Nhà văn KIM DUNG
Tạp Ghi và Phiếm Luận :
HƯ CẤU trong võ hiệp KIM DUNG (1)
Ai cũng biết truyện võ hiệp của Kim Dung đều toàn là những câu truyện HƯ CẤU, nhưng sao tất cả mọi người già trẻ lớn bé, bất kể sang hèn nam nữ, từ bình dân đến trí thức đều mê như điếu đổ. Truy nguyên, ta sẽ thấy được những HƯ CẤU của Kim Dung đều dựa vào những thực tế của cuộc sống hằng ngày, của tâm lý tình cảm chân thật của con người, của những sự kiện lịch sử có thật kết hợp với những dã sử trong dân gian, những phong tục tập quán của từng địa phương hòa vào trong các tình tiết khúc chiết ly kỳ gây cấn để hấp dẫn người đọc bằng lối kể truyện vừa bình dân vừa bác học, vừa chất phác vừa văn chương, vừa xen vào cái không khí trinh thám như của Sherlock Holmes... Tất cả Lịch sử, Địa lý, Chính trị, Văn hóa, văn chương, tâm lý tình cảm của con người, tất cả tất cả... hòa quyện vào nhau trong câu truyện VÕ HIỆP HƯ CẤU một cách tài tình hợp lô-gích và phù hợp với cuộc sống thực tại của con người !
Trước tiên xin được điểm qua vài nét về mặt văn chương văn học trong truyện Võ Hiệp của Kim Dung :
Trong truyện "Thiên Long Bát Bộ 天龍八部 (1963-1966)". Khi Đoàn Dự bị nhà sư Thổ Phồn Cưu Ma Trí bắt đem về xứ Giang nam để tế sống trước mộ của Mộ Dung Bác, vì chàng ta thuộc lòng hết khẩu quyết của Lục Mạch Thần Kiếm. Đến xứ Giang nam vào môt buổi chiều xuân tươi đẹp với sóng nước lăn tăn, với liễu xanh rũ bóng bên bờ, với cỏ non xanh rợn chân trời xa xa là xóm nhà thấp thoáng với những hoa hạnh bay là đà trong ánh nắng chiều. Trước cảnh đẹp của Giang nam mà ở Đại Lý chưa từng thấy qua, chàng thư sinh Vương tử Đoàn Dự nổi hứng cất giọng ngâm :
波渺渺,柳依依; Ba miểu miểu, liễu y y;
孤村芳草遠, Cô thôn phương thảo viễn,
斜日杏花飛。 Tà nhật hạnh hoa phi !
Có nghĩa :
Sóng lăn tăn, liễu thướt tha,
Cỏ non xanh biếc xóm xa ,
Hạnh hoa theo nắng là đà bay bay !
Khiến cho nhà sư Cưu Ma Trí cũng phải bật cười mà nói rằng :"Chết đến nơi, bộ vui lắm sao mà còn ngâm thơ nữa ?!"
Ba miểu miểu, Liễu y y...
Lúc nhỏ khi đọc đến đây, tôi cứ ngỡ là thơ của "Kim Dung làm cho Đoàn Dự ngâm"; đến lúc học về văn học cổ thì mới biết rằng đây là bài TỪ "Ba Miểu Miểu" trong từ điệu "Giang Nam Xuân" của Khấu Chuẩn 寇準的"江南春·波渺渺". Khấu Chuẩn (961-1023) là nhà văn nhà thơ đời Bắc Tống, đậu Tiến sĩ năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 5, làm quan đến chức Thừa tướng. Bài từ trên của ông, nhà văn Kim Dung trích còn thiếu 2 câu. Cả bài như sau :
波渺渺,柳依依; Ba miểu miểu, liễu y y;
孤村芳草遠, Cô thôn phương thảo viễn,
斜日杏花飛。 Tà nhật hạnh hoa phi !
江南春盡離腸斷, Giang Nam xuân tận ly trường đoạn,
苹滿汀洲人未歸。 Bình mãn đinh châu nhân vị quy !
Có nghĩa :
Sóng lăn tăn, liễu thướt tha,
Cỏ non xanh biếc xóm xa ,
Hạnh hoa theo nắng là đà bay mau.
Giang Nam xuân hết lòng đau,
Bèo đầy bến bãi người sao chưa về !
Kim Dung đã trích rất khéo vì 2 câu sau không ăn với hoàn cảnh của Đoàn Dự lúc bấy giờ.
Còn trong truyện "Anh Hùng Xạ Điêu" , tức "Xạ điêu anh hùng truyện 射鵰英雄傳 (1957-1959)", xem phim thì không có, nhưng nếu xem truyện, chúng ta sẽ đọc thấy...
... Khi bị Thiết Chưởng Thủy Thượng Phiêu Cừu Thiên Nhận đánh cho một thiết chưởng thừa sống thiếu chết, Hoàng Dung phải nhờ Quách Tĩnh cỏng đi tìm người trị thương. Được sự chỉ điểm của Thần Toán Tử Anh Cô, đi tìm Đoàn Nam Đế nhờ ngài dùng Nhất Dương Chỉ để trị thương cho Hoàng Dung. Vì mỗi lần dùng Nhất Dương Chỉ để trị thương cho ai, thì Đoàn Nam Đế phải mất hết công lực, sau 3 năm mới phục hồi lại được, cho nên các học trò của ngài là Ngư, Tiều, Canh và Độc có ý ngăn cản không cho Quách Tĩnh và Hoàng Dung lên núi. Từ chân núi đến đỉnh núi, Ngư Tiều Canh Độc 魚,樵,耕,讀 chia làm 4 trạm để cản trở, khó khăn lắm mới vượt qua được 3 trạm Ngư, Tiều và Canh.... Bây giờ tới trạm cuối cùng của ông ĐỘC nhé !...
Thấy Hoàng Dung giỏi văn thơ và đã lên tiếng chê trách là ông chỉ đọc sách như vẹt, chứ không hiểu hết ý nghĩa của Thánh hiền, qua câu chuyện : Khi nghe ông Độc đọc một câu trong sách Luận ngữ là : "Mạc xuân dã, xuân phục ký thành, quan giả ngũ lục nhân, đồng tử lục thất nhân, dục hồ Nghi, phong hồ Vũ Vu, vịnh nhi qui...末春也,春服既成,冠者五六人,童子六七人, 浴乎宜,風乎宇于,咏而歸...". Có nghĩa ; Vào cuối xuân, quần áo mùa xuân đã may xong, năm sáu người lớn, sáu bảy trẻ nhỏ, tắm ở dòng sông Nghi, hứng gió ở đền Vũ Vu, rồi hát mà về...(tả cảnh sống thanh bình vui vẻ, tự do tự tại của dân chúng trong buổi đầu xuân)... mà hỏi ông rằng : "Ông đọc sách Thánh hiền, mà có biết Bảy Mươi Hai người thành đạt 七十二賢 (thất thập nhị hiền) trong số 3 ngàn học trò của Không Tử, là : Có bao nhiêu người già, bao nhiêu người trẻ không ? Ông Độc suy nghĩ mãi không ra , sách chỉ nói Thất thập nhị Hiền, chứ đâu có nói gì đến già trẻ đâu. Hoàng Dung mới cười ông , và đem câu Luận ngữ mà ông vừa đọc ở trên để giải thích như thế nầy : Quan giả là người đội mũ, là người lớn, ngũ lục nhân, năm sáu người, 5 lần 6 là 30 người. Đồng tử là con nít là người trẻ, lục thất nhân, sáu bảy người, 6 lần 7 là 42 người. 30 cộng với 42, chẳng phải 72 là gì ? Cho nên tôi nói ông chỉ đọc sách như vẹt, chứ không hiểu hết ý nghĩa sâu xa ở bên trong là vậy đó !". Thấy Hoàng Dung mặc dù ngụy biện, lấy câu sách mình vừa đọc để mắng mình, nhưng cũng phải phục tài thông minh, cơ trí của cô ta, nên định thử xem con bé nầy giỏi tới đâu...
Đầu tiên, ông ta đọc một bài thơ, cho Hoàng Dung đoán lý lịch của mình (đây là một cách chơi chữ bằng cách đố chữ rất lý thú để cho người ta đoán). Bài thơ như sau :
Lục kinh uẩn tịch hung trung cửu, 六經蕴籍胸中久,
Nhất kiếm thập niên ma tại thủ. 一剣十年磨在手.
Hạnh hoa đầu thượng nhất chi hoành, 杏花頭上一枝横,
Khủng tiết thiên cơ mạc lộ khẩu. 恐泄天機莫露口.
Nhất điểm luy luy đại như đấu, 一点畾畾大如斗,
Giảm khước bán sàng chung sở hữu. 减却半牀终所有.
Hoàn danh trực đãi quải quan quy, 完名直待挂冠歸,
Bản lai diện mục quân tri phủ ? 本来面目君知否?
* LỤC KINH 六經 : gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Nhạc, Kinh Xuân Thu《詩》《書》《禮》《易》《樂》《春秋》. Đến đời Tống "Kinh Lễ và Kinh Nhạc" được nhập lại thành một, gọi là "Kinh Lễ Nhạc", nên chỉ còn có NGŨ KINH mà thôi. Ta hay nghe nói TỨ THƯ NGŨ KINH 四書五經 là vì thế !
Bài thơ có nghĩa :
Sáu bộ kinh sách đã nung nấu trong lòng từ lâu và trong tay mười năm nay đã luôn mài một lưỡi gươm. Trên đầu hạnh hoa có một cành ngang, sợ để lộ thiên cơ nên đừng mở miệng. Một chấm to lớn như là cái đấu, sẽ có được khi đã giảm nửa sàng. Công thành danh toại nên muốn cáo lão về quê, gốc gác mặt mũi của ta, bạn đã biết rồi chưa ?
Hoàng Dung nghe xong, bèn lập lại hai câu đầu "Lục kinh uẩn tịch hung trung cửu, Nhất kiếm thập niên ma tại thủ" là : Lục kinh đã thuộc nằm lòng, lại mười năm mài một lưỡi gươm, Quả là văn võ song toàn. Chữ lục 六 thêm chữ nhất 一 trong chữ "nhất kiếm" và chữ thập 十 trong chữ "thập niên", gộp lại thành chữ Tân 辛. Trên đầu chữ Hạnh 杏 thêm một gạch ngang , và ở phía dưới bỏ đi chữ khẩu (mạc lộ khẩu 口) còn lại là chữ Mùi 未. "Nhất điểm" là một chấm ở trên chữ "đại" là chữ Khuyển 犬, giảm khước là giảm đi phân nữa chữ sàng 牀, tức là bỏ chữ mộc 木 đi, thêm chữ khuyển 犬 vào, sẽ thành chữ Trạng 狀. Cuối cùng, chữ "hoàn danh", Hoàn 完 mà "quải quan" là treo nón, bỏ cái nón ra, chữ Hoàn chỉ còn lại có chữ Nguyên 元. Nhập kết quả của bảy câu lại thành ra 4 chữ : Tân Mùi Trạng Nguyên 辛未狀元, Câu chót "Bản lai diện mục quân tri phủ? " là : "Mặt mũi vốn có của ta, cô đã biết hay chưa?" À, thì ra ông xuất thân là Trạng Nguyên đậu năm Tân Mùi, Xin kính chào Ngài Trạng Nguyên ạ !
Tranh và tạo hình của Ngư, Tiều, Canh, Độc qua phim
Ông Độc rất phục cái thông minh, tài trí của Hoàng Dung, nhưng ông vẫn phải làm khó, vì nếu để cho sư phụ của mình là Đoàn Nam Đế trị thương cho Hoàng Dung thì ông ta phải chịu mất hết công lực trong 3 năm, mà trước mắt ông ta đang gặp phải cường địch. Vì vậy, ông Độc bắt Hoàng Dung phải đối thêm 2 câu đối nữa, nếu đối được mới cho vào. Câu thứ nhất, vế ra của Ông như sau :
Phong bãi tông lư, thiên thủ Phật dao triệp điệp phiến,
風 摆 棕 梠 ,千 手 佛 摇 槢 叠 扇,
Có nghĩa :
Gió đưa các nhánh cọ (như cây thốt nốt xòe các nhánh như lá dừa), giống như là ông Phật ngàn tay đang phe phẩy quạt.
Vế ra hay quá, lại rất tượng hình, muốn đối lại không khó, nhưng muốn đối cho hay thì... Chợt Hoàng Dung nhìn thấy một cọng sen vương cao lên trong hồ, bèn xúc cảnh sinh tình mà đối ngay rằng :
Sương điêu hà diệp, độc cước quỷ đái tiêu dao cân.
霜 凋 荷 叶, 独 脚 鬼 戴 逍 遥 巾.
Có nghĩa :
Sương thu làm héo úa lá sen, trông giống như con quỷ một giò đội khăn tiêu dao.
Bấy giờ trời đã vào buổi tàn thu, sen trong đầm đà tàn tạ, một cọng sen vương cao lên, lá sen bên trên bị sương thu nên héo úa đen đúa rũ xuống, trông tựa như người đang đội khăn, ông Độc đang đội khăn Tiêu Dao, khăn của thư sinh ngày xưa, bây giờ bị Hoàng Dung diễu là "Con quỷ một giò đội khăn tiêu dao", để đối lại với "Ông Phật ngàn tay đang phe phẩy quạt". Đối khéo và hay quá, lại còn mắng mình là "con quỷ một giò" nữa chớ !. Nhưng vẫn không chịu thua, ông tiếp tục moi ra câu đối hóc búa mà ngày xưa thầy ông đã ra cho ông khi còn đi học, và mãi cho đến nay mặc dù đã đậu Trạng Nguyên mấy chục năm rồi ông vẫn chưa đối lại được. Câu đối đó như sau :
Cầm Sắt Tì Bà bát đại vương, nhất ban đầu diện ,
琴 瑟 琵 琶 八 大 王, 一 般 頭 面.
Có nghĩa :
"Cầm sắt tì bà" (là 4 loại nhạc cụ) , mỗi chữ trên đầu đều có 2 chữ VƯƠNG 王, nên gọi là bát đại vương 八大王, "Nhất ban đầu diện" là mặt mũi đều giống nhau, vì 2 chữ vương của mỗi chữ đều nằm ở phần trên đầu.
Vế ra quả là hóc búa, trong một lúc muốn đối cho chỉnh không phải là dễ. Nhưng Hoàng Dung lại rất thông minh dĩnh ngộ, lại đúng ngay tình cảnh mình đang gặp trước mắt, nên nàng bèn cất tiếng đối ngay :
Si Mị Võng Lượng tứ tiểu quỷ, các tự đỗ trường .
魑 魅 魍 魉 四 小 鬼, 各 自 肚 腸.
Có nghĩa :
"Si mị võng lượng" là 4 loài tiểu quỷ ở trong núi, chuyên phá phách người đi đường, "các tự đỗ trường" là mỗi con bụng dạ đều khác nhau. Câu đối thật khéo, thật chỉnh, "Cầm sắt tì bà" đối với "Si mị võng lượng", "Bát đại vương" đối với "Tứ tiểu quỷ", "Nhất ban đầu diện" đối với "Các tự đỗ trường". Vì phần trong của 4 chữ QUỶ 鬼 là 4 bộ khác nhau. Câu đối còn hay ở chỗ, vừa đối chỉnh lại vừa mượn ý câu đối mà mắng 4 ông Ngư Tiều Canh Độc là "Tứ tiểu quỷ" , mỗi người một bụng dạ khác nhau, như 4 con quỷ núi đều tìm cách ngăn chặn không cho Quách Tĩnh và Hoàng Dung lên núi...
Cầm sắt tì bà... Si mị võng lượng
Đến nước nầy, Ông Độc cũng phải chịu Hoàng Dung là giỏi và để cho 2 người lên núi trị thương...
Riêng tôi, thì tôi không biết là Hoàng Dung giỏi cở nào, chứ KIM DUNG thì quả nhiên giỏi thiệt, chả trách mọi người đều mê đọc truyện của ông ta, già mê theo già, trẻ mê theo trẻ, trí thức mê theo trí thức, bình dân mê theo bình dân... Quả thật là Ông Thần của tiểu thuyết Võ Hiệp Trung Hoa. Chả trách ở Trung Quốc có thành lập một tổ chức gọi là : Kim Dung Học, để chuyên nghiên cứu về 15 bộ tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung về tất cả các mặt tâm lý, tình cảm, triết học, lịch sử, đia lý...
Thực ra theo "Cổ kim đàm khái, Đàm tư bộ 古今譚概·談資部" của Phùng Mộng Long 馮夢龍 đời Minh thì đây là câu đối của một Đường Cao 唐皋 Trạng nguyên đời nhà Minh khi đi sứ sang nước Cao Ly. Chúa Cao ly ra câu đối thử tài là : Cầm Sắt Tì Bà bát đại vương, nhất ban đầu diện 琴瑟琵琶八大王,一般頭面. Trạng bèn đối lại là : Si Mị Võng Lượng tứ tiểu quỷ, các tự đỗ trường 魑魅魍魉四小鬼, 各 自肚腸. Chúa Cao Ly kinh ngạc khen hay.
Lại có thuyết cho là khi liệt cường xâu xé Trung Hoa, trong Bát quốc Liên quân có người giỏi tiếng Hoa muốn làm nhục triều đình Mãn Thanh đã ra câu đối hóc búa sau đây :
騎奇馬,張長弓,琴瑟琵琶八大王王王在上,單戈作戰。
Kỵ kỳ mã, trương trường cung, cầm sắt tì bà bát đại vương,
vương vương tại thượng, đơn qua tác chiến.
Có nghĩa :
Cởi ngựa lạ, giương cung dài, cầm sắt tì bà tám đại vương, mỗi vị vương đều ở trên, đơn thương tác chiến. Vế ra nầy hóc búa ở chỗ, ngoài Cầm Sắt Tì Bà Bát Đại Vương... lắt léo như đã nói ở trên, thì :
Chữ KỲ 奇 đặt sau chữ MÃ 馬 là chữ KỴ 騎;
Chữ CUNG 弓 đặt trước chữ TRƯỜNG 長 thành chữ TRƯƠNG 張.
Chữ QUA 戈 ghép sát lại với chữ ĐƠN 單 thành chữ CHIẾN 戰.
Lúc đó trong đám quan viên của Thanh Triều, có một người đứng ra đối lại rằng :
偽為人,襲衣衣,魅魑魍魎四小鬼鬼鬼犯邊,合手即拿。
Ngụy vi nhân, tập long y, Si mị võng lượng tứ tiểu qủy,
qủy qủy phạm biên, hiệp thủ tức nã.
Có nghĩa :
Làm người ngụy, trộm áo rồng, Si mị võng lượng bốn qủy nhỏ, qủy nào cũng muốn phạm biên cượng nắm tay lại là sẽ bắt lấy. Vế đối cũng có các chữ :
Chữ VI 為 đặt sau chữ NHÂN 人 là chữ NGỤY 偽;
Chữ Y 衣 đặt dưới chữ LONG 衣 là chữ TẬP 襲.
Chữ HIỆP 合 đặt trên chữ THỦ 手 là chữ NÃ 拿.
Câu đối hay ở chỗ Bát Quốc Liên Quân đến xâu xé Trung Hoa là Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Nga, Nhật, Áo, Ý 英、美、法、德、俄、日、奧、意 xưng là "Bát Đại Vương" là "Tám ông vua lớn", thì bị gọi lại là "Tứ Tiểu Qủy" là "Bốn con qủy nhỏ". "Cởi ngựa lạ, giương cung dài, ngồi trên mà chiến đấu", thì được đối lại là "Ngụy quân tử, trộm áo vua, đến để xâm lấn biên cương"...
Nhưng trên đây chỉ là truyền thuyết, không có trong chính sử. Kim Dung đã khéo lượm lặt những giai thoại trong dân gian rồi ghép vào cho những nhân vật võ hiệp Hư Cấu của mình cho câu truyện thêm phần ly kỳ hấp dẫn và lý thú hơn mà thôi.
Hẹn bài viết tới !
杜紹德
ĐỖ CHIÊU ĐỨC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét