Nàm, là bạn chung vách với cha tôi từ thuở nhỏ, sau này là mối tình đầu của hai người. Có điều người Tàu vốn kỵ cùng họ không được lấy nhau nên mộng đẹp kia sớm bị chia uyên rẽ thúy. Để tránh phiền phức, cha mẹ cô Hồng âm thầm đưa cô về Sài Gòn sống chung với ông bà ngoại ở miệt Bình Tây, Chợ Lớn.
Thời gian như nước chảy qua cầu rửa sạch mọi nhớ thương. Kỷ niệm về mối tình đầu của cha tôi và cô Hồng cùng những bài thơ ngây ngô thuở yêu thương cũng phai dần đi. Trước mắt cô nhận ra quá khứ mịt mù trở nên mơ hồ, hư ảo trước những điều thiết thực hơn. Cô Hồng có chồng Chợ Lớn, cùng chồng ra nước ngoài hăm hở đuổi theo công cuộc kinh doanh ngày một mở rộng. Không bao lâu cuộc sống giàu sang, sung túc như lụa lót dưới chân cô, bao bọc lấy gia đình cô. Với cô Hồng, lúc bấy giờ, gia đình và sự nghiệp là trên tất cả.
Nhưng mà cảnh đời không phải lúc nào cũng thuận lợi; niềm hạnh phúc, sự yên bình nào rồi cũng qua đi. Chồng cô Hồng bệnh mất đã vài năm, kinh doanh đi xuống, con cái có vợ có chồng lần lượt ra riêng, cô còn lại một mình. Ngôi nhà ngày ngày tràn niềm vui, rộn tiếng cười, một sớm một chiều bỗng trở nên vắng lặng, lạnh lẽo đến vô hồn. Từ lâu cô Hồng không khóc chợt nước mắt mặn môi khiến cô có linh cảm như mình đang trôi qua một dòng đời khác. Tự nhiên cô nghe tiếng gọi của quê nhà.
Khi trở về nước, cô Hồng đã bảy mươi tuổi đời. Cô không về Sài Gòn, Chợ Lớn mà bay thẳng ra Huế, dù chẳng còn người thân. Chìm giữa Huế trầm mặc, cổ kính, cô nhìn trời khô héo bằng đôi mắt u buồn để rồi nhận ra mình mang mang một niềm hoài cảm.
Đoạn hồi ký của cha tôi sau đó không nói lúc nào, làm sao cô Hồng về Sài Gòn tìm gặp được cha tôi. Dù ông không thổ lộ tôi cũng nhận ra họ đến với nhau bằng sự khao khát được nhìn thấy lại sự khởi đầu của tình yêu thương thiệt thòi sau một thời gian dài xa cách đến tóc cũng điểm sương. Lúc đó tình gia đình mới thấm thía làm sao. Giữa cha tôi và cô Hồng là một vạch thời gian dài ngót năm mươi lăm năm rồi còn gì.
Tôi thương cha tôi ở câu viết chân tình: "Đám cưới chỉ có hai người. Không hôn thơ, hôn thú. Không bạn bè, bà con thân thích, kể cả con gái tôi và đám con của Hồng. Âm thầm, lặng lẽ, hai người già chúng tôi rời bỏ chốn phồn hoa đô hội về sống hòa mình cùng sông nước miệt Hậu Giang hiền hòa. Tính tình bình dị, hiếu khách của người dân Xóm Thủ, Cà Mau vô tình giúp sức che mờ nhân dạng của chúng tôi."
Đọc những dòng tâm sự cuối cùng của cha tôi, tôi cố nén tiếng thở dài. Cầm tập hồi ký trên tay, bên tai tôi, như còn nghe lời dặn dò của cha biểu tôi muốn cất giữ hoặc đốt bỏ đi thì tùy. Dĩ nhiên, tôi không thể đốt bỏ tập hồi ký, di vật duy nhất của cha tôi để lại. Cha tôi, vì thủy chung với người vợ đã mất, đã bỏ cả một quãng đời dài của mình âm thầm chịu đựng nỗi cô đơn để nuôi con. Vậy mà khi lớn khôn, vì bận bịu với chồng con, với cuộc sống, nhiều khi tôi quên mất sự quạnh quẽ của cha tôi, của cô Hồng, nói chung của những người già cần được yêu thương, được cảm thông, chia sẻ.
Đã lâu rồi, có hơn chục năm tôi mới có dịp trở về thăm lại Xóm Thủ, nơi bây giờ trở thành phố chợ sầm uất hơn. Chẳng bù ngày trước gian nan lắm tôi mới tìm ra cái xóm đìu hiu hút gió của cha và cô Hồng của tôi mà tôi vẫn quen gọi bằng "cô" thay vì "dì".
Chiều mờ như sương chập chờn phủ trên cửa sông Bồ Đề. Con sông phát nguồn từ ngã ba Tam Giang đổ ra biển Nam Hải, nước chảy rất xiết. Ngã ba sông này nước luôn xoáy tròn thành nhiều lỗ trũng sâu nên ghe hàng chở khẳm thường bị đắm, gây nhiều thương vong. Nghe nói hôm cha tôi và cô Hồng chết đuối ở ngã ba sông này, trời mưa như trút. Người Xóm Thủ, không một ai biết nguyên nhân cái chết nhưng họ nói trời đất cũng biết khóc thương cho số phận của hai người.
Lần về thăm này tôi đứng lặng ở cửa sông Bồ Đề, dang rộng đôi tay tôi cũng có thể đón nhận được linh hồn của cha tôi và cô Hồng từ ngã ba Tam Giang trôi qua trước mặt tôi, trôi vào đời tôi rồi vĩnh viễn trôi ra biển rộng.


PHAN NI TẤN

Chủ Nhật, 3 tháng 8, 2025

CHỮ TƯƠNG - PHIẾM LUẬN ĐỖ CHIÊU ĐỨC


 


Tạp Ghi và Phiếm Luận : 

                                            Chữ TƯƠNG
                                     

       Nói đến chữ TƯƠNG là người ta nghĩ ngay đến TƯƠNG TƯ 相思 là Nhớ nhau; và hễ nói đến TƯƠNG TƯ là người ta cũng nghĩ ngay đến trai gái hai bên thương yêu và nhớ nhau đến sinh bệnh, gọi là BỆNH TƯƠNG TƯ, là một cái bệnh trầm kha, nên thơ, đáng yêu và dai dẳng đến không có một lương y nào có thể chửa khỏi được cả ! Nhưng nếu chỉ có một bên thương nhớ phía bên kia; Nam thương nhớ nữ hay nữ thương nhớ nam thì là ĐƠN TƯ 單思, chớ không thể nói là TƯƠNG TƯ được. Vì Theo "Chữ Nho... Dễ Học" TƯƠNG 相 có nghĩa là "Nhau", như : Tương Thân, là Thân nhau; Tương Ái là Yêu nhau; Tương Tư là Nhớ nhau... Nên phải cả hai bên cùng thương yêu tưởng nhớ đến nhau thì mới gọi là TƯƠNG TƯ được ! Nhưng trong "Tập quán Ngôn ngữ" theo thói quen sử dụng hằng ngày mà mọi người đều chấp nhận; Hễ thương nhớ ai thì đều có thể nói là TƯƠNG TƯ người đó được cả, như : 
          - Hắn đang "Tương Tư" nàng nào đó.      
          - Bộ mày đang "Tương Tư" ai hả ?
          - Chàng ta đã "Tương Tư" cô ả đó rồi ! 

      Không phải chỉ có giới bình dân, mà cả trong văn chương thơ phú cũng đã quen dùng từ TƯƠNG TƯ để chỉ sự nhớ nhung đến người mình yêu dấu, như thi sĩ nổi tiếng thời Tiền chiến Nguyễn Bính đã viết :

                       Thôn đoài ngồi nhớ thôn đông,
                Một người chín nhớ mười mong một người.
                         Gió mưa là bệnh của Trời,
                  TƯƠNG TƯ là bệnh của tôi yêu nàng !

                      Inline image

     ... và thi sĩ Xuân Diệu với hai câu thơ toàn thanh bằng trong bài thơ Nhị Hồ là :

                   Sương ngưng theo trăng ngừng lưng trời,
                       TƯƠNG TƯ nâng hồn lên chơi vơi !...
                   
       Ngay cả trong văn học cổ, trong Đường Thi cũng thế. Dưới đây là bốn câu thơ trong bài "Trường Tương Tư" của Thi Tiên Lý Thái Bạch :

                ...香亦竟不滅, ...Hương diệc cánh bất diệt,
                   人亦竟不来。    Nhân diệc cánh bất lai.
                   相思黄葉落,    Tương Tư hoàng diệp lạc,
                   白露點青苔。    Bạch lộ điểm thanh đài !
        Có nghĩa :
                ... Mùi hương chẳng dứt mãi còn,
                    Người đi biền biệt mõi mòn ngóng trông.
                    Tương Tư lá rụng đầy sân,
                    Sương đêm nhẹ điểm trắng ngần rêu xanh !

     ... và hai câu rất hay trong bài "Thu Phong Từ" cũng của Thi Tiên Lý Bạch là :

                   相思相見知何日,   Tương Tư Tương Kiến tri hà nhật,
                   此時此夜難為情。   Thử thời thử dạ nan vi tình.
         Có nghĩa : 
                       Nhớ nhau, gặp nhau biết ngày nào
                       Đêm nay là lúc nao nao hàm tình !... 

                     Inline image

       Ở cuối truyện Thần Điêu Hiệp Lữ của Kim Dung, người đọc thấy tội nghiệp cho Quách Tương nữ hiệp nhìn theo bóng dáng của Thần Điêu Đại Hiệp Dương Quá và Tiểu Long Nữ đi xuống núi Hoa Sơn trong cảnh lá thu rơi rụng rạt rào mà nước mắt lưng tròng và miệng thì lẫm nhẫm ngâm câu :"Tương Tư Tương Kiến tri hà nhật... 

       TƯƠNG TƯ 相思 là Nhớ đến nhau; TƯƠNG KIẾN 相見 là Thấy nhau, là Gặp nhau. TƯƠNG VẤN 相問 là Hỏi thăm nhau, như hai câu thơ rất nổi tiếng trong bài "Phù Dung Lâu Tống Tân Tiệm" của Vươg Xương Linh :

                  洛陽親友如相問,   Lạc Dương thân hữu như TƯƠNG VẤN,
                  一片冰心在玉壺.    Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.
          Có nghĩa :
                        Thân hữu Lạc Dương như có hỏi,
                        Bình ngọc tuyết băng một tấm lòng.

       Thi vị hơn nữa là nhóm từ TƯƠNG ÁNH HỒNG 相映紅, chỉ hoa đào và mặt của người đẹp như cùng soi rọi nhau và cùng hồng lên một cách đáng yêu trong vườn hoa đào, như trong bài "Đề Đô Thành Nam Trang" của chàng Thôi Hộ :

                  去年今日此門中,  Khứ niên kim nhật thử môn trung,
                  人面桃花相映红。  Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.
                  人面不知何處去,  Nhân diện bất tri hà xứ khứ ?
                  桃花依舊笑東風。  Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
        Có nghĩa :
                        Năm ngoái hôm nay cũng cửa này,
                        Mặt người hoa đẹp má hây hây,
                        Mặt người nay biết về đâu nhỉ ?
                        Như trước hoa đào vẫn nở đây !

       Trong Truyện Kiều, sau khi hộ tang chú ở Liêu Dương, Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều, thì "Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa"... và...
               
                    Trước sau nào thấy mặt người,
                 Hoa Đào Năm Ngoái còn cười gió đông.

                   Inline image
                      (Bấm vào link dưới đây để nghe nhạc)
                          https://www.youtube.com/watch?v=w78w4zdI4VY

       TƯƠNG NGỘ 相遇 là Gặp nhau; TƯƠNG KIẾN 相見 là Thấy nhau, TƯƠNG THỨC 相識 là Quen biết nhau, nên BẤT TƯƠNG THỨC 不相識 là không quen biết nhau, như trong bài "Hồi Hương Ngẫu Thư" của Hạ Tri Chương, một trong Ẩm Trung Bát Tiên, là các bạn rượu của Thi Tiên Lý Bạch :

                 少小離家老大回,   Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi,
                 鄉音無改鬢毛衰。   Hương âm vô cải mấn mao suy.
                 兒童相見不相識,   Nhi đồng Tương Kiến bất Tương Thức
                 笑問客從何處來?    Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai ?
       Có nghĩa :
                    Trẻ nhỏ xa nhà, già trở lại,
                    Giọng quê còn đó, tóc như mây.
                    Nhi đồng gặp gỡ không quen biết,
                    Cười hỏi nơi nào khách đến đây ?

        TƯƠNG TRI 相知 là Hiểu nhau, là biết rõ lòng dạ của nhau một cách sâu sắc; như Thúy Kiều và Kim Trọng hiểu rõ lòng dạ của nhau mà "Đem tình cầm sắc đổi ra cầm kỳ" khi "Kim Kiều tái họp" vậy : 

                            Mấy lời tâm phúc ruột rà, 
                   TƯƠNG TRI dường ấy mới là TƯƠNG TRI.
                           Chở che đùm bọc thiếu gì...
                    Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay !

       TƯƠNG PHÙNG là gặp gỡ nhau. Nhớ hồi nhỏ, hay nghe bà con lối xóm nói... Nho chơi với nhau là : 
                  Hữu duyên thiên lý...ăn Tương Hột,
                  Vô duyên đối diện... bát Tương Tàu !
       Đến khi đi học chữ Nho với ông Thầy Thừng ở trong chùa rồi, mới biết đó là hai câu :
                 有緣千里能相遇,  Hữu duyên thiên lý năng TƯƠNG NGỘ,
                 無緣對面不相逢。  Vô duyên đối diện bất TƯƠNG PHÙNG !
    Có nghĩa :
         - Nếu có duyên thì ngàn dặm cũng đưa đẩy để gặp nhau được, còn nếu...
         - Không có duyên với nhau thì dù cho có ở ngang mặt nhau vẫn không thể gặp gỡ nhau được.
                       Có duyên, ngàn dặm gặp nhau,
                  Không duyên, đối diện khó chào nhau luôn !

      Năm Thiên Bảo thứ 8 đời Đường Huyển Tông, thi nhân Sầm Tham 岑参 phụng chỉ ra miền Tây vực để làm Mạc phủ cho Tiết Độ Sứ Tây An. Trên đường ra ải Dương Quan để đến vùng biên tái, tình cờ gặp được sứ giả hồi kinh là bạn đồng liêu. Nỗi mừng biết lấy chi cân, bèn làm bài thơ tứ tuyệt 逢入京使 PHÙNG NHẬP KINH SỨ (Gặp sứ giả trở về Kinh sư) sau đây để gởi về thăm gia đình :
              
               故園東望路漫漫,   Cố viên đông vọng lộ man man,
               雙袖龍鐘淚不乾。   Song tụ long chung lệ bất can.  
               馬上相逢無紙筆,   Mã thượng tương phùng vô chỉ bút,
               憑君傳語報平安.    Bằng quân truyền ngữ báo bình an !
     Có nghĩa :
                   Vườn xưa diệu dợi mõi mòn trông,
                   Lụm cụm khôn ngăn lệ nhỏ ròng.
                   Trên ngựa gặp nhau không giấy viết,
                  "Bình an" nhờ báo kẻo nhà mong !

       Mã Thượng Tương Phùng 馬上相逢 là gặp nhau trên lưng ngựa, nên không có giấy viết gì cả, chỉ nhờ bạn báo lại cho người nhà biết là mình vẫn "Bình An" mà thôi !
                       Inline image
                            
 逢入京使 PHÙNG NHẬP KINH SỨ

       Trên đây là những chữ TƯƠNG vui buồn lẫn lộn, nhưng lại đầy thi vị với tình người một cách nên thơ. Còn có những chữ TƯƠNG lạnh lùng sắt máu... như Huynh đệ TƯƠNG HẠI 兄弟相害 (Anh em hại nhau), Cốt nhục TƯƠNG TÀN 骨肉相殘 (Ruột thịt mà tàn sát lẫn nhau)... Như anh em của Tào Phi và Tào Thực con của Tào Tháo...
         Sau khi lên ngôi là Ngụy Văn Đế, nhưng vẫn còn ganh tài của người em, Tào Phi mới nói với Tào Thực rằng : "Ai cũng bảo là văn tài của nhà ngươi giỏi hơn ta, vậy ta hạn cho ngươi trong vòng bảy bước phải làm xong một bài thơ, nếu không được, sẽ trị tôị khi quân. Tào Thực xin đề, thì Tào Phi bảo là : Nói về Anh Em mà không được dùng từ anh em trong bài thơ. Đoạn bắt đầu bước đi và đếm, khi vừa đúng 7 bước thì Tào Thực cũng vừa cất tiếng ngâm :

              煮豆燃豆萁,      Chữ đậu nhiên đậu cơ,
              豆在釜中泣.      Đậu tại phủ trung khấp.
              本是同根生,    Bổn thị đồng căn sanh,
              相煎何太急 ?!   TƯƠNG TIỄN hà thái cấp ?!
Có nghĩa :
        - Lấy vỏ đậu làm củi để nấu đậu. Nên ...
        - Đậu mới than khóc ở trong nồi. Rằng...
        - Vốn dĩ chúng ta cùng chung một gốc rễ sinh ra.
        - Đốt nấu lẫn nhau (TƯƠNG TIỄN), sao mà nhẫn tâm làm vậy ? !

                          Củi đậu đem nấu đậu,
                          Đậu than khóc trong nồi,
                          Cũng cùng chung một gốc,
                          Nấu nhau đành hỡi ôi !

       Tào Phi nghe xong bài thơ, rất xúc động, từ đó về sau, không còn có ý muốn giết hại em mình nữa !

                           Inline image
                         Bài thơ 7 bước ( Thất bộ Thi 七步詩 ) của Tào Thực

       Tương tự, trong văn học sử Việt Nam ta cũng có câu truyện như sau :
       Dưới thời Tự Đức, Nguyễn Phúc Hồng Bảo 阮福洪保 (1825-1854), hay Hường Bảo; là con trưởng vua Thiệu Trị, nhưng không được truyền ngôi. Sau hai lần mưu sự (1851 và 1854) để giành lại ngôi vị không thành, ông bị giam và chết thảm trong ngục. Người đương thời cho là vua Tự Đức có ý giết anh để trừ hậu hoạn. Sau đó, nhân một buổi ngự thiện với quần thần, Tự Đức đang dùng cơm vô ý cắn phải lưỡi, bèn nổi hứng lấy đầu đề "Răng cắn Lưỡi" ra cho đình thần làm thơ, nhưng trong thơ không được dùng chữ "Răng" chữ "Lưỡi". Nguyễn Hàm Ninh 阮咸寧 ( 1808-1867) là một danh sĩ trong lịch sử Văn học Việt Nam thời nhà Nguyễn, dâng lên một bài tứ tuyệt như sau :

                Sinh ngã chi sơ, nhĩ vị sinh,                      生我之初爾未生,
                Nhĩ sinh chi hậu, ngã vi huynh.                 爾生之後我為兄。
                Như kim cộng hưởng trân cam vị,              如今共享珍甘味,
                Hà nhẫn TƯƠNG THƯƠNG cốt nhục tình ?   何忍相傷骨肉情?
      Có nghĩa :
                     "Lưỡi nói với Răng" rằng : 

                        Khi ta sinh ra mi chưa sinh,
                        Mi sinh sau ta, ta là huynh.
                        Nay cùng chung hưởng đồ ngon ngọt,
                        Sao nở tổn thương cốt nhục tình ?! 

       "Hà nhẫn TƯƠNG THƯƠNG 相傷 cốt nhục tình ?" Có nghĩa : "Sao nở nhẫn tâm làm Tổn Thương tình cốt nhục làm vậy?". Vua Tự Đức xem thơ xong, khen hay, thưởng cho mỗi câu một lạng vàng vì lời thơ qúa hay, nhưng lại phạt mỗi câu một roi vì ý thơ có ẩn ý xỏ xiên phạm thượng (Không chém đầu là may lắm rồi !).
 
                      Inline image
                    Vua Tự Đức và Bia mộ của danh sĩ Nguyễn Hàm Ninh

       Ngoài các từ TƯƠNG trên đây, trong cuộc sống hằng ngày ta còn thường gặp  các từ TƯƠNG có nghĩa :
       * Giống nhau như : TƯƠNG ĐỒNG 相同 (như nhau), TƯƠNG ĐƯƠNG 相當 (ngang nhau), TƯƠNG TỰ 相似 (giống nhau)...       
       * Khác nhau như : TƯƠNG PHẢN 相反 (ngược nhau), TƯƠNG SAI 相差 ( Xê xích nhau), TƯƠNG DỊ 相異 (khác biệt nhau)...
       * Bằng nhau như : TƯƠNG ĐẲNG 相等 (ngang bằng nhau), TƯƠNG ĐỐI 相對 (ngang ngửa nhau), TƯƠNG TỈ 相比 (so sánh nhau)...

       TƯƠNG TRUYỀN 相傳 là những điều được truyền tụng nhau trong dân gian. Và nếu chữ TƯƠNG 相 được chấm thêm 3 chấm Thủy 氵thành 湘 thì sẽ là giòng TƯƠNG GIANG 湘江 (sông Tương) nổi tiếng trong văn học với các câu :

                 君在湘江頭,   Quân tại Tương Giang đầu,
                 妾在湘江尾。   Thiếp tại Tương Giang vĩ.
                 相思不相見,   Tương tư bất tương kiến,
                 同飲湘江水。   Đồng ẩm Tương giang thủy.
       Có nghĩa :
                  Chàng ở đầu sông Tương,
                  Thiếp ở cuối sông Tương.
                  Cùng nhớ nhau mà cùng chẳng gặp được nhau, mặc dù...
                  Hai ta cùng uống chung một dòng nước của sông Tương.
       Diễn Nôm :
                     Đầu sông Tương ngẩn ngơ chàng đợi,
                     Cuối sông Tương mòn mõi thiếp trông.
                     Nhớ nhau lòng ngẩn ngơ lòng,
                     Đều cùng uống nước bên dòng sông Tương...

       Đi vào văn học cổ Việt Nam ta thì SÔNG TƯƠNG là biểu tượng của một dòng sông thương nhớ nhau, chớ không phải là một dòng sông có thật. Như khi đã cùng nhau hẹn ước, nhưng lại không có dịp để gặp gỡ nhau, cụ Nguyễn Du đã diễn tả tình trạng thương nhớ nhau của Kim Kiều như sau :

                    SÔNG TƯƠNG một dãi nông sờ,
                 Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia.

                  Inline image

    ... Và SÔNG TƯƠNG lại đi vào dòng tân nhạc thời Tiền Chiến với ca khúc nhớ thương lãng mạng bất hủ "AI VỀ SÔNG TƯƠNG" rất nổi tiếng của nhạc sĩ Thông Đạt (Văn Giảng) với lời ca trữ tình gợi cảm :

                    Ai có về bên bến SÔNG TƯƠNG...
                    Nhắn người duyên dáng tôi thương...
                    Bao ngày ôm mối tơ vương...
                     (Bấm vào link dưới đây để nghe nhạc) :
              https://www.youtube.com/watch?v=IwfFZh0FEZM

       Trên đây là TƯƠNG trong văn chương âm nhạc, còn trong dân gian thì TƯƠNG là TƯƠNG CHAO. TƯƠNG 醬 là món ăn bình dân được làm và ủ bằng đậu nành, thành một chất sền sệt vừa mặn vừa ngon vừa rẻ, lại không có dầu mỡ nên những người ăn chay ăn lạt đều thông dụng, và từ ĂN CHAY còn được gọi thế thân là ĂN TƯƠNG. "Hôm nay tôi ĂN TƯƠNG, có nghĩa là Hôm nay tôi ĂN CHAY đó !" Vì là món ăn mặn để ăn cơm, nên TƯƠNG không thể thiếu ở những bữa cơm nhà nghèo kèm với các loại dưa leo, rau lang, rau quế, rau muống... Nhớ năm xưa, lúc còn học lớp Đồng Ấu thầy giáo đã cho học một bài Học Thuộc Lòng (dường như là của nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải ?!) như sau :
               Inline image

                   Rau muống mọc ở hồ ao,
                   Tuy thân hèn mọn tự hào rằng hay.
                   Quanh năm cung phụng món nầy,
                   Cho nhà nghèo khó bữa rày bữa mai.
                   Nhà giàu thịt cá ăn hoài,
                   Nghèo thì rau muốn cũng hai bữa thường.
                   Giàu thì mỹ vị cao lương,
                   Nghèo thì ra muống chấm TƯƠNG kém gì !?...

       Như trên đã nói TƯƠNG 醬 là chất lỏng sền sệt, khi là chất lỏng đậm đặc thì chữ TƯƠNG 漿 được đổi thành Bộ Thủy 水 bên dưới, nên QUỲNH TƯƠNG 瓊漿 là một loại chất lỏng đậm đặc có màu sắc lóng lánh như ngọc QUỲNH, và QUỲNH TƯƠNG TỬU 瓊漿酒  là một loại rượu được ủ bằng các loại trái cây lên men mà thành, là rượu "cóc-tai" (cocktail) nên vừa đậm đặc, vừa lóng lánh màu sắc, vừa thơm ngon... mà ngày xưa chỉ có các nhà quyền quý và thần tiên mới thường uống mà thôi. Như trong truyện "Bùi Hàng gặp Tiên với tích Lam Kiều" như sau :

                     Inline image
                            Thái Bình Quảng Ký 太平廣記 và Bùi Hàng 裴航

      Theo sách Thái Bình Quảng Ký 太平廣記, quyển 50: Đời Đường Mục Tông (795-824), năm Trường Khánh có Tú tài Bùi Hàng 裴航 lai kinh ứng thí, nhưng thi rớt. Buồn vì vô tích sự nên định đi du ngoạn Tương Dương một chuyến để giải khuây. Khi đến bến để thuê thuyền thì chỉ còn một khoang thuyền nhỏ, khoang chính của thuyền đã có một phu nhân thuê rồi. Mặc dù có rèm sáo che chắn, nhưng vì ở chung trên một chiếc thuyền, lúc lên xuống ra vào, khi gió động rèm châu, Bùi Hàng cũng lén ngắm nhìn dung nhan của vị phu nhân chung thuyền. Chàng chợt ngẩn người ra và mê mẫn trước sắc đẹp như tiên giáng thế của vị phu nhân mà ngày thường chỉ nghe tiếng nói thanh tao như ngọc của nàng qua bức rèm châu. Hỏi thăm thị nữ theo hầu thì được biết đó là Phàn Phu Nhân. Chàng bèn làm một bài thơ tỏ tình ái mộ của mình, rồi nhờ thị nữ chuyển đến cho phu nhân bài thơ sau đây :

                同舟胡越猶懷想,   Đồng chu Hồ Việt do hoài tưởng.
                況遇天仙隔錦屏。   Huống ngộ thiên tiên cách cẩm bình.
                倘若玉京朝會去,   Thảng nhược Ngọc kinh triều hội khứ,
                願隨鸞鶴入青雲。   Nguyện tùy loan hạc nhập thanh vân.
       Có nghĩa :
                Cùng thuyền Hồ Việt cũng thương nhau,
                Huống gặp người tiên cách sáo rào.
                Nếu đó Ngọc Kinh về phó hội,
                Nguyện cùng chắp cánh vút trời cao !

       Phàn phu nhân xem xong mỉm cười nói thầm : Rõ khéo đa tình, rất tiếc ta không phải là đối tượng của chàng ! Bèn lấy ra một mảnh hoa tiên, cất bút đề thơ hồi âm :

                一飲瓊漿百感生,   Nhất ẩm QUỲNH TƯƠNG bách cảm sanh,
                玄霜搗盡見雲英。   Huyền sương đão tận kiến Vân Anh.
                藍橋便是神仙窟,   Lam Kiều tiện thị thần tiên quật.
                何必崎嶇上玉京?   Hà tất khi khu thướng Ngọc Kinh ?
       Có nghĩa :
                  Một chén QUỲNH TƯƠNG trăm cảm sanh,
                  Chày sương giã thuốc gặp Vân Anh.
                  Lam Kiều chốn ấy thần tiên ngụ,
                  Sao phải gập ghềnh đến Ngọc Kinh ?!

        Bùi Hàng đọc thơ mà không hiểu ngụ ý của Phu nhân muốn nói chi. Huyền sương là cái gì và Vân Anh là ai, sao lại ở trong thần tiên quật (hang động của thần tiên). Chàng cứ ngẩn ngơ suy nghĩ mãi không hiểu nàng muốn ám chỉ việc gì. Chừng định hồn lại thì phu nhân và thị nữ đã lên bờ đi mất. Dò la mãi cũng không biết được mãi mai tin tức gì. Buồn lòng, chàng bèn quay trở lại Trường an định chờ khoa thi tới. Khi về đến Lam Kiều Dịch, xa xa trông thấy có mấy mái nhà tranh thật nên thơ, sẵn đang khát nước chàng bèn ghé lại xin chén nước uống. Sau khi hỏi xin bà lão đang ngồi quay tơ trứơc cửa, thì bà lão gọi vói vào trong nhà : "Vân Anh, bưng nước ra mời khách !". Bùi Hàng ngẩn người ra nhớ lại bài thơ của Phàn phu nhân có nhắc đến Vân Anh. Chàng hồi hộp nhìn vào bên trong bình phong, quả nhiên một người con gái khoảng mười lăm mười sáu tuổi đẹp như tiên nga bưng nước ra mời khách. Chàng uống cạn ly nước mát ngọt lịm tận tim gan. Tuy nàng đã lui vào bên trong mà hương thừa vẫn còn phảng phất đâu đây. Chàng lấy cớ là đi đường người mệt ngựa mõi mà nấn ná xin ở lại nghỉ ngơi.
       Sau khi làm quen và trao đổi hàn huyên với bà lão, Bùi Hàng mới khẩn khoản ngỏ ý muốn hỏi cưới Vân Anh, thì bà lão bảo rằng :" Đó là cháu gái của lão, bà cháu sống nương tựa lẫn nhau, nếu muốn cưới nó thì phải giúp lão giả xong thang thuốc Huyền Sương, vì là thuốc của tiên ban nên phải giả bằng chày ngọc cối ngọc. Nếu trong một trăm ngày mà chàng tìm được chày ngọc cối ngọc đến đây giả thuốc cho ta, thì ta sẽ gả nó cho chàng ". Bùi Hàng vui mừng hớn hở từ biệt bà lão để ra đi tìm chày ngọc cối ngọc.
      Chàng lang thang suốt hơn hai tháng trường, bỏ cả khoa thi để quyết chí tìm chày cối ngọc. Nhưng vẫn biền biệt không tìm đâu ra cả. Buồn lòng và lo lắng, gặp ai cũng chỉ hỏi có chày ngọc cối ngọc mà thôi. Một hôm đang lang thang để hỏi thăm tin tức ở kinh thành, tình cờ gặp được người buôn ngọc cho chàng biết là có người đang rao bán chày cối ngọc, nhưng lại đòi đến hai ngàn lượng bạc. Chàng đành phải bán cả hành trang, cả ngựa và cả tên gia đồng theo hầu mới đổi được chày ngọc cối ngọc mang về Lam Kiều cho bà lão. Bà lại bảo chàng phải ở lại Lam Kiều để giã thuốc Huyền Sương cho đúng một trăm ngày nữa. 
  
                      Inline image                  
                               Bùi Hàng dâng thuốc    
  
         Khi thuốc đã giã xong và khi bà lão đã uống xong thuốc, bèn dẫn Vân Anh ra đi và bảo chàng hãy nán đợi. Hôm sau, có đoàn ngựa xe từ đâu đến đón chàng đi đến một nơi mây mù vần vũ, lầu các nguy nga, tòa rộng dãy dài, tiêu thiều nhạc sáo vang vang, trúc tơ dìu dặc như tiên cảnh. Bà lão không còn nghèo nàn như trước mà hiện ra như một lão Phật gia trong cung tiên, cô dâu Vân Anh đẹp rực rỡ với "Hoa quan chấp chới hà y rỡ ràng" được thị tì hai bên đở ra để làm lễ tơ hồng. Bùi Hàng bàng hoàng ngây ngất, sung sướng đê mê bên cô dâu thơm phức và đẹp như … tiên !                   
       Sau khi cử hành hôn lễ, bà lão còn đưa hai vợ chồng đến ra mắt một tiên nương chị của cô dâu Vân Anh là Vân Kiều. Bùi Hàng mới giật mình nhận ra đây là Phàn phu nhân đi cùng thuyền với mình lúc trước. Thì ra Vân Kiều Phàn phu nhân đã báo trước mối duyên giã thuốc của mình với Vân Anh ở Lam Kiều rồi, mà trước đây mình đâu có biết. Sau những năm tháng sống vui vẻ bên nhau, vợ chồng Bùi Hàng cũng cùng tu và cùng đắc đạo thành tiên cả.
                      
                        Inline image
 
       Đây cũng là câu chuyện xung đột giữa đạo Nho và đạo Lão. Vì chuyện của Bùi Hàng mà một số Nho sinh bỏ Nho theo Lão để tu tiên. vừa có vợ đẹp vừa có cuộc sống thoải mái như … tiên. Không bị ràng buộc bởi công danh phiền toái mà còn phải biết a dua nịnh bợ với cấp trên và cũng chưa chắc đã được yên thân trong quan trường đầy hiễm họa.

       TƯƠNG 將 còn có nghĩa là Sẽ, là Sắp. Như TƯƠNG LAI 將來 là Sắp đến, Sẽ đến, thường dùng để chỉ thời gian và hoàn cảnh sắp diễn ra, có thể tốt có thể xấu, như :
         - TƯƠNG LAI xán lạn, rực rỡ...
         - TƯƠNG LAI đen tối, mờ mịt...
      Tùy theo ngữ cảnh, khi nói lên những "mơ ước về sau" thì TƯƠNG LAI tự nó đã có nghĩa là tốt rồi, vì đâu có ai mơ ước những chuyện xấu bao giờ, như lời cha mẹ khuyên con cái, thầy giáo khuyên học trò :
         - Rán học giỏi thì mới có TƯƠNG LAI.
         - Biếng nhác quá thì làm sao có TƯƠNG LAI cho được !

      TƯƠNG 將 là sắp, là Sẽ; Nên TƯƠNG YẾU 將要 (Sẽ phải), TƯƠNG DỤC 將欲 (Sắp muốn) là những từ dùng để nhấn mạnh thêm những sự việc sắp xảy ra mà thôi, như bài thơ "Tặng Uông Luân 贈汪倫" của Lý Bạch sau đây :

                  李白乘舟將欲行,   Lý Bạch thừa chu TƯƠNG DỤC hành,
                  忽聞岸上踏歌聲。   Hốt văn ngạn thượng đạp ca thanh.
                  桃花潭水深千尺,   Đào hoa đàm thủy thâm thiên xích,
                  不及汪倫送我情。   Bất cập Uông Luân tống ngã tình ! 
       Có nghĩa : 
                       Lên thuyền Lý Bạch toan rời,
                   Bỗng nghe trên bến tiếng người nhịp ca. 
                       Sâu ngàn thước, đầm Đào hoa,
                   Uông Luân tình bạn tiễn ta hơn nhiều !

      Nhắc đến Thi Tiên Lý Bạch thì không thể không nhắc đến bài TƯƠNG TIẾN TỬU  將進酒 nổi tiếng của ông. TƯƠNG 將 ở đây có nghĩa là Mời; TƯƠNG TIẾN TỬU có nghĩa là "Mời Uống Rượu; Mời Cạn Ly". Bài thơ bất hủ với những câu như :

              ... 會須一飲三百杯, Hội tu nhất ẩm tam bách bôi.
      và...
              ... 與爾同銷萬古愁! Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu !
      Có nghĩa :
                   Ba trăm ly uống hả hê...
               Mối sầu vạn cổ trả về thiên thu !...  

               Inline image

       TƯƠNG 將 còn có nghĩa là Đem, là Lấy ; như trong các thành ngữ TƯƠNG CÔNG THỤC TỘI 將功贖罪 là "Lấy Công Chuộc Tội", TƯƠNG KẾ TỰU KẾ 將計就計 là "Đem kế (của người ta) làm kế (của  mình) để đối phó lại với đối phương... Theo như tích trong "Tam Quốc Chí" sau đây :     
      Sau khi Tào Tháo lấy ít thắng nhiều ở trận chiến Quan Độ, bèn xua Tám mươi ba vạn quân với khí thế hừng hực tiến chiếm Kinh Châu và Đông Ngô. Hai bên dàn quân ở hai bên bờ Hạ Khẩu của sông Trường Giang. TƯỞNG CÁN 蔣幹 tự là Tử Dực, một mưu sĩ dưới trướng của Tào Tháo, xin với Tháo cho mình qua sông làm thuyết khách để chiêu hàng Chu Du vì mình là bạn đồng song với Chu Du thuở trước. Chu Du là Đô đốc của Đông Ngô đang lo lắng vì sau khi Tào Tháo chiếm Kinh Châu thì 2 tướng Thủy quân Đề Đốc là Thái Mạo và Trương Doãn đã đầu hàng Tào Tháo và hiện đang giúp Tào Tháo chấn chỉnh thao luyện thủy binh. Chu Du nghe tin Tưởng Cán đến bèn cùng các tướng bàn bạc, TƯƠNG KẾ TỰU KẾ niềm nở tiếp đón bạn học cũ Tưởng Cán và bày ra tiệc "Quần Anh Hội" để mừng bạn và quy định trong tiệc chỉ hàn huyên tình cố cựu mà không được nói đến việc quân cơ. Sau tiệc rượu lại giả say mà mời bạn cùng ngủ chung giường với mình. Tưởng Cán rất buồn vì không nói được lời chiêu hàng nào cả. Nằm trằn trọc không ngủ được, thấy trên án thư có rất nhiều thư từ qua lại, trong đó có thư của hai tướng Thái Mạo và Trương Doãn, nói rằng mình chỉ bất đắc dĩ mới đầu hàng Tào Tháo mà thôi, sẽ lừa dịp mà giết chết và dâng đầu Tào Tháo trong nay mai. Tưởng Cán cả mừng bèn dấu thư đó vào tay áo, rồi giả đò nằm ngủ, lúc trời gần sáng, lại nghe có người đến gọi Chu Du dậy và thì thầm chuyện gì đó như có tin bên quân trại của Tào Tháo đưa qua mà có chắc đến 2 tên Thái Mạo và Trương Doãn. Khi trời sáng, thấy Chu Du vẫn còn say ngủ, bèn lẻn ra lấy thuyền sang sông về dinh Tào Tháo, trình thư đầu hàng Đông Ngô của 2 tướng Thái Mạo và Trương Doãn lên và kể lại mọi điều nghe thấy. Tào Tháo xem thư và nghe kể xong, bèn cả giận, truyền lệnh cho quân sĩ bắt hai tướng lại và chém đầu trước ngọ môn. Khi đao phủ thủ dâng đầu của hai tướng Thái Mạo và Trương Doãn lên, thì Tào Tháo mới chợt tỉnh ngộ biết rằng mình đã trúng kế phản gián của đối phương, nhưng vì tự ái đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt mà khen thưởng cho Tưởng Cán. Riêng cái anh chàng hủ nho Tưởng Cán vẫn dương dương tự đắc tưởng rằng mình đã lập công to, nào có biết đâu rằng mình đã trúng cái "TƯƠNG KẾ TỰU KẾ" của ông bạn Đô Đốc Chu Du ranh mảnh. 

               Inline image

      TƯƠNG 將 còn có nghĩa là giúp đỡ phù trợ. Như bài thơ Cù Mộc trong chương Chu Nam của Kinh Thi 詩經.周南·樛木 :

                   南有樛木,     Nam hữu cù mộc,
                   葛藟荒之。     Cát lũy hoang chi.
                   樂只君子,     Lạc chỉ quân tử,
                   福履將之。     Phúc lý TƯƠNG chi.
        Có nghĩa :
                        Núi nam cù mộc một cây,
                   Cóc kèn bìm bịt phủ đầy lên trên.
                        Vui vì quân tử được nên,
                   Phúc đức theo gót đến liền chung vui.

        Đây là bài ca dao đời Tây Chu thường để chúc tụng cho cô dâu chú rể trong hôn lễ được vui vẻ và hạnh phúc; cô dâu tìm được chỗ dựa vững vàng. Có thuyết cho là bài thơ ca tụng bà Hậu Phi ở trong cung không đố kỵ với các phi tần bên dưới, nên mong cho phúc đức sẽ phù trợ bà.

        TƯƠNG 將 còn có nghĩa là Tiễn đưa, bảo vệ. Trong bài thơ Thước Sào trong chương Thiệu Nam Quốc Phong trong Kinh Thi 詩經.國風.召南.鵲巢 :

                  維鵲有巢,    Duy thước hữu sào,
                  維鳩方之。    Duy cưu phương chi.
                  之子于歸,    Chi tử vu quy,
                  百兩將之。    Bách lượng tương chi.
        Có nghĩa :
                       Chim khách có ổ có nơi,
                   Chim cu bay đến suốt đời ở chung.
                       Cô kia đi về nhà chồng,
                   Trăm xe ngựa kéo nối dòng đưa đi.

       Đưa dâu có đến cả trăm xe ngựa kéo, thì quả là đám cưới của hàng quý tộc chứ không phải hạng thường dân. Từ bài Kinh Thi nầy đã hình thành một thành ngữ còn thông dụng cho đến hiện nay; đó là 4 chữ "CHI TỬ VU QUY 之子于歸" chỉ các cô gái "về" nhà chồng có cưới gả hẵn hoi, chứ không phải "cuốn gói theo trai" như nàng Trác Văn Quân của Tư Mã Tương Như vậy.

                 Inline image
                                            Duy thước hữu sào... Chi tử vu quy.

      "TƯƠNG... TƯƠNG..." là Liên từ, có nghĩa như : "Vừa... Vừa..." như trong thành ngữ "TƯƠNG TÍN TƯƠNG NGHI 將信將疑" là "Vừa tin vừa ngờ", có nghĩa như thành ngữ "BÁN TÍN BÁN NGHI 半信半疑" là "Nửa tin nửa ngờ" để chỉ chuyện gì đó còn chưa chắc chắn vậy.

      TƯƠNG TƯƠNG 將相 là : "Sẽ... nhau". là "Chỉ còn có nước..." Như một câu ngạn ngữ trong dân gian được ghi trong Tăng Quảng Hiền Văn là :

                 三十不豪,         Tam thập bất hào,
                 四十不富,         Tứ thập bất phú,
                 五十將相尋死路。 Ngũ thập TƯƠNG TƯƠNG tầm tử lộ !
       Có nghĩa :
              - Ba mươi tuổi chẳng hào sảng (dễ chịu, khá giả),
              - Bốn mươi tuổi chẳng phú túc (giàu sang đầy đủ), thì...
              - Năm mươi tuổi SẼ chờ NHAU để tìm đường chết. Ý là : 
                Chỉ Còn Có Nước đi tìm đường chết mà thôi !

       Theo quan niệm xưa : Tam thập nhi lập. Ba mươi tuổi là phải lập thân lập nghiệp, ít nhất là phải có gia đình và nghề nghiệp hẵn hoi. Chớ ba mươi tuổi mà còn long bong chưa có việc làm, chưa có nghề nghiệp vững chắc, đến bốn mươi tuổi mà còn chưa ổn định, chưa khá giả giàu có... thì khi đã năm mươi tuổi, là tuổi Tri Thiên Mệnh rồi thì chỉ còn có nước chờ chết mà thôi, chớ khó mà có dịp trở mình để làm quan làm giàu được nữa. Đó là nói theo quan niệm của Thế kỷ 19-20 khi tuổi thọ trung bình của con người chỉ từ 60-65. Với quan niệm "60 năm cuộc đời" như bài hát trước đây của dân Sài Gòn :

                Em ơi, có bao nhiêu... 60 năm cuộc đời !
                20 năm đầu, sung sướng không bao lâu,
                20 năm sau sầu tư cao vời vợi,
                20 năm cuối là bao !...
                 (Bấm vào link dưới đây để nghe nhạc)

       Còn Thế kỷ 21 bây giờ, tuổi thọ trung bình trên thế giới hiện nay là từ 70-80 tuổi, nên 50 tuổi mới là tuổi chín chắn để làm nên sự nghiệp : Nghề nghiệp đã ổn định, kinh nghiệm sống và tín dụng đã đầy đủ, cơ sở vật chất cũng đã vững chắc... Nên, 50 tuổi là tuổi dễ phất lên và làm giàu nhất trong thời buổi hiện nay. Chớ không phải "TƯƠNG TƯƠNG tầm tử lộ" như ông bà xưa đã nói đâu !
       Mong rằng mọi người, mọi giới, mọi ngành, mọi nghề... tất cả đều HỖ TƯƠNG 互相 giúp đỡ lẫn nhau để cùng hướng đến TƯƠNG LAI 將來 huy hoàng rực rỡ đang chờ đón phía trước mặt. 

        Hẹn bài viết tới :
                                   Chữ TƯỚNG


                                       
            ĐỖ CHIÊU ĐỨC


Thứ Sáu, 1 tháng 8, 2025

BÓNG KIỀU - THƠ LÊ KIM THƯỢNG

 


Tranh Lương Xuân Nhị

BÓNG KIỀU  

 

1. 

 

Em sang khoe dáng người yêu

Chân son bước nhẹ, dáng Kiều thướt tha

Con đường nhỏ, bước chân qua

Em đi lối cỏ, đường hoa trắng ngần

Hoa Xoan nở tím mùa xuân

Áo em tím đậm bang khuâng trong lòng

Gió Nồm thổi nhẹ trên đồng

Nắng qua kẽ lá, má hồng hây hây

Mùa xuân em hỡi có hay

Đỏ trời hoa Gạo, đắm say chúng mình

Vườn yêu nắng sang lung linh

Đôi ta chung bước đậm tình tinh khôi

Bên tôi, em thủ thỉ lời

“Mình yêu nhau mãi suốt đời nghe anh

Đã thương, thương hết lòng mình

Qua bao năm tháng, cuộc tình vẫn nguyên…”

 

 

2. 

 

Tôi về bói cỏ tầm duyên

Mai kia, mốt nọ tới miền trầu cau

Giấu vào đâu, cất vào đâu ?

Thơ tình năm cũ đậm sâu bàng hoàng

Liễu buồn, liễu đứng bên đàng

Có người đứng đợi lòng ngan ngát buồn

Chờ em nắng cháy mưa tuôn

Nắng chan chát nắng, mưa nguồn chơi vơi

Gửi em nỗi nhớ một thời

Theo mây theo gió về nơi xa vời

Gửi em nỗi nhớ không lời

Bóng hình em vẫn ngời ngời trong tôi

Em đi từ tạ không lời

Tôi đi về phía phương trời không em

Ướt gì có được cánh chim

Bay về phương ấy đi tìm người yêu…

 

             

              Nha Trang, tháng  08. 2025

                  LÊ KIM THƯỢNG


Thứ Năm, 31 tháng 7, 2025

TRĂNG MỜ SUỐI MƠ. - TRẦN HỮU NGƯ

 


TRĂNG MỜ
SUỐI MƠ
Nhạc sĩ Lê-Mộng-Nguyên qua đời bên Pháp ngày 19.5.2023.
Anh sinh năm 1930 tại Huế.
Một bài viết đã lâu. Nay đăng lại để vô cùng thương tiếc anh LÊ-MỘNG-NGUYÊN, người nhạc sĩ mới 19 tuổi đã viết nên một kiệt tác: TRĂNG MỜ BÊN SUỐI.
Thế là thêm một nhạc sĩ tiền chiến nữa đã ra đi!
Không biết ngày mai có nhạc sĩ “hậu sinh khả úy” nào viết về Suối nữa không?
Nhạc viết về Sông có nhiều, nhưng nhạc viết về Suối, hình như có hai bài đứng được với thời gian:
-Suối mơ (Văn-Cao & Phạm-Duy)
-Trăng mờ bên suối (Lê-Mộng-Nguyên)
Tôi đã xa rừng từ rất lâu rồi. Bỏ lại sau lưng tuổi thơ yêu dấu biết bao kỷ niệm, những khu rừng cho ta bóng mát quanh năm, những núi non sừng sửng bốn bề, những buổi mai nghe chim thức dậy hót vang, những chiều vàng pha tím nhẹ, chen những đụn mây đùn lên bị cánh rừng che khuất ở đường chân trời.
Nơi nào có sông, có suối là nơi đó có vạn vật sinh sôi, nảy nở. Dân làng định canh, định cư, và con người bao giờ cũng tìm nơi có nước để mà sinh sống. Những năm tháng Chiến tranh, dân kéo nhau vào rừng tìm những nơi có con con suối nhỏ, có khi gặp con sông bắt nguồn từ xa xôi lửng lờ xuôi chảy, và nơi nào có nước là nơi đó có sự sống.
Tôi còn nhớ một câu chuyện từ lúc tôi còn rất nhỏ:
Tôi theo ba tôi từ xã Tân Thành lên núi Tà Cú từ năm 1954. Chuyện kể rằng, sư tổ núi Tà Cú là Trần Hữu Đức, ngài từ miền Trung vào Hiệp Nghĩa (trước 75 là xã Tân Hiệp, quận Hàm Tân, tỉnh Bình Tuy, nay là Hàm Thuận Nam tỉnh Bình Thuận), phật tử theo Ngài nhiều quá, vì thế, Ngài trốn lên núi Tà Cú để tu. Ngài lần theo con suối chảy từ núi xuống Hiệp Nghĩa, theo suối đi ngược lên núi, đến một cái hang nơi đầu nguồn con suối thì ngài dừng lại (chỗ này gọi là chùa Hang).
Nước suối núi Tà Cú, ngày ấy lạnh như… nước đá. Núi rừng Tà Cú thanh thoát, buổi mai nghe nước suối róc rách, buổi chiều nhìn xuống Hiệp Nghĩa sương như khói lờ đờ, buổi tối người ta có thể nghe một thứ âm thanh hình như tiếng đá vang và rừng thở, và trong thinh không bỗng giựt mình vì tiếng động của thú hoang tìm mồi.
Trẻ con sinh sau Hòa bình sẽ không biết suối. Có biết chăng chỉ qua sách báo phim ảnh. Không như chúng tôi ngày xưa, tắm suối, giặt suối, uống suối… Con suối, ví như một “suối nguồn tươi trẻ”. Những ngày hè chói chang, tìm đến suối để thấy lòng mát rượi, chơi với suối còn được nghe “nhạc suối”, tôi thả những chiếc lá vàng xuống suối để thấy nó “ngù ngờ ngù ngờ xuôi về đâu?” (Lời nhạc phẩm Sáng rừng của Phạm Đình Chương).
Suối, nguồn cảm hứng khó nói nên lời của không biết bao tao nhân mặc khách, những hẹn hò, những chia ly…, chỉ cần một người có một chút lãng mạn khi nhìn thấy con suối chảy êm đềm, trong veo, len lỏi trong hốc đá, hàng cây, uốn éo là thấy tâm hồn dâng trào tình cảm dạt dào.
Và Lê-Mộng-Nguyên cũng là người lãng mạn trong nhạc phẩm “Trăng mờ bên suối”:
“… Người hẹn cùng ta đến bên bờ suối
Rừng chiều mờ sương ánh trăng mờ chiếu
Một đêm thiết tha rồi mai xa cách
Người ơi hai ngả biết đến phương nào
Mịt mù ngàn thâu suối mơ trầm lắng
Lòng buồn từ ly nhớ nhung chiều vắng
Người ơi nhớ khúc nhạc lòng đêm ấy
Ngàn đời vang nhắc bên suối trăng tà
Suối mơ, lời nguyện ước bên bờ suối mơ
Nhớ chăng, người phương xa trong khói điêu tàn
Suối ơi, vờn theo bóng trăng vàng ngày xanh
Nào những lúc trên thuyền say sưa nhìn trăng vừa lên
Ai hay chia lìa, sương khói biên thùy
Hiu hắt người đi sa trường xa (*)
Một ngày xa nhau xóa bao hình bóng
Trời bày chia ly chi cho lòng héo
Giờ đây cách xa người quên hay nhớ
Ngày xưa còn đó trăng nước mong chờ…”
Lê-Mộng-Nguyên viết “Trăng mờ bên suối” năm 1949, lúc ấy anh chỉ mới 19 tuổi. Và anh chỉ có một bản nhạc này để anh được làm nhạc sĩ. Theo các nguồn tin trên mạng, nhạc sĩ Lê-Mộng-Nguyên đã nói:
-“Tôi chỉ cần tự giới thiệu là nhạc sĩ, tác giả “Trăng mờ bên suối” là ai cũng biết rồi! Có người so sánh tôi với Alain-Fournier, tác giả Le Grand Meaulnes, chỉ có một tác phẩm mà cũng được nổi tiếng khắp năm châu!”.



Và SUỐI MƠ
Đã từ lâu, người nghe nhạc chỉ biết ca khúc SUỐI MƠ là của Văn Cao. Nhưng, có một dạo tôi nghi ngờ vì tôi nhớ “SUỐI MƠ đồng tác giả là Văn Cao & Phạm Duy”, nhưng vì không có bằng chứng! Nay vô tình lục lại nhạc cũ, tôi bắt gặp bản in SUỐI MƠ ghi: “Ấn phẩm 1954 của TINH HOA – VIỆT NAM”:
-Bên ngoài bìa đầu ghi: BÀI THƠ BÊN SUỐI của Văn Cao
-Bên trong ghi: Lời và Nhạc: Văn Cao – Phạm Duy.
Kính mong gia đình cố nhạc sĩ Văn Cao cho biết:
-Có phải SUỐI MƠ là BÀI THƠ BÊN SUỐI của Văn Cao đã được Phạm Duy phổ nhạc?
Tôi nghĩ, làm rõ điều này là cần thiết, vì SUỐI MƠ là nhạc phẩm bất hủ.
“… Suối mơ
Bên rừng thu vắng
Dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng
Ngày chưa đi sao gió vương
Bờ xanh ngát bóng đôi cây thùy dương
Suối ơi, ôi nguồn yêu mến
Còn ghi khi bóng ai tìm đến
Đàn ai nắn buông lưu luyến
Suối hát theo đôi chim quyên
Từng hẹn mùa xưa cùng xây nhà bên suối
Nghe suối róc rách trôi hoa lừng hương gió ngát
Đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi
Tơ đàn chùng theo với tháng năm
Rừng còn nhớ tới người
Trong chiều nào giữa chốn đây hồn cầm lắng tiếng đời
Suối ơi! Nghe rừng heo hút
Giòng êm đưa lá khô già trút
Còn như lưu hương yêu dấu
Với suối xưa trôi nơi đâu…”
Tôi đã xa rừng, xa những con suối nhỏ của một thời tắm suối, ăn trái cây rừng và uống nước suối, thứ nước trời cho, trong như pha lê, mà thiên nhiên ban tặng, một giòng nước tinh khiết chảy từ trong hốc đá, len lỏi qua những cánh rừng, đã gạn đục khơi trong, không bao giờ cạn.
Những con suối âm thầm, miệt mài chảy qua khe đá, xuyên rừng mang những giòng nước mát của một thời đã nuôi sống con người cùng muôn thú cũng như cỏ cây hoa lá. Những con suối nhỏ đã đi vào thơ ca đã làm nên huyền thoại: “Suối Mơ” và “Trăng Mờ Bên Suối”.
Và những con suối rừng ngày ấy, bây giờ biết có còn không?



TRẦN-HỮU-NGƯ
(*) Thật hết biết, trong câu “người đi sa trường xa”, vậy mà có nhạc sĩ đã chép lại rằng “người đi xa Trường-Sa!” để cho lũ trẻ hát ca ngợi một đêm tự tình ở bên suối của đôi tình nhân, rồi chia tay, một người ở lại, một người đi ra đão Trường-Sa!
Tôi buồn thì ít, mà cười thì nhiều cho một số nhạc sĩ và ca sĩ được gọi là… Trẻ khi cảm nhận “Trăng mờ bên suối”.
Không biết lúc ở bên Pháp, trước khi qua đời anh Lê-Mộng-Nguyên có biết chuyện này không?