CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2025

LÃNG ĐÃNG THU MƠ- THƠ NHẬT QUANG





 LÃNG ĐÃNG THU MƠ


Chiều Thu mơ gợi nhớ vòng tay ấm
Lời yêu thương, mộng ước mãi thiết tha
Nhẹ bước em qua mùa lá rụng
Nghe mây trời phiêu lãng khúc tình ca

Đôi mắt ấy, sao hồn ta vương vấn?
Để Thu nồng nàn thắp lửa trong tim
Một thoáng môi cười- hương ngây ngất
Như trong mơ...thao thức mãi đi tìm

Áo em bay giữa chiều Thu gió nhẹ
Chạm hồn ta miền thương nhớ mênh mang
Thu như còn giữ mãi bao hoài vọng...
Để lòng chơi vơi say giấc mộng vàng

Đêm lãng đãng nghe tình ca em hát
Ánh trăng ngà rơi xuống giữa vần thơ
Ta ấp ủ kỷ niệm theo ngày tháng
Ôm mãi bóng hình em trọn ước mơ.



Jos. NHẬT QUANG


Thứ Năm, 18 tháng 9, 2025

MẤY VẦN LỤC BÁT RỜI - THƠ HUỲNH TÂM HOÀI






 MẤY VẦN LỤC BÁT RỜI

KHÔNG ĐỀ

Anh ngồi nắn nót câu thơ.
Quên thời gian tróng ngồi trơ trơ buồn.
Cho hồn trôi dạt mây tuôn.
Gieo vần, gieo chữ để nương dóc đời
Dóc đời đổ xuống… rụng đời
Câu thơ dính lại chút hơi hướm người.

SAY QUÊ
Sầu quê lắc mãi càng sầu
Uống ly rượu lắc cái màu nhớ nhung
Đâu say vì rượu mấy chung
Hồn say cố xứ tự dưng gục đầu

CHIỀU

Thu về thương lá vàng khô
Thương ta tuổi hạc bên bờ hư không.
Phù vân một kiếp hồng trần.
Bóng chiều nghiêng xuống mắt trân ngó chiều

CHẢI TÓC

Em ngồi chải lọn tóc phai.
Rớt theo tuổi ngọc những ngày tháng trôi.
Em ngồi chải tóc bồi hồi
Rớt bao nhiêu tuổi qua đời nổi trôi.


HTH

Thứ Tư, 17 tháng 9, 2025

SÔNG TÌNH - THƠ HUỲNH TÂM HOÀI ,NHẠC BY AI







SÔNG TÌNH

Con sông tình nước chảy
Qua mấy khúc sông buồn
Con sông tình uốn lượn
Qua bao niềm yêu thương
Sông trôi về biển lớn
Sông quên bến hẹn thề
Sông đi về xa tít
Nước quên bờ neo xưa
Sông của tôi sông ơi
Biển ngàn xa sống dử
Có bao giờ êm trôi
Ngoai kia trời mây rộng
Chắc nước sông lạc loài
Muốn quay về nơi cũ
Chắc gì con nước quay
Thôi một lần đi ấy
Biết bao giờ gặp đây
Sông tình sông tình hởi
Dấu sào cấm còn đây
Nước không về bờ vắng
Dấu dầm cạn khóc ai


HTH



Thứ Ba, 16 tháng 9, 2025

VẦNG TRĂNG THU - THƠ MẶC PHƯƠNG TỬ

 


VẦNG TRĂNG THU

Thoáng trông chiếc lá vào thu
Chuông chùa ngân,
Nhớ mùa Vu lan về.
Chạnh niềm dặm khách trời quê
Sương mù giăng bóng chiều lê thê buồn

Nắng vàng trôi khuất hoàng hôn
Tiếng chim ngày muộn gọi hồn sương đêm
Đời như chiếc lá bên thềm
Xa cảnh …là để đi tìm cội xưa

Giờ đây
Mùa lại giao mùa
Nát nguồn lệ cũ, sớm trưa…
cung đàn
Đã đành thôi!
Chiếc lá vàng,
Đã đành thôi,
Gió lên ngàn chiều nghiêng

Đã đành giữa cõi ưu phiền
Bến trầm luân
Trắng giọt triển miên rơi
Cánh chim thong thả chân trời
Đã không sương khói, không lời nước mây.

Thu xưa dưới ánh trăng này
Người buông tay giữa chợ ngày hợp tan
Thu nay cũng ánh trăng vàng
Kính thơm Huyền diệu theo ngàn cỏ thoa.


Nam Cali, Vu Lan 2025.
MẶC PHƯƠNG TỬ


Thứ Hai, 15 tháng 9, 2025

RIÊNG MÌNH - THƠ LÊ KIM THƯỢNG


 


RIÊNG MÌNH

 

1. 

 

Gặp nhau ngày ấy Em – Anh

Tình yêu sét đánh mà thành dài lâu

Tình yêu chín vội, đậm sâu

Nồng nàn mình đã với nhau giao hòa…

Gom màu nắng đẹp hoàng hoa

Ướp hương trinh nữ rải tà áo bông

Em giờ mắt biếc môi hồng

Lời yêu thỏ thẻ tình nồng trong thơ

Em giờ ươm mộng dệt mơ

Tóc bay theo gió ngẩn ngơ đôi bờ

Chờ  nhau chin đợi, mười chờ

Thầm thì em nói:  “Em giờ của anh

Tình mình riêng chỉ có mình

Tim em ngự trị bóng hình anh thôi…”

Nhớ thương, thương nhớ khôn nguôi

Ông Tơ, Bà Nguyệt buộc đôi chúng mình

 

 

2

 

Phút giây lắng đọng lòng mình

Bồi hồi thương nhớ bóng hình người mơ

Nhớ em, nhớ đến thẫn thờ

Lòng buồn anh viết bài thơ muộn màng

Còn đây hai chữ “Hợp – Tan”

Sắt son dang dở, đá vàng dở dang

Cuộc tình lắm nỗi ngỡ ngàng

Trời đang nắng gắt, vội vàng đổ mưa

Còn đâu ngày ấy…  Ngày xưa… 

Cái thương, cái nhớ nắng mưa tiêu điều

Đường tình em rẽ ngược chiều

Cho anh phải nhớ, phải yêu trọn đời

Mùa về hoa Phượng đầy trời

Hương thầm nhắc nhở một thời bên em

Tìm em như thể tìm chim…

Em đi biệt xứ biết tìm phương nao…



             

              Nha Trang, tháng  09. 2025

                  LÊ KIM THƯỢNG


Chủ Nhật, 14 tháng 9, 2025

CHÓ CON - THƠ HUỲNH TÂM HOÀI

 



Là con đầu nên cả nhà ai cũng cưng. Má thường gọi "chó con" trìu mến...Giờ ngồi nhớ má làm thơ....Thời gian quá đổi là lâu nhớ hoài.

CHÓ CON

Xưa còn ba vá đầu tròn
Ham chơi bùn đất áo quần lấm lem
Tối rồi còn chạy lon ton
Má rượt má bắt “chó con” về nhà
Lột quần, cởi nút áo ra
“Chó con của má ui chà thiệt hư”
Lớn đầu mấy chục tuổi dư
Mỗi lần về má y như năm nào
“Chó con tắm rửa cho mau
Má dọn cơm nước rồi vào ăn cơm”
Bây giờ cách mấy mươi năm
Lớn khôn con đã dập bầm nắng mưa
Má đi mất biệt mấy mùa
Giờ con tóc trắng già nua cuộc đời
Vẫn thèm tiếng gọi con ơi
Nụ cười của má vẵng lời ”chó con”


HUỲNH TÂM HOÀI


Thứ Sáu, 12 tháng 9, 2025

ÁNG MÂY TRỜI LÃNG DU - THƠ NHẬT QUANG

 


ÁNG MÂY TRỜI LÃNG DU

Áng mây trôi - mây trôi
Ngang vùng trời xanh ngát
Rơi xuống cõi hồn tôi
Những áng thơ phiêu bồng

Ôi! Áng mây trời mênh mông
Bay về đâu, về đâu phương nào?
Lời thầm thì gió gọi
Giữa muôn trùng ngân nga

Ôi! Áng mây trời bay xa
Tựa khúc ca không lời
Chảy qua miền ký ức...
Trên cung bậc khát khao.

Áng mây trời bay cao
Trôi lãng du- lãng du phương nào?
Đừng neo bờ bến đậu
Rồi tan vào hư không

Mây ơi, mây ơi! hãy cùng ta
Trôi mênh mang, mênh mang
Bên những giấc mơ...nồng nàn
Giữa kiếp người yêu thương.


Jos. NHẬT QUANG

Thứ Tư, 10 tháng 9, 2025

HỒN VÍA TRUNG THU - TỪ KẾ KẾ TƯỜNG

 


HỒN VÍA TRUNG THU

Ngày rằm tháng tám Âm lịch, còn gọi là Tết Trung thu hay Tết Nhi đồng, khắp các nẻo đường thành phố ngoài những giang hàng bán bánh Trung thu với cách bày trí màu sắc sặc sỡ đặc trưng từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong thật bắt mắt là hình ảnh rất đặc trưng của Sài Gòn vào dịp này. Nhưng nếu chỉ có những hộp bánh đỏ rực mang các thương hiệu nổi tiếng quen thuộc mà không có những chiếc đèn lồng giấy kiếng, khung tre đủ loại hình: con bướm, con cá, con gà, tàu thủy, xe tăng, ngôi sao… với cách trang trí thuần Việt đi kèm thì cũng không làm nên hồn vía của một đêm rằm tháng tám, một cái Tết Trung thu đúng nghĩa.
Mấy ai đi mua bánh Trung thu cho con mà lại quên mua một chiếc đèn lồng? và trong lúc rảo xe trên phố, tìm một điểm bán đèn hay trong phút giây dừng chân chọn lựa một chiếc đèn vừa ý, hợp với sở thích của con, mấy ai không khỏi ngậm ngùi nhớ lại thời thơ ấu của mình khi có dịp ngắm nghía những chiếc đèn lồng khung tre, giấy kiếng truyền thống, màu đỏ rực rỡ với nét họa tiết, chấm phá đơn sơ thậm chí cách điệu mà làm nên hình dáng một con rồng, con gà, con cá, trái bí… khi gắn cây nến nhỏ vào bên trong đốt lên, ánh sáng thật lung linh, kỳ ảo càng làm cho trí óc trẻ con trong sáng, hồn nhiên bay bổng hơn với sự tưởng tượng thăng hoa về một đêm Trung thu trăng sáng với hình ảnh chú Cuội ngồi gốc cây đa ngóng đợi chị Hằng.
Tuy nhiên, có mấy ai biết được những chiếc đèn lồng khung tre, giấy kiếng rất xa xưa ấy mỗi năm đến rằm Trung thu lại xuất hiện rực rỡ trên phố, đi đến tận chợ huyện, chợ làng từ đâu mà có, do ai làm ra, xuất xứ ở một khu phố nghề nào? Tất nhiên có nhiều nơi, nhiều làng nghề làm đèn lồng Trung thu nhưng ở Sài Gòn có một khu phố nghề chuyên làm đèn tập trung nhiều hộ gia đình đã nổi tiếng lâu đời được nhiều nơi tín nhiệm đặt hàng phân phối ra thị trường, đó là khu phố làm đèn lồng giáo xứ Phú Bình đường Lạc Long Quân Q11 đã tồn tại hàng chục năm mà lúc thịnh hành có đến 100 hộ sản xuất đèn quanh năm, mà sôi nổi nhất là vào những tháng trước rằm Trung thu tháng tám.
Đến khu phố làm đèn Trung thu giáo xứ Phú Bình đường Lạc Long Quân Q11 cách đây vài năm, người ta sẽ nhận ra ngay những hộ sản xuất đèn lồng theo phong cách truyền thống, hoàn toàn thủ công khi “mục sở thị” nhiều kiểu đèn treo giăng giăng trước cửa nhà để tiếp thị và khi bước vào trong, khách có thể chứng kiến tận mắt những “nghệ nhân” đang thao tác cho từng công đoạn làm đèn từ khâu chẻ tre, vuốt nan, làm khung, dán giấy kiếng, trang trí họa tiết… Không khí làm việc luôn khẩn trương, cảnh người đến lấy hàng về phân phối luôn tấp nập bất kể ngày, đêm.
Do đây là nghề thủ công, những chiếc đèn từ đơn giản đến cầu kỳ, tinh xảo đều được người thợ làm bằng tay theo kiểu gia đình “cha truyền, con nối” mà thành phố nghề. Trong dây chuyền sản xuất của một hộ gia đình thường bao gồm chồng, vợ, con cái, dâu, rể… nghề này đòi hỏi sự khéo tay, tỉ mẩn kể cả sự “lao tâm, khổ trí”, nhẫn nại mới vượt qua được và mới theo nghề được. Công đoạn khó nhất để làm ra một chiếc đèn lồng Trung thu có lẽ là uốn nan, ráp khung tạo hình dáng cho chiếc đèn mà hình dáng chiếc đèn khó nhất có lẽ là chiếc đèn con rồng bởi đây là sự kết hợp giữa khung tre và chi tiết uốn kẽm tạo dáng đầu rồng, râu rồng…Nhưng điều này không làm nghệ nhân làm đèn sợ bằng hàng phải giao gấp mà trời mưa dầm vì giấy kiếng được dán vào khung tre bằng hồ mà gặp không khí ẩm ướt thì giấy kiếng không thẳng, bị nhăn nheo rất khó sửa, hầu như phải gỡ ra làm lại.
Một nghệ nhân làm đèn lồng kỳ cựu có thâm niên trên 15 năm ở khu phố đèn lồng giáo xứ Phú Bình đường Lạc Long Quân Q11 là ông Trí cho biết họa tiết, màu sắc trang trí đèn lồng Trung thu của Việt Nam khác với đèn lồng Trung thu Trung Quốc bởi những họa tiết này mang bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam do gia đình truyền lại và mỗi thế hệ đều có sự sáng tạo thêm. Cả gia đình ông Trí chia nhau đảm nhận các công đoạn sản xuất đèn lồng. Ông Trí chẻ che, vót nan, vợ ông ráp khung tre tạo dáng cho chiếc đèn, cô con gái vẽ họa tiết trang trí… Hộ gia đình ông Trí chuyên làm đèn lồng loại lớn theo sự đặt hàng của mối quen, mỗi chiếc đèn của hộ ông Trí có giá từ 80.000 đồng-100.000 đồng. Còn những hộ làm đèn lồng nhỏ thì giá khoảng 10.000 đồng-30.000 đồng.
Một hộ làm đèn lồng kỳ cựu khác trong khu phố đèn lồng giáo xứ Phú Bình là ông Nhân than rằng bây giờ nguyên vật liệu làm đèn đều tăng giá, có chiếc đèn nhiều chi tiết khó, tinh xảo, đòi hỏi nhiều công sức hoàn thành như chiếc đèn con rồng phải mất mấy giờ liền mới làm xong. Thực tế còn phải cạnh tranh với đèn lồng của Trung Quốc giá rẻ nên nghê nhân làm đèn lồng truyền thống hiện gặp rất nhiều khó khăn. Đèn lồng là mặt hàng không thể “lưu kho” được, phải bán hết ngay trong mùa vụ vì nếu để qua một năm khung tre sẽ bị mối mọt ăn, giấy kiếng sẽ rách nát. Ông Nhân và một số hộ làm đèn lồng truyền thống khác khẳng định nếu không thay đổi mẫu mã cho đèn lồng Việt Nam thì khó cạnh tranh với đèn lồng Trung Quốc.
Thế nhưng, đèn lồng Trung Quốc mỗi năm tràn vào thị trường Việt Nam, đặc biệt là ở TP. Hồ Chí Minh càng nhiều. Đèn của họ mẫu mã phong phú, đa dạng, lại rất đẹp, giá rẻ. Trẻ con Việt Nam ngày nay do tiếp xúc với máy vi tính sớm nên sở thích cũng hiện đại, những mẫu lồng đèn khung tre, giấy kiếng hình dáng con thỏ, con cá, con gà…hình như không còn hấp dẫn với chúng nữa mà cứ đòi bố mẹ mua lồng đèn Trung Quốc chế tác tân kỳ hơn, đèn dùng pin hoặc cắm điện sạc chứ không đốt nến lung linh cứ nơm nớp sợ cháy cả đèn khi gió mạnh.
Chính vì cạnh tranh không nổi với đèn lồng Trung thu của Trung Quốc mỗi năm nhập nhiều hơn nên nhiều nghệ nhân làm đèn lồng truyền thống đã bỏ nghề. Khu phố đèn lồng giáo xứ Phú Bình đường Lạc Long Quân Q11 từ chỗ trước đây có 100 hộ làm nghề, hoạt động tấp nập, đông vui vào những tháng chuẩn bị cho mùa Trung thu hiện giờ chỉ còn khoảng 10 hộ theo nghề, những hộ làm đèn này chủ yếu lấy công làm lời và không nỡ bỏ một nghề “cha truyền, con nối”. Do đó không khí của phố đèn lồng Phú Bình vào những ngày này trở nên buồn tẻ, vắng lặng chứ không rộn ràng, tấp nập, sôi động như xưa. Và biết đâu mai mốt Sài Gòn sẽ mất hẳn một phố nghề chuyên sản xuất đèn lồng nổi tiếng khắp nơi?


TỪ KẾ TƯỜNG

Thứ Hai, 8 tháng 9, 2025

MẸ -CHA - THƠ LÊ KIM THƯỢNG

 


MẸ - CHA

 

1. 

 

Người xa, trở lại quê nhà

Bước chân lối cỏ, nắng tà chân đê

Người về lưng tựa bóng quê

Ấm lòng trong những vỗ về thương yêu

Vi vu gió thổi sáo diều

Bóng ai như bóng Mẹ yêu đang chờ

Ruộng đồng xanh thẩm đôi bờ

Dòng sông ngày ấy, tuổi thơ lên mười

Bến sông một đóa hoa cười

Nước trôi mang nặng tình người say mê

Người về tìm mái nhà quê

Tìm hình bóng Mẹ nhớ về… Ngày xưa

Mẹ - Cha cày cấy nắng mưa

Nhọc nhằn, tần tảo sớm trưa trên đồng

Một đời sống với nghề nông

Cơm no, áo ấm hằng mong ơn Trời…

 

 

2. 

 

Con giờ góc biển chân trời

Công Cha, nghĩa Mẹ… rối bời lòng con

Ruộng đồng mưa nắng mỏi mòn

Sớm mai sương trắng, hoàng hôn nắng tà

Quê hương là Mẹ, là Cha

Nuôi ta khôn lớn, nuôi ta thành người

Cha cho con một cuộc đời

Mẹ cho hơi ấm, ngàn lời ru êm

Cha là ánh sáng trong đêm

Cho con vững bước khi thêm tuổi đời

Mẹ là cánh võng tuyệt vời

Câu ca dao cũ ầu ơi … ngọt ngòn

Giờ con Chữ Hiếu chưa tròn

Công Cha, nghĩa Mẹ…héo hon võ vàng

Đâu là hạnh phúc thế gian

Có Cha, có Mẹ muôn vàn yêu thương…

 

             

              Nha Trang, tháng  09. 2025

                  LÊ KIM THƯỢNG

Chủ Nhật, 7 tháng 9, 2025

NHỮNG DẤU LẶNG HÌNH CÁNH SEN - PHAN NI TẤN

 


NHỮNG DẤU LẶNG HÌNH CÁNH SEN

Tựa đề đầy ấn tượng trên là tựa tập thơ của nhà thơ Nguyễn Tam Phù Sa do Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn ấn hành năm 2025. Tập thơ suốt từ trang đầu tới trang cuối hoàn toàn gói trọn hình ảnh vô cùng thân thiết của gia đình tác giả, nghĩa là nhà thơ không để cho một chữ thơ nào thoát ra ngoài vòng tay nhân ái của gia đình, bởi vì Những Dấu Lặng Hình Cánh Sen là tập thơ dành riêng cho đại gia đình Nguyễn Tam tức nhà thơ Nguyễn Tam Phù Sa.
Bài thơ mở đầu Thay Lời Muốn Nói ở trang 7 gợi lên hình ảnh thâm tình đặc biệt trong thế giới thơ ca:
Chẳng có gì đặc biệt ở phía sau
ba vắt ngực tặng các con câu thơ màu đỏ
tình chí cốt có hình giọt lệ
trái tim người mang sứ mệnh yêu thương.
Tuy "chẳng có gì đặc biệt ở phía sau" song đọc suốt 97 trang thơ người đọc nhận thấy nội dung thiết yếu, chất liệu sáng tạo trong thơ, Nguyễn Tam Phù Sa đã góp phần làm mới vần thơ, ý thơ, nhạc điệu của ngôn ngữ trong những câu thơ. Thiết nghĩ những ai từng đọc Những Dấu Lặng Hình Cánh Sen đều nhận thấy nghệ thuật trầm bổng trong từng bài thơ miêu tả vẻ đẹp của gia đình bắt nguồn từ một nhân sinh quan phước đức.
Ở tuổi bát thập với "tám mươi năm lao khổ một kiếp người", cho thấy Nguyễn Tam Phù Sa đã từng lăn lộn, trầy xước, ngã nghiêng, được thua với nhân tình thế thái để rồi một hôm thầm lui gót, thu bóng mình vào trong gia đình để thấy mình an tâm hơn, an tâm ngợi ca, thư thái hát ca mà không sợ làm xước một câu thơ nào.
Cái tình chí cốt của Nguyễn Tam Phù Sa trong bài thơ Mẹ Của Các Con Tôi (tr.10) không khác gì một bức tranh "hoằng vĩ", là một loại tranh nghệ thuật thể hiện vẻ đẹp thiêng liêng, bày tỏ sứ mệnh yêu thương trong gia đình có cha có mẹ, có chín đời con:
Mẹ chỉ có một đời nuôi dạy chín đời con
nỗi khổ hạnh dài năm thế kỷ
tranh hoằng vĩ đời người rơi nước mắt
tát cạn Hoàng Hà chưa trả hết công ơn
Mẹ sống hết mình như ngày mai sẽ chết
để mỗi đứa con có một ngôi nhà
cảm ơn mẹ những ngày gian nan mùa đông
lòng cứ đợi, miệt mài trông, con vẫn biết
Mẹ cho các con một cuộc đời mà mẹ không có
tám mươi năm lao khổ một kiếp người
cha cuốc đất lưng cong hình cánh quạt
mẹ bám đồng mòn cụt mười đầu ngón tay
Đời phố đời quê đời không quê không phố
nơi tô canh vằng vặt ánh trăng rằm
nơi nuộc lạt buộc đời tre vào đòn bánh tét
cả đời đi, đi không khỏi quê nhà
Cảm ơn mẹ những ngày gian nan mùa đông
cây phước đức trước nhà sen vẫn nở
mẹ là biển, là sông xanh mãi mãi
mãi mãi còn nợ mẹ, mẹ ơi!
Thơ của Nguyễn Tam Phù Sa là thơ kể lể rõ nét, một loại thơ tự sự chân tình, rất mực đặt nặng tính cách gia đình. Đây là đặc tính của thơ Nguyễn Tam Phù Sa, dòng thơ tha thiết nuôi dưỡng cái tình chí cốt của tác giả đối với cật ruột trong gia đình
Trong cái bao la của thế giới thơ, ta từng nghe nói thơ có Lục Vân Tiên, ngâm thơ có Hồ Điệp, thì kể thơ có Nguyễn Tam Phù Sa:
Ba & Mẹ chung sống trên dưới 60 năm
tận máy và ngấm tận tóc
thuộc lòng từng đường chỉ tay ngang dọc
những gò đồi ổ mối lõm lồi cong
Mắc nợ lời thề tát cạn biển Đông
xin trả góp máu tim người Gò Nổi
xin quì gối trước vong linh ông bà nội
tác hợp Ba & Mẹ chung sống tới bây giờ.
(Ba Kể Con Nghe Chuyện Tình Ba & Mẹ. tr.12).
Đọc Những Dấu Lặng Hình Cánh Sen cho thấy người Gò Nổi miệt mài với nghiệp thơ, mượn thơ để bày tỏ tấm lòng tận tụy với vợ con, cháu chắt trong đại gia đình. Với người trăm năm, suối thơ tuôn trào, ý thơ thâm hậu gợi lên một thi tứ chân thành:
Anh tận hiến tận cùng ngọn tóc
tình như sông thao thiết chảy chân thành
biển nhân ái gói tình trong hạt muối
muối lâu năm son sắt rất lâu đời
(Tự Bạch Cùng Người Trăm Năm. tr. 14, 15)
Ở một tứ thơ khác, Gia Nghiệp Của Cha, nhà thơ Gò Nổi không những tự coi chín người con của mình như chín ngôi nhà mà còn tự ví thơ mình là một món quà dành cho các con, một hình ảnh đẹp, hay và lạ hiếm thấy trong câu ví:
Gia nghiệp của cha là chín người con
chín ngôi nhà, tương lai hy vọng
dù cuộc sống khó khăn tời đâu
vẫn chọn cách sống tử tế
để chết không phải là chấm hết
Ba bằng lòng với những gì đang có
xẻ dọc trăm năm đi tới đích con người
có kiêu hảnh thời ông cha đánh giặccó
nỗi niềm thương tiếc đã đi qua
Ngọn bút Nguyễn Du rỏ máu xuống trang Kiều
cha vắt ngực tặng các con câu thơ màu đỏ
không biết thơ cha có ngày mai hay không
nhưng hôm nay là một món quà… (tr. 20, 21)
Chắc gia cảnh nhà thơ Nguyễn Tam Phù Sa chẳng giàu chi đâu nhưng giàu về đường con cái đủ để thấm thía với câu thơ mang tính nhân đạo:
Chờ đợi cả đời để được thấy các con
tương lai con đường phía trước
ở đâu làm gì trên trái đất này
sống tử tế để chết được mãn nguyện
Một đời người một đời thơ
giàu con quí cả đời cây rậm rừng.
(Hình Thơ Bóng Chữ Có Cha Cầm Đèn. tr.23)
Là người cầm đèn có tri thức nên cách xử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tam Phù Sa thường bình dị, đôn hậu, khắc họa một nét chân tình cố hữu của người xứ Quảng vốn yêu ghét rạch ròi:
Là người Quảng Nam yêu ghét rạch ròi
lớn lên nhờ câu thơ đất bồi Gò Nổi
thương cái cách các con nâng đỡ một ông già
ruột thập tự nhũn lòng rơi nước mắt
Những năm cuối đời ba cảm ơn các con
nặng nhẹ cùng chia chung đúc một ngôi nhà
nhìn bốn hướng phía nào ba cũng thấy
con cháu bốn đời xúm xít níu ôm nhau.
(Những Năm Cuối Đời Ba Cảm Ơn Các Con. tr.27)
Trong thơ Nguyễn Tam Phù Sa, tình cha con còn là tình bạn chí thiết. Họ: cha và chín người con là những mảnh vụn từ tiền kiếp cùng hẹn nhau trôi vào đời này chung tay vun quén lại mà thànhbên nhau. Ta đọc ở đây tấm chân tình của nhà thơ Gò Nổi:
Ngoài người cha ba còn là người bạn
người bạn trăm năm tháo máu chảy chân thành
như gốm sứ cẩn hoa văn thời cổ đại
cha con mình cũng từ đất chui ra
Ngựa đá rung bờm dưới thanh gươm Trần Hưng Đạo
ngài chỉ cho ta con đường Việt Nam trước mặt
ba chỉ cho con cách đi tới đích con người
dù dâu bể có phân lìa năm bảy ngã
Bạn chí cốt không ở nơi bàn nhậu
để ba rót mời con ly rượu của quê nhà
từng tháo máu lở bồi năm bảy bận
Thu Bồn Hòn Kẽm vẫn xanh um…
(Ngoài Người Cha Ba Còn Là Người Bạn. tr. 28, 29)
Không có gì đẹp bằng hình ảnh mẹ: "Nhái bơi giữa bát canh đồng. Mẹ ngồi múc ánh trăng tròn giữa sân". (Mẹ Ơi! tr. 61)
Không có gì bao la hơn tình Mẹ; cũng vì tình mẹ bao la quá nên con cái không kịp đền ơn mà đành mắc nợ rồi tự ta thán: Mẹ Ơi! Con Xin Lỗi Mẹ. tr.62.
Núi cao con đi không hết
nghĩa mẹ sông biển mênh mông
khúc ruột giựt mình tự thức
con còn nợ mẹ, mẹ ơi!
Con về rồi đi biền biệt
làm con con biết sai rồi
ân tình còn ai bằng mẹ
ở đâu bằng ở nôi quê
Hình ảnh tận tụy vì đời con của Mẹ trong một bài thơ Tiếng Kêu Thầm (tr.81)
gọi cha về với mẹ, tuy thường tình nhưng thấm thía vì nhân đạo: "Bao nhiêu năm mẹ lạc giọng phía bìa trời. Dang tay đứng che đời con côi cút".
Bài Làng Tôi, tr. 97 có dòng thơ 7 chữ thật hay, về mẹ:
Người về như người đã ra đi
cứ đau đáu nỗi niềm quê kiễng
cứ dằng dặt trường chinh vó ngựa
mẹ vẫn ngồi như tượng, chờ con.
Nhìn chung, tập thơ Những Dấu Lặng Hình Cánh Sen do tác giả Nguyễn Tam Phù Sa bộc lộ một tình tự về cách sống, thế sống của một đại gia đình họ Nguyễn thành nhiều câu thơ, đoạn thơ, truyện thơ kể lể chuyện đời, chuyện nước non, tình tự. Sự thể hiện này, cuối cùng được nhà thơ từ tốn khép lại bằng vần thơ lục bát ngắn gọn, sinh động, chí tình chí nghĩa như một khúc nôi mẫu mực của một đại gia đình Nguyễn Tam.
cuối cùng đâu có gì đâu
phù vân pha chút bột màu lên tranh
từ trong cát bụi sinh thành
chữ trăm năm ráng lượn quanh kiếp người.
Nguyễn Tam Phù Sa tên thật Nguyễn Tam Ân, sinh năm 1946 tại Quảng Nam.
Tác phẩm đã xuất bản:
Thơ:
Mưa Trong Vườn Tình Cũ (nxb Da Vàng 1972), Thắp Chút Đồng Nai (nxb Đồng Nai 1997), Ra Đi Cùng Dã Tràng (nxb Trẻ 2000), Tranh Lắp Ghép Bằng Chữ (nxb Lao Động 2012), Hình Thơ Bóng Chữ Có Cha Cầm Đèn (nxb Tổng Hợp 2023).
Văn:
Những Tay Chèo Không Mỏi (tập một nxb Trẻ 2004), Những Tay Chèo Không Mỏi (tập hai nxb Văn Nghệ 2009), Nơi Chim Cu Ưa Gáy (truyện ngắn nxb Văn Nghệ 2009).



PHAN NI TẤN