Góc Việt Thi :
Trạng Trình NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Kỳ nhất
NGUYỄN BỈNH KHIÊM 阮秉謙 (1491-1585) huý là Văn Đạt 文達, tự Hanh Phủ 亨甫, hiệu Bạch Vân cư sĩ 白雲居士, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Xuất thân từ một gia đình trí thức Nho học, cha là Nguyễn Văn Định có văn tài. Mẹ là Nhữ Thị Thục, con thượng thư Nhữ Văn Lan, thông tuệ, giỏi văn chương, am tường lý số. Nguyễn Bỉnh Khiêm thông minh, hiếu học, từ nhỏ đã được mẹ đem thơ quốc âm và kinh truyện ra dạy. Lớn lên, vào Thanh Hoá, theo học bảng nhãn Lương Đắc Bằng, được thầy truyền thụ môn học Dịch lý và sách Thái Ất Thần Kinh. Tuy học giỏi, nhưng lớn lên vào lúc xã hội loạn lạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm ẩn chí, đợi thời, không chịu ra thi. Mãi sau này, Mạc thay Lê, tình hình xã hội ổn định, ông mới ra ứng thí, đậu Trạng Nguyên (1535), rồi làm quan với nhà Mạc, bấy giờ ông đã 45 tuổi. Làm quan ở triều đình được 8 năm (1535-1542), thấy gian thần hoành hành, bè phái, triều chính ngày một xấu thêm, ông dâng sớ xin chém 18 lộng thần, không được chấp nhận, bèn thác cớ xin trí sĩ. Về sau, vì sự ràng buộc của nhà Mạc với các sĩ phu có uy vọng, vì muốn tác động đến thời cuộc, ông trở lại tham gia triều chính với cương vị như một cố vấn. Ông từng theo quân Mạc, đi chinh phạt Vũ Văn Mật, Vũ Văn Uyên. Ông cũng từng bày mưu tính kế giúp Mạc bảo toàn vương nghiệp. Vì thế, hoạn lộ của ông từ Lại bộ Tả thị lang, Đông các đại học sĩ, trải thăng đến Lại bộ Thượng thư, Thái phó, Trình Tuyền hầu, rồi lại gia phong Trình quốc công nên đời thường gọi là Trạng Trình. Mãi đến ngoài 70 tuổi, ông mới thực sự treo xe, treo mũ từ quan.
Thời gian sống ở quê nhà, bên bờ sông Tuyết Hàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm dựng am Bạch Vân, lấy đạo hiệu là Bạch Vân cư sĩ mở trường dạy học, rồi lập quán, xây cầu, dựng chùa, mở chợ, trồng cây... Ông có nhiều học trò nổi tiếng, như Nguyễn Quyện, Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ v.v... người thờ Mạc, người theo Lê, người suốt đời ẩn dật. Ông được người đương thời tôn kính như bậc thầy. Ngoài triều Mạc, họ Trịnh, họ Nguyễn đều có sai sứ đến hỏi ý kiến ông về những việc hệ trọng. Tháng mười một năm Ất Dậu (1585) ông qua đời, hưởng thọ 94 tuổi, học trò truy tôn là Tuyết giang phu tử 雪江夫子.
Tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm có Bạch Vân Quốc Ngữ Thi Tập 白雲國語詩集, Bạch Vân Am Thi Tập 白雲庵詩集 và một số bài văn chữ Hán. Các tập sấm ký như Trình Quốc Công Sấm Ký, Trình Tiên Sinh Quốc Ngữ, v.v... tương truyền là của ông nhưng về mặt văn bản chưa đủ độ tin cậy.
Sau đây là một số bài thơ chữ Hán tiêu biểu của ông trong Bạch Vân Am Thi Tập 白雲庵詩集 :
1. Bài thơ CẢM HỨNG :
- Tương truyền bài thơ này làm ra để tiên đoán việc nhà Lê sẽ trung hưng và nói đến việc họ Trịnh sẽ chuyên quyền lấn áp vua Lê. Những việc của ông tiên đoán đều không sai mảy may.
Inline image
感興 CẢM HỨNG
泰和宇宙不虞周, Thái hòa vũ trụ bất Ngu Chu,
互戰教爭笑兩讎。 Hỗ chiến giáo tranh tiếu lưỡng thù.
川血山骸隨處有, Xuyên huyết sơn hài tùy xứ hữu,
淵魚叢雀為誰驅。 Uyên ngư tùng tước vị thùy khu.
重興已卜渡江馬, Trùng hưng dĩ bốc độ giang mã,
後患應防入室貙, Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu,
世事到頭休說著, Thế sự đáo đầu hưu thuyết trước,
醉吟澤畔任閒遊。 Túy ngâm trạch bạn nhậm nhàn du.
阮秉謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
Inline image
* Chú Thích :
- Thái Hòa 泰和 : Chỉ cảnh sống thật hòa bình không có chiến tranh.
- Ngu Chu 虞周 : NGU là Ngu Thuấn; CHU là nhà Tây Chu, Hai triều đại thái bình thịnh thế của Trung Hoa cổ đại.
- Hỗ Chiến 互戰 : HỖ là Hỗ Tương, là Lẫn nhau, nên Hỗ Chiến là Đánh đấm lẫn nhau.
- Xuyên Huyết Sơn Hài 川血山骸 : XUYÊN là con sông; HÀI là Thi hài; nên XUYÊN HUYẾT là con sông máu; SƠN HÀI là Thi hài như núi. Ta thường nói : Thây người chất thành núi và máu chảy thành sông.
- Uyên Ngư Tùng Tước 淵魚叢雀 : UYÊN là Vực sâu; Tùng là Bụi cây; nên UYÊN NGƯ TÙNG TƯỚC là Cá trong vực sâu và chim sẻ trong bụi rậm.
- KHU 貙 : là người hóa ra cọp. Ở đây mượn ý để chỉ "Rước kẻ dữ vào nhà."
- Trạch Bạn 澤畔 : là Bên đầm nước (Hồ nước nhỏ).
* Nghĩa Bài Thơ :
CẢM HỨNG
Trời đất trong cảnh thái bình thịnh vượng, nhưng sao không giống như thuở đời Chu và Ngu Thuấn. Lại bày trò đánh nhau như hai kẻ thù để làm trò cười cho thiên hạ. Đến nỗi nơi nào cũng có cảnh thây chất thành núi và máu chảy tựa sông cả. Làm cho cá trong vực sâu, chim sẻ trong bụi rậm như bị ai đó đuổi bắt mà không thể sống yên ổn được. Muốn trùng hưng lại triều chính thì phải xua ngựa qua sông, nhưng hậu hoạn phải đề phòng là coi chừng sẽ dẫn cọp vào nhà. Thôi thì chuyện đời khó có thể mà nói trước được, hãy cứ uống rượu ngâm thơ và nhàn du bên bờ hồ cho thỏa thích mà thôi !
* Diễn Nôm :
CẢM HỨNG
Inline image
Thái bình sao chẳng giống Ngu Chu,
Đánh đấm lẫn nhau tựa kẻ thù.
Thây núi máu sông đầy rẫy khắp,
Chim lùm cá vực khó an cư.
Độ mã qua sông trùng hưng lại,
Dẫn cọp vào nhà hậu hoạn hư.
Thế sự đổi thay ai biết được,
Bên hồ thơ rượu cứ nhàn du !
Lục bát :
Thanh bình chẳng giống Ngu Chu,
Đánh nhau dường tựa kẻ thù bao năm.
Thây như núi, máu thành sông,
Cá sông chim bụi cũng không yên nào.
Trùng hưng ngựa vượt chiến hào,
Hậu hoạn dẫn hổ chẳng sao phòng hờ.
Chuyện đời khó nói dường mơ,
Câu thơ bầu rượu vẩn vơ bên hồ !
Đỗ Chiêu Đức
2. Bài thơ CỰ NGAO ĐỚI SƠN :
巨鰲戴山 CỰ NGAO ĐỚI SƠN
Inline image
碧浸仙山徹底清, Bích tẩm tiên sơn triệt để thanh,
巨鰲戴得玉壺生。 Cự ngao đới đắc ngọc hồ sinh.
到頭石有補天力, Đáo đầu thạch hữu bổ thiên lực,
著腳潮無卷地聲。 Trước cước triều vô quyển địa thanh.
萬里東溟歸把握, Vạn lý đông minh quy bả ác,
億年南極奠隆平。 Ức niên nam cực điện long bình.
我今欲展扶危力, Ngã kim dục triển phù nguy lực,
挽卻關河舊帝京。 Vãn khước quan hà cưu đế kinh !
阮秉謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- CỰ NGAO ĐỚI SƠN 巨鰲戴山 : là Con ngao lớn đội núi. NGAO là một loại Ba ba biển lớn. Theo chương Thang Vấn trong sách Liệt Tử chép rằng ở biển Bột Hải có năm ngọn núi là : “Đại Dư” 岱輿, “Viên Kiệu” 員嶠, “Phương Hồ” 方壺, “Doanh Châu” 瀛洲, và “Bồng Lai” 蓬萊. , chân núi không dính vào đâu cả, núi cứ theo nước thuỷ triều mà lên và xuống lênh đênh trên mặt biển. Thượng đế sợ các ngọn núi ấy trôi về Tây cực bèn sai 5 con ngao thần rất lớn lặn xuống lấy đầu đội lên, nên từ đó năm ngọn núi ấy mới đứng vững ở một chỗ.
CỰ NGAO ĐỚI SƠN: ý của Nguyễn Bỉnh Khiêm là muốn làm việc lớn để gánh vác giang sơn như con ngao lớn đội núi đá cho vững để khỏi trôi nổi trên biển vậy.
- Triệt Để 徹底 " là Tới đáy, nên Triệt Để Thanh là Trong thấy đáy.
- Ngọc Hồ 玉壺 : Ở đây không có nghĩa là cái bình bằng ngọc, mà mượn để chỉ cái Đầm Nước nơi ẩn cư.
- Thạch Hữu Bổ Thiên Lực 石有補天力 : là Đá có sức để vá trời. Theo Tam Hoàng Bản Kỷ trong Sử Ký của Tư Mã Thiên : Thời Thượng cổ, hai vị thần nước là Cung Công và thần lửa là Chúc Dung đánh nhau. Đánh mãi không thắng nổi thần Chúc Dung cho nên thần Cung Công nổi giận, lấy đầu húc núi Bất Chu, làm đổ núi ấy khiến cho cột chống trời bị gãy. Nữ thần Nữ Oa, chặt bốn chân con ngao thần làm bốn cực chống cho trời khỏi sụt xuống. Rồi luyện đá ngũ sắc để vá trời.
- Đông Minh 東溟 : chỉ biển Đông Hải.
- Bả Ác 把握 : là Cái Nắm tay. Chuyện cầm chắc trong tay, là chuyên trong khả năng có thể làm được.
- Nam Cực 南極 : chỉ vùng đất cực nam của Trung Hoa là nước Việt Nam ta đó. Ngày xưa đâu có biết có vùng Nam Cực của trái đất bây giờ đâu.
* Nghĩa Bài Thơ :
CỰ NGAO ĐỚI SƠN
Núi tiên ngâm mình trong biển nước biếc trong đến tận đáy. Ta như con ngao lớn có sức gánh vác được sinh ra từ đầm nước nơi đây. Trên đầu có thể làm đá để vá trời, còn dưới chân thì sóng cũng ổn định không có tiếng cuốn đất. Biển đông vạn dặm có thể quy vào trong lòng bàn tay, và trong ức triệu năm có thể ổn định được vùng đất cực nam nầy. Nay ta muốn thi triển cái sức phò nguy cứu khổn của mình, để cứu vãn lấy sơn hà và đế kinh cũ.
Qủa là có chí lớn, muốn phò vua giúp nước, gánh vác giang san để tỏ rõ tài thao lược. Đọc bài thơ nầy làm cho ta nhớ đến bài THUẬT HOÀI của danh tướng Đặng Dung đời Trần với hai câu :
致主有懷扶地軸, Trí chúa hữu hoài phù địa trục,
洗兵無路挽天河. Tẩy binh vô lộ vãn Thiên hà.
Có nghĩa :
Giúp Chúa những toan xoay trục đất,
Giáp binh khó nổi kéo sông trời.
Cả hai đều ôm mộng lớn như nhau, nhưng đều chẳng gặp thời, chẳng thi thố gì được cho cái hoài bão to lớn của mình cả !
* Diễn Nôm :
CỰ NGAO ĐỚI SƠN
Inline image
Núi tiên biển biếc nước trong xanh,
Ngao lớn sinh từ đầm nước thanh.
Đầu cất vá trời thay đá luyện,
Chân chùn sóng nước đất yên lành.
Biển Đông ngàn dặm trong tầm nắm,
Nam Cực muôn năm sẽ thái bình.
Ta muốn phù nguy thi triển sức,
Phục hồi sông núi vững kinh thành !
Lục bát :
Núi tiên nước biếc biển trong,
Sinh từ đầm nước ngao mong đổi đời.
Cất đầu thay đá vá trời,
Xoạt chân sóng vổ ngàn khơi đất lành.
Biển đông tay nắm rành rành,
Nam cực vùng đất yên lành muôn năm.
Phò nguy thử sức anh hùng,
Vãn hồi sông núi góp công kinh thành.
Đỗ Chiêu Đức
3. Bài thơ ĐÔNG CÚC :
冬菊 ĐÔNG CÚC
一種延年館裡栽, Nhất chủng diên niên quán lý tài,
晚香獨向雪中開。 Vãn hương độc hướng tuyết trung khai.
莫笑爭芳時太晚, Mạc tiếu tranh phương thời thái vãn,
先春肯讓一枝梅。 Tiên xuân khẳng nhượng nhất chi mai !
阮秉謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
Inline image
* Chú Thích :
- Đông Cúc 冬菊 : Cúc mùa đông; thay vì THU CÚC 秋菊 là cúc nở vào mùa thu, thì bài nầy là ĐÔNG CÚC có thể đây là hoa cúc nở muộn.
- Diên Niên 延年 : là Kéo dài suốt cả năm.
- Vãn Hương 晚香 : là Mùi hương muộn màng.
- Mạc Tiếu 莫笑 : là Chớ cười, chớ nhạo.
- Tranh Phương 爭芳 : là Tranh cái thơm cái đẹp. Đây là từ chỉ dành riêng cho Hoa và phái Nữ.
- Khẳng Nhượng 肯讓 : là Chịu nhường, là Chi nhường, là "Chưa chắc đã chịu nhường".
* Nghĩa Bài Thơ :
Cúc Mùa Đông
Đây là loại hoa được trồng quanh năm trong thư quán; Mùi hương muộn màng chỉ nở ra khi tuyết bắt đầu rơi. Chớ có cười nhạo là sao tranh thơm tranh đẹp muộn màng thế. Vì trước khi mùa xuân đến chưa chắc ta đã chịu nhường cái thơm cái đẹp nầy cho hoa mai đâu !
Tả hoa cúc, nhưng suốt bài thơ không có từ nào nhắc đến chữ CÚC cả !
Hoa Cúc là loại hoa thanh nhã cao khiết chỉ nở vào mùa thu trong gió thu hiu hắt, nổi tiếng nhờ có thể ũ thành Cúc tửu, gọi là Hoàng Hoa Tửu và nhất là được danh sĩ Đào Tiềm đời Tấn trồng khi ở ẩn, với các câu thơ : Thái cúc đông ly hạ, du nhiên kiến nam sơn 採菊東籬下,悠然見南山. Có nghĩa : "Hái cúc dưới giậu bờ đông, Xa xa ẩn hiện chập chùng Nam sơn". Cúc vốn chịu lạnh, nên hoa cúc nở kéo dài cho đến mùa đông, khi mai sớm đã bắt đầu khai nhụy. Và màu vàng của hoa cúc há dễ chiụ nhường cho màu vàng của hoa mai hay sao ?!
* Diễn Nôm :
ĐÔNG CÚC
Inline image
Quanh năm trong quán được vun trồng,
Nở muộn hương nồng lúc tuyết đông.
Chớ nhạo muộn màng khoe sắc thắm,
Trước xuân chi chịu kém mai đông.
Lục bát :
Vun trồng trong quán quanh năm,
Nở ra trong tuyết âm thầm tỏa hương.
Chớ cười nở muộn tranh phương,
Đầu xuân há đã chịu nhường hoa mai.
Đỗ Chiêu Đức
4. Bài thơ HẠ CẢNH :
夏景 HẠ CẢNH
日長賓館小窗明, Nhật trường tân quán tiểu song minh,
風納荷香遠益清。 Phong nạp hà hương viễn ích thanh.
無限吟情誰會得? Vô hạn ngâm tình thùy hội đắc ?
夕陽樓上晚蟬聲! Tịch dương lâu thượng vãn thiền thanh !
阮秉謙 Nguyễn Bĩnh Khiêm
Inline image
* Chú Thích :
- Tân Quán 賓館 : TÂN là Khách. TÂN QUÁN là Quán dịch nơi tiếp đón các quan viên vãng lai khi thuyên chuyển hay công vụ.
- Tiểu Song 小窗 : là Cái cửa sổ nhỏ.
- Hà Hương 荷香 : HÀ là Hoa sen, nên Hà Hương là Hương thơm của hoa sen.
- Thanh 清 : THANH có 3 chấm thủy 氵nên có nghĩa là Trong; nhưng ở đây chỉ muì hương của hoa sen, nên VIỄN ÍCH THANH 遠益清 có nghĩa là : Càng xa thì mùi hương sen càng thoang thoảng hơn.
- Ngâm Tình 吟情 : là Cái tình cảm ngâm nga trong thi phú, tức là cái HỒN THƠ, cái NÊN THƠ của cảnh trí đó vậy.
- Thiền Thanh 蟬聲 : là Tiếng Ve kêu.
* Nghĩa Bài Thơ :
Cảnh Mùa Hè
Ngày dài dằng dặc trong dịch quán tiếp tân xuyên qua cái cửa song sáng trưng nho nhỏ, Gió đưa mùi hương của hoa sen càng xa lại càng thoang thoảng hơn lên. Ai biết được cảnh trí lại càng nên thơ hơn khi đứng trên lầu cao nhìn nắng chiều nghiêng chiếu mà nghe tiếng ve ngâm tỉ tê trong buổi chiều tà nầy.
Đọc bài thơ nầy của cụ Nguyễn Bĩnh Khiêm làm cho ta lại nhớ đến hai câu thơ trong bài Thu Từ 秋詞 của Lưu Vũ Tích đời Đường như sau :
晴空一鶴排雲上, Tình không nhất hạc bài vân thượng,
便引詩情到碧霄。 Tiện dẫn THI TÌNH đáo bích tiêu.
Có nghĩa :
Cánh hạc vút lên mây xanh ngắt,
HỒN THƠ theo vút tận trời cao.
Inline image
Cảnh trí quả thật nên thơ biết bao nhiêu !
* Diễn Nôm :
CẢNH HÈ
Inline image
Dịch quán ngày dài song cửa sáng,
Hương sen nhẹ thoảng gió hiu hiu.
Nên thơ cảnh trí nào ai biết ?
Vẳng tiếng ve ngâm giữa nắng chiều !
Lục bát :
Cửa song dịch quán ngày dài,
Hương sen theo gió thoảng bay ngoài đồng.
Nên thơ cảnh đẹp biết không ?
Nắng chiều nghiêng bóng ve ngâm vang lầu !
Đỗ Chiêu Đức
5. Bài thơ KHUÊ TÌNH :
閨情 KHUÊ TÌNH
吟落西風陣陣吹, Ngâm lạc tây phong trận trận xuy,
深閨兒女獨眠時。 Thâm khuê nhi nữ độc miên thì.
忽聞寒氣侵簾幕, Hốt văn hàn khí xâm liên mạc,
始覺人情有別離。 Thủy giác nhân tình hữu biệt ly.
去夢不辭沙塞遠, Khứ mộng bất từ sa tái viễn,
憂懷還動鼓鼙思。 Ưu hoài hoàn động cổ bề ti.
無端點滴階前雨, Vô đoan điểm trích giai tiền vũ,
自有幽人語夜遲。 Tự hữu u nhân ngữ dạ trì.
阮秉謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
Inline image
* Chú Thích :
- Khuê Tính 閨情 : là Tâm tình của kẻ ở chốn khuê phòng.
- Tây Phong 西風 : Gió tây là gió của mùa thu, trời đã bắt đầy se lạnh.
- Liêm Mạc 簾幕 : là Rèm màn che song cửa.
- Sa Tái 沙塞 : là Vùng sa mạc ngoài biên ải xa xôi.
- Ưu Hoài 憂懷 : là Nỗi lòng ưu tư lo lắng.
- Cỗ Bề 鼓鼙 : là Tiếng trống trận.
- Vô Đoan 無端 : như Vô tình, vô tâm, khi khổng khi không.
- U Nhân 幽人 : là Con người cô đơn vắng vẻ !
* Nghĩa Bài Thơ :
KHUÊ TÌNH
Như tiếng ngâm thơ lạc theo từng trận gió tây hiu hắt, cũng là lúc cô gái trong chốn khuê phòng đang ngủ có một mình. Bất giác cô cảm nhận được cái hơi lạnh đang xâm nhập qua rèm sáo bên song cửa, và cô chợt hiểu ra cái ấm lạnh của tình người trong cơn ly biệt. Dõi theo hồn mộng không ngại vùng sa mạc biên ải xa xôi, mối ưu tư trong lòng còn vang như hồi trống trận. Mặc cho từng giọt từng giọt mưa rơi hờ hững trước thềm, như có người u uẩn nào đó đang thủ thỉ suốt đêm dài.
Qủa là mối cảm tình da diết của người thiếu nữ đang xuân phải chịu cảnh phòng không chiếc bóng để nhớ thương về nơi quan ải xa xăm, nơi gió cát mịt mùng trong tiếng trống trận vang vang... trong đêm mưa dai dẳng bên thềm suốt đêm rả rít như kể lể nỗi niềm tâm sự.
* Diễn Nôm :
KHUÊ TÌNH
Inline image
Như tiếng ngâm theo trận gió tây,
Cô miên nhi nữ suốt canh chầy.
Bỗng nghe màn sáo tràn hơi lạnh,
Mới biết chia ly thổn thức đầy.
Theo mộng chẳng nề quan ải cách,
Ngoài biên còn ngại trống quân rây.
Hững hờ rả rít cơn mưa tối,
Thủ thỉ canh trường dạ khó khuây !
Lục bát :
Gió tây hiu hắt từng hồi,
Phòng khuê thiếu nữ bồi hồi cô miên.
Bỗng nghe hơi lạnh tràn hiên,
Mới hay ly biệt nên tình xót xa.
Mộng theo biên tái quan hà,
Ưu tư trống trận tù và thúc quân.
Bên thềm rả rít mưa nhuần,
Như than như vản thì thầm suốt đêm !
杜紹德
ĐỖ CHIÊU ĐỨC
Mời xem tiếp Kỳ Nhị !