Thứ Năm, 31 tháng 1, 2019
RẠ RƠM 1 - 2 - THƠ LÊ KIM THƯỢNG
Sinh Lê
Tệp đính kèm
17:29, Th 5, 24 thg 1 (6 ngày trước)
tới tôi
GỬI NHÃ MY BÀI THƠ LỤC BÁT 2019
CHÚC VUI KHỎE
NHA TRANG, 24-01-2019 - LÊ KIM THƯỢNG
RẠ RƠM 1 - 2
1.
Người về, ngồi chiếc đò ngang
Qua sông thả hết gian nan, phiêu bồng
Chiều nghiêng đổ nắng qua sông
Ánh vàng lấp loáng, mênh mông sóng triều
Người về tìm chút hương yêu
Bên bờ sông cũ, nắng chiều nhẹ buông
Nước xuôi, nước có nhớ nguồn
Trôi theo dòng nước nụ buồn lặng trôi...
Chiều hoang loang tím lên đồi
Trăng đêm khẻ đến, mây trời về đâu?
Chùa quê trầm mặc đêm thâu
Trăng lồng bóng Hạc, Long chầu... tịch liêu
Hương trầm Bái Điện phiêu phiêu
Chung Lầu thả tiếng tiêu diêu bềnh bồng...
Bếp nghèo sưởi ấm đêm Đông
Nửa khuya gió Bấc lạnh lòng nhớ nhung
Gió lùa mái lá rung rung
Đèn chong hiu hắt, mông lung vô thường
Ấm nồng vách đất ủ hương
Cửa Sài trăng xế, thân thương gió luồng...
2.
Túi thơ, bầu rượu, tình suông
Niềm vui đi mất, nỗi buồn nặng ôm
Thềm rêu khô ngọn gió Nồm
Tay nâng ly rượu, chiều hôm nhớ nhà
Chợt nghe tiếng ếch đồng xa
Võng đưa kẽo kẹt... tiếng ca điệu hò
Nhìn mưa nhớ một cánh cò
Sông gầy nước đục, bến đò người thân...
Quê nhà đợi bóng chinh nhân
Trăng xa tê tái, bến gần chờ anh
Chờ cho nón đội tơi vành
Cau già hóa lão, trầu xanh héo rồi
Chờ cho tới kiếp Luân Hoi
Đời thôi ghềnh thác, sóng dồi gian truân
Nỗi lòng xa xứ bâng khuâng
Đôi vai gánh nặng trầm luân cuộc đời
Bao năm... vật đổi, sao dời
Giữ lòng chung thủy, vẫn Người Rạ Rơm
Dù cho nặng nợ áo cơm
Giữ cho “Nghèo sạch... Rách thơm...” trọn đời...
Nha Trang, tháng 01. 2019
LÊ KIM THƯỢNG
“...” Ca dao
Thứ Tư, 30 tháng 1, 2019
THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH : TRI KỶ, TRI ÂM - ĐỖ CHIÊU ĐỨC
Ảnh tác giả Đỗ Chiêu Đức và phu nhân
Chieu Duc
03:36 (15 giờ trước)
THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH :
TRI KỶ, TRI ÂM
TRI 知 là Biết, Kỷ 己 là Mình; nên TRI KỶ 知己 là người hiểu biết mình, không phải chỉ hiểu biết hời hợt bên ngoài, mà hiểu biết một cách sâu sắc, tận tâm can và suy nghĩ của mình, thì mới gọi là TRI KỶ được. Như khi nghe Thúy Kiều nói lên cái ý định xưng bá đồ vương của mình, thì Từ Hải tỏ ra rất hài lòng :
Nghe lời vừa ý gật đầu,
Cười rằng: TRI KỶ trước sau mấy người!
Khen cho con mắt tinh đời,
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!
Đôi bạn TRI KỶ đầu tiên hiểu rõ nhau nhất là Quản Trọng 管仲 và Bào Thúc Nha 鮑叔牙 thời Chiến Quốc, theo Sử Ký ghi lại như sau :
Quản Trọng tên là Di Ngô, hiệu là Kính Trọng, người thôn Quản Cốc huyện Dĩnh Thượng. Ông là Tể Tướng nổi tiếng của nước Tề, phò tá và giúp Tề Hoàn Công trở thành một trong Ngũ Bá thời Chiến Quốc. Bào Thúc Nha cũng là một Đại Phu của nước Tề, là bạn tri kỷ của Quản Trọng. Truyện Kể...
Thuở nhỏ, Bào Thúc Nha và Quản Trọng là hai người bạn thân. Bào Thúc Nha rất hiểu về tài hoa của bạn mình. Quản Trọng nhà nghèo nhưng luôn luôn lấn lướt Bào Thúc Nha về mọi mặt, nhưng Bào lại luôn luôn đối sử tốt với bạn mà không một tiếng oán than trách móc.
Lớn lên, hai người cùng làm quan cho nước Tề. Quản Trọng theo phò Công Tử Củ, còn Bào Thúc Nha theo phò người em là Công Tử Tiểu bạch.
Năm 686 trước Công Nguyên, Tề Tương Công mất, cháu là Công Tôn Vô Tri soán ngôi. Mùa xuân năm 685 trước CN, Đại Phu nước Tề là Ung Lẫm giết Công Tôn Vô Tri. Lúc đó Công Tử Củ đang ở nước Lổ, còn Công Tử Tiểu Bạch đang ở nước Lữ. Triều thần quyết định đón hai Công Tử về nước, ai về trước sẽ được nối ngôi.
Nước Lổ phái người đưa Công Tử Củ về nước; còn nước Lữ thì phái người đưa Công Tử Tiểu Bạch về nước. Quản Trọng sợ Công Tử Tiểu Bạch về trước, nên phi ngựa rượt theo bắn một mũi tên, Công Tử Tiểu Bạch giả vờ trúng tên té xuống xe ngựa. Sau đó cùng Bào Thúc Nha rẻ đường tắt về nước trước, lên ngôi nước Tề, chính là Tề Hoàn Công đó.
Lổ Trang Công nghe Công Tử Tiển Bạch đã lên ngôi nước Tề, vô cùng tức giận, cử binh sang đánh nước Tề. Tề đã có chuẩn bị sẵn nên binh Lổ đại bại mà về. Dưới áp lực của nước Tề, Lổ bắt buộc phải giết Công Tử Củ và bắt Quản Trọng trả về cho nước Tề xử tội.
Tề Hoàn Công sau khi lên ngôi, bèn triệu Bào Thúc Nha đến để phong làm Tể Tướng. Nhưng Bào lại từ chối mà còn tiến cử cho người đang ở trong tù là Quản Trọng làm Tể Tướng vì cho rằng Quản Trọng giỏi hơn mình rất nhiều. Trước đây bắn Tề Hoàn Công là vì đang theo phò Công Tử Củ, chỉ là ai vì chúa nấy mà thôi. Tề Hoàn Công nghe theo lời Bào Thúc Nha phong Quản Trọng là Tể Tướng. Nên sau nầy nhờ các sách lược của Quản Trọng mà Tề Hoàn Công mới xưng bá chư hầu.
Về phần Quản Trọng, ông luôn nói với người khác rằng :" Lúc nhỏ nhà nghèo, thường đi buôn với Bào Thúc Nha, tôi ra vốn ít, nhưng chia lời nhiều. Thúc Nha không cho là tôi tham, vì biết tôi nghèo. Tôi bày cách làm ăn cho Thúc Nha bị thất bại. Thúc Nha không cho là tôi ngu xuẩn, mà biết là làm ăn phải có lúc vầy lúc khác. Tôi ra làm quan ba lần đều bị đuổi về ba lần, Thúc Nha không cho là tôi bất tài, mà biết là tôi chưa gặp được thời cơ. Tôi đi đánh trận ba lần, ba lần đều thua chạy trước, Thúc Nha không cho là tôi nhát gan, vì biết tôi còn phải phụng dưỡng mẹ già. Công Tử Củ thất bại bị giết, tôi bị bắt mà không dám hi sinh vì chủ, Thúc Nha không cho tôi là kẻ vô sỉ, vì biết rằng tôi còn đợi dịp để thi thố tài năng. Ôi, Sanh ra tôi là cha mẹ tôi, nhưng hiểu được tôi thì chỉ có Bào Thúc Nha mà thôi !".
Khi Quản Trọng sắp chết. Tề Hoàn Công hỏi : Bào Thúc Nha có thể thay thế làm Tể Tướng không ? Quản Trọng đáp : Không được ! Bào Thúc Nha là người thiện ác phân minh, không thể bao dung cho kẻ xấu được. Nếu giao cho quyền bính trong tay, chẳng những có hại cho chúa công mà còn có hại cho chính bản thân Thúc Nha nữa ! Bào Thúc Nha nghe biết chuyện nầy, chẳng những không trách Quản Trọng không tiến cử mình, mà còn rất cảm kích vì biết bạn rất hiểu mình nên không muốn hại mình phải mang họa vào thân.
Quả là hai người bạn TRI KỶ với nhau : Người nầy hiểu rõ người kia và người kia cũng rất hiểu rõ người nầy. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã ca ngợi tài của Quản Tử (Quản Trọng) như sau :
Lượng gã Bạch sinh nào có mấy,
Tài người Quản Tử có đâu nhiều !
Tăng Quảng Hiền Văn có câu :
Tương thức mãn thiên hạ, 相識滿天下,
TRI KỶ năng kỷ nhân ? 知己能幾人?
Có nghĩa :
Quen biết hết cả người trong thiên hạ, nhưng...
TRI KỶ (là người hiểu ta nhất) có được mấy người đâu ?!
Theo Chiến Quốc Sách Liệt Ngự Khấu 战国列御寇著 ghi về chuyện Bá Nha Tử Kỳ như sau :
Du Bá Nha 俞伯牙 phụng mệnh vua Tấn đi sứ sang nước Sở. Đêm rằm tháng tám, thuyền vừa vào đến Hán Dương, gặp lúc mưa to gió lớn, nên ghé vào một mé núi nhỏ để tránh gió. Đêm xuống, gió lặng mây tan, vầng trăng rằm sáng vành vạnh trên sông nước, cảnh sắc thật hữu tình. Bá Nha bèn lấy cây dao cầm ra nắn nót phím dây và đàn một khúc. Đang lúc thả hồn vào cung đàn phím nhạc, mơ hồ như thấy có bóng người trên bến nên phân tâm, tay bấm mạnh vào phím đàn đánh "chát" một tiếng, đàn đứt mất một dây và tiếng đàn im bặt. Bỗng nghe tiếng người trên bờ nói vọng xuống rằng :" Xin tiên sinh chớ ngại, tôi là người đốn củi về muộn, đi đến đây nghe được tiếng đàn tuyệt diệu của tiên sinh, nên nán lại chưa nở rời đi ".
Nương theo bóng trăng, Bá Nha nhìn kỹ người trên bến, quả nhiên là một tiều phu với gánh củi còn để một bên, thầm nghĩ : Chỉ là một người đốn củi, làm sao nghe hiểu được tiếng đàn của ta chứ ?. Bèn cất tiếng hỏi rằng :" Các hạ nghe hiểu tiếng đàn của ta, thì có thể nói thử xem khi nảy ta đang đàn khúc gì ?". Người tiều phu bèn đáp rằng :" Thưa tiên sinh, lúc nảy ông đang đàn khúc Khổng Tử tán thán đệ tử Nhan Hồi. Rất tiếc là tiên sinh mới đàn đến câu thứ tư thì dây đàn bị đứt ".
Nghe người tiều phu đối đáp trôi chảy, Bá Nha rất ngạc nhiên và cũng vô cùng mừng rỡ. Bèn mời tiều phu lên thuyền để đàm đạo , người tiều phu vừa trông thấy cây đàn của Bá Nha, bèn khen rằng :" Đây là cây dao cầm, tương truyền là của vua Phục Hi chế tạo ra ". Bèn kể lại lai lịch, quá trình chế tạo và xuất xứ của cây đàn. Bá Nha nghe xong càng khâm phục cho kiến thức của người tiều phu hơn. Đoạn mời người tiều phu nghe thêm vài khúc đàn nữa. Khi Bá Nha cất cao tiếng đàn lên thật hùng tráng, thì người tiều phu khen :" Vòi vọi thay núi cao hùng vĩ, chí tại cao sơn ". Khi Bá Nha hạ tiếng đàn xuống cho thanh thoát trôi chảy, thì tiều phu lại cất tiếng khen rằng :" cuồn cuộn thay như nước trường giang, ý tại lưu thủy ".
Bá Nha nghe xong rất lấy làm vui dạ, trước đây chưa từng có người hiểu được tâm sự của ông gởi gấm qua tiếng đàn, mà trước mắt, người tiều phu nầy lại làm được việc đó. Không ngờ ở chốn thâm sơn cùng cốc nầy lại có được một TRI ÂM ( người hiểu được tiếng lòng của người khác qua âm nhạc ) mà bấy lâu nay ông cố tìm vẫn không gặp được. Bèn đứng dậy thi lễ, rót chén rượu mời và cùng xưng tên họ với nhau. Thì ra người tiều phu tên là Chung Tử Kỳ, làm nghề đốn củi độ nhựt. Hai người càng đàm đạo càng hợp ý hơn. Cuối cùng dưới vầng trăng thu sáng vằng vặc họ đã cùng nhau kết nghĩa đệ huynh. Bá Nha lớn hơn nên làm anh, hỏi Tử Kỳ rằng :" Với tài năng và học thức của hiền đệ sao không ra kiếm chút công danh mà lại cam nghề đốn củi ?" Tử Kỳ cho biết là vì mình còn phải phụng dưỡng cha già, nên mới ẩn nhẫn đợi thời. Vì công vụ chưa xong, nên Bá Nha không có thời gian lên bái kiến cha của Tử Kỳ. Trước khi chia tay, hai người bạn cùng hẹn nhau rằm trung thu sang năm lại gặp nhau trên bến sông nầy.
Trung Thu năm sau, Bá Nha y hẹn, ghé thuyền lại bến Hán Dương chờ bạn. Nhưng chờ hoài chờ mãi vẫn không thấy tăm hơi, bèn đem đàn ra mà đàn một bản, ý muốn kêu gọi bạn tri âm, nhưng tri âm vẫn bằng bặt bóng hình. Sáng hôm sau, Bá Nha lên bờ, lần mò vào thôn để hỏi thăm về tin tức của Tử Kỳ. Một ông già nghe hỏi, bèn khóc òa lên, cho biết mình chính là cha của Tử Kỳ đây. Sau Trung Thu năm rồi, Tử Kỳ đã nhuốm bệnh và qua đời, trước phút lâm chung, còn trối lại là hãy chôn mình ở bờ sông để Trung Thu năm tới còn nghe được tiếng đàn của Bá Nha như đã ước hẹn.
Nghe lời nói của Chung Lão, Bá Nha đau buồn vô hạn, tìm đến bên mộ của Tử Kỳ, trịnh trọng đặt cây dao cầm trước mộ, rồi ngồi xếp bằng mà đàn lại khúc " Cao sơn lưu thủy " năm xưa. Đàn xong bèn gạt đứt hết dây đàn, đứng dậy nâng cây dao cầm lên cao đập mạnh xuống tảng đá xanh trước mộ. Cây đàn " bùng " lên một tiếng bể tan tành ! Ba Nha bèn khóc mà ngâm rằng :
Image result for 伯çåæInline imageImage result for 伯çåæ
摔碎瑶琴鳳尾寒, Suất toái dao cầm phụng vĩ hàn,
子期不在向誰彈? Tử Kỳ bất tại hướng thùy đàn ?
春風满面皆朋友, Xuân phong mãn diện giai bằng hữu,
欲覓知音難上難。 Dục mịch TRI ÂM nan thượng nan !
Có nghĩa :
Dao cầm đập nát đau lòng phượng,
Đàn vắng Tử Kỳ đàn với ai ?
Mát mặt gió xuân đều bạn hữu,
TRI ÂM đâu dễ gặp lần hai !
Quả là " Dục mịch tri âm nan thượng nan ": Muốn tìm được một người tri âm là "khó trên khó". Có nghĩa là Khó vô cùng ! Hiểu nhau đã khó, hiểu cả tiếng đàn của nhau càng khó hơn nữa. Nên sau nầy dùng rộng ra, TRI ÂM chỉ những người bạn rất thân thiết, hiểu rõ cả ruột gan lòng dạ của nhau. Nguyễn Du còn dùng để chỉ những cặp đôi yêu nhau nữa, như lời của Thúy Kiều nói với Kim Trọng :
Nàng rằng : Gió bắt mưa cầm,
Đã cam tệ với TRI ÂM bấy chầy !
Trong truyện Nôm TRINH THỬ cũng có câu :
Bá Nha đã gặp Tử Kỳ,
Bảo sơn ai nở trở về tay không ?!
Trong Tăng Quảng Hiền Văn cũng có câu :
知音說與知音聽, Tri âm thuyết dữ tri âm thính,
不是知音莫與彈. Bất thị tri âm mạc dữ đàn.
Có nghĩa :
Là TRI ÂM với nhau mới nói cho nhau nghe,
Không phải là TRI ÂM với nhau thì đừng có đàn ( cho nhau nghe, vì có biết nghe đâu mà đàn cho uổng công ! ).
TRI KỶ, TRI ÂM ngày xưa là như thế đó, còn ngày nay thì sao ?!
ĐỖ CHIÊU ĐỨC
Thứ Ba, 29 tháng 1, 2019
CHÙM THƠ TỊNH ĐÀM
Đàm Nguyễn Tài
17:58, Th 2, 21 thg 1 (8 ngày trước)
tới tôi
*KHÚC MỘNG...
Em là hương
Dậy men đời
Để môi thơm ngọt
Hát lời tình yêu .
Hồn tôi
Cánh gió phiêu diêu
Thả bao mơ ước
Cho chiều lên xanh .
*BÂY GIỜ...
Bây giờ ...
Con mắt nhăm nheo
Cái hình , cái bóng...
Cùng theo nhau về .
Lẩn vào trong cả cơn mê
Nào em nhân ảnh...
Cận kề giấc đêm .
*MỪNG SINH NHẬT BẰNG THƠ .
( Tặng bạn Phượng XL )
Câu thơ gói trọn tấm lòng
Mừng anh sinh nhật vui trong phúc phần .
Bạn nghèo chỉ có tình thân
Ý mong đẹp mãi muôn lần không phai .
*NHỚ...
Nhớ người
Qua bóng hoa rơi
Chiều đi rất nhẹ ...
Bên lời gió đưa .
Ru đời...
Vào giấc mơ xưa
Lòng nghe xao xuyến ...
Như vừa gặp đây .
TỊNH ĐÀM
( TP.HCM . VN )
Thứ Hai, 28 tháng 1, 2019
XUÂN SANG - THƠ NHẬT QUANG
nhat quang
Tệp đính kèm
03:33
tới tôi
Kính gửi chị Nhã My!
Minh họa: Người mẫu Tô Loan
Minh họa: Người mẫu Tô Loan
XUÂN SANG
Vườn xuân tràn vạt nắng
Gió hong mùa lao xao
Cành mai vàng khoe thắm
Ươm lên đôi má đào
Cánh chim về tổ ấm
Qua rồi mùa bão giông
Trời xanh én chao lượn
Đùa vui dưới nắng hồng
Nhởn nhơ đàn ong bướm
Hương nụ hồng dịu êm
Xuân về bên khung cửa
Dáng em thướt tha mềm
Gởi tình xuân vào nắng
Ánh mắt ngời long lanh
Đôi môi cười em thắm
Giữa đất trời trong xanh.
NHẬT QUANG
Chủ Nhật, 27 tháng 1, 2019
ĐIỂN TÍCH BẰNG TRANH : LIỄU CHƯƠNG ĐÀI - ĐỖ CHIÊU ĐỨC
Chieu Duc <chieuduc15@yahoo.com>
09:22, Th 3, 27 thg 11, 2018
tới tôi
ĐIỂN TÍCH BẰNG TRANH :
LIỄU CHƯƠNG ĐÀI
Chương Đài 章台 là tên của một con đường có lâu đài được xây dựng từ thời Chiến Quốc, nằm ở Cố Thành của Trường An thuộc tỉnh Thiểm Tây ngày nay, nên mượn Chương Đài để ám chỉ Trường An. Còn LIỄU 柳 là Liễu Thị 柳氏, một danh kỷ nổi tiếng của Trường An, nên LIỄU CHƯƠNG ĐÀI hay CHƯƠNG ĐÀI LIỄU 章台柳 đều lời ám chỉ danh kỷ Liễu Thị nổi tiếng ở đất Trường An, như tích sau đây :
Theo Thái Bình Quảng Ký, quyễn 485 : Hàn Hoành 韓翊 thi nhân đời Đường, tự là Quân Bình, người đất Nam Dương, đậu Tiến sĩ năm Thiên Bảo thứ 13 ( 754 ). Làm quan đến chức Trung Thư Xá Nhân, là một trong " Đại Lịch Thập Tài Tử ". Tương truyền ...
Hàn Hoành 韓翊 từ nhỏ đã nổi tiếng giỏi văn thơ, nhưng tính tình trầm lặng ít giao du. Tuy vậy chàng cũng chơi thân với một danh sĩ lại rất giàu sang là Lý Sinh. Lý rất yêu tài thơ văn và xem trọng Hàn Hoành, mới tặng cho chàng ca nhi Liễu Thị, tài sắc vẹn toàn để làm vợ.
Vợ chồng Hàn Hoành rất thương yêu nhau, hay cùng nhau ngâm thơ xướng họa. Tình chồng vợ ân ái khắng khít mặn nồng.
Chẳng bao lâu sau, An Lộc Sơn làm loạn đánh chiếm Trường An và Lạc Dương. Vua quan triều đình phải chạy vào đất Ba Thục. Hàn Hoành lúc đó là thư lại của Tiết Độ Sứ Lỗi Châu, nên không tiện mang theo Hàn Thị. Vợ chồng chia cắt đôi nơi.
Trong thời buổi loạn ly, lại là người có chút nhan sắc, nên Hàn Thị thí phát quy y, gởi thân vào Pháp Linh Tự để giữ tròn danh tiết. Khi loạn An Lộc Sơn đã yên rồi, thì Hàn Hoành cũng nhờ người về Trường An dò la tin tức.
Khi đã biết được tin tức của Liễu Thị rồi bèn nhờ người mang đến cho nàng bài thơ sau đây để bày tỏ nổi lòng :
章台柳,章台柳, Chương đài liễu, Chương đài liễu,
昔日青青今在否? Tích nhật thanh thanh kim tại phủ ?
縱使長條似舊垂, Túng sử trường điều tự cựu thùy,
也應攀折他人手。 Dã ưng phan chiết tha nhân thủ !
Có nghĩa :
Liễu chương đài, Liễu chương đài,
Còn xanh như trước hay đã phai ?
Cành lá vươn dài như xưa cũ,
Hay là đã bẻ vào tay ai ?!
Liễu Thị đọc thơ mà khóc ròng, vừa mừng vừa tủi, bèn làm một bài thơ hồi âm cho chồng như sau :
楊柳枝,芳菲節, Dương liễu chi, phương phi tiết,
所恨年年贈離別。 Sở hận niên niên tặng ly biệt.
一葉隨風忽報秋, Nhất diệp tùy phong hốt báo thu,
縱使君來豈堪折? Túng sử quân lai khởi kham chiết ?
Có nghĩa :
Nhành dương liễu, tiết thơm bay,
Chỉ hận năm năm tặng chia tay.
Gió cuốn lá rơi thu đà tới,
Chàng chưa về đến bẻ cho ai ?!
Hàn Hoành đọc thơ cũng vừa mừng vừa cảm động, nghĩ rằng vợ chồng sẽ đoàn tụ trong nay mai. Nào ngờ có Phiên tướng là Sa Tra Lợi vì giúp bình loạn An Lộc Sơn có công nên cậy thế làm càng, khi nghe Liễu Thị là giai nhân danh kỹ mới đến chùa cướp nàng về làm ái thiếp. Khi về đến Trường An Hàn Hoành mới té ngửa ra.
Lúc bấy giờ có Ngu Hầu là Hứa Tuấn, vốn xuất thân là một hiệp sĩ giang hồ, thấy chuyện bất bình bèn bảo Hàn Hoành viết cho mình một lá thơ để làm tin, rồi lên ngựa phóng thẳng đến phủ Sa tướng quân mà hô hoán lên rằng : " Tướng quân đang bất ngờ nhuốm bịnh ở bên ngoài, nhờ ta đến đón Liễu Thị đến săn sóc cho ngài !" Quân sĩ gát cửa thấy cũng là một võ quan nên tin là thật.
Sau khi đưa thơ của Hàn Hoành cho Liễu Thị xem xong, Hứa Tuấn bèn bóc nàng lên ngựa chạy về giao trả cho Hàn Hoành để vợ chồng được đoàn viên. Cả hai đều rất vui mừng cảm động mà bái tạ Ngu Hầu hiệp sĩ. Sau đó, cả vợ chồng Hàn Hoành và Hứa Tuấn đều rời khỏi trường an, vì sợ Sa tướng quân truy cứu mà trả thù.
Vì văn tài của Tiến sĩ Hàn Hoành rất lớn, nên mấy năm sau nhà vua ban sắc chỉ phong làm Tri Chế Cáo, chuyên lo soạn thảo các sắc lệnh và chiếu chỉ cho nhà vua. Vợ chồng lại một lần nữa hân hoan về lại đất Trường an để an hưởng vinh hoa phú qúy.
Trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du, tả lúc Thúy Kiều đang ở lầu xanh, sau khi đã " Nhớ ơn chín chữ cao sâu, Một ngày một ngã bóng dâu tà tà " thì Thúy Kiều lại :
Nhớ lời hẹn ước ba sinh,
Xa xôi ai có biết tình chăng ai ?
Khi về hỏi LIỄU CHƯƠNG ĐÀI,
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay !
Không có Ngu Hầu Hứa Tuấn nào phi ngựa chạy đến để cứu nàng ra khỏi lầu xanh để trả về cho Kim Trọng cả. Chỉ có gả Sở Khanh càng nhấn cho nàng lún xuống bùn nhơ mà thôi !
Tội nghiệp !
ĐỖ CHIÊU ĐỨC
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)