CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2025

NỬA HỒN - THƠ LÊ KIM THƯỢNG

 


NỬA  HỒN

 

1. 

 

Nhớ ngày thưở ấy… “Ngày xưa…”

Chung trường, chung lớp… tuổi vừa biết yêu

Thương ngày nắng sớm, mưa chiều

Ngày thơ, ngày mộng, dáng Kiều lung linh

Trao nhau những nụ hôn tình

Nắng soi mặt nước in hình đôi ta

Tình yêu chắp cánh bay xa

Vòng tay ôm ấp, ngày qua, ngày ngày

Người yêu như thể người say

Men tình chuếnh choáng, ngất ngây miệt mài

Yêu người mới biết nhớ hoài

Yêu người mới biết ngày dài quạnh hiu

Trong vòng tay ấm hương yêu

Lời tình thủ thỉ, cho nhiều thiết tha

Hoàng hôn tắt nắng đường xa

Bước về không nỡ… ơi ta… ơi mình…

 

2. 

 

Yêu nhau một thưở cũng đành

Miễn là thưở ấy chân thành đậm sâu

Không còn trẻ để với nhau

Không em chua xót thương đau nửa hồn

Em xưa giờ đã theo chồng

Tôi còn giữ mãi tấm lòng xót xa

Mùa qua, rồi lại năm qua

Thương nhau đứt ruột nói ra chạnh lòng

Trăm năm tôi vẫn ngóng trông

Trăm năm một hướng vẫn không đổi chiều

Nhớ buồn vui một thời yêu

Nỗi đau hóa đá lắm điều chông gai

Nhớ em nỗi nhớ lâu dài

Cồn cào, tha thiết, u hoài, lặng im

Nhớ hai mảnh vở trái tim

Để tôi thương tiếc đi tìm… nửa kia…


                       

              Nha Trang, tháng  10. 2025

                  LÊ KIM THƯỢNG      


Thứ Năm, 30 tháng 10, 2025

VĂN HOÁ LÀNG CÁC DÂN TỘC MIỀN NÚI QUẢNG NAM - HỒ TỊNH

 


     VĂN HÓA LÀNG CÁC DÂN TỘC MIỀN NÚI QUẢNG NAM 

Miền núi Quảng Nam là địa bàn cư trú của các tộc người Cơ Tu, Ca Dong (thuộc nhóm Xê Đăng), Cor, Gié – Triêng. Đối với cư dân miền núi Quảng Nam, cũng như các dân tộc thiểu số cư trú dọc Trường sơn và Tây Nguyên, xưa kia dường như không có khái niệm về ranh giới hành chính xã, huyện, tỉnh, thậm chí cả ranh giới quốc gia, mà chỉ có khu vực cư trú của từng tộc người. Tổ chức xã hội cao nhất của cư dân miền núi lúc bấy giờ là làng, người Cơ Tu gọi là Vêêl, Bươl, Kr’non; người Ca Dong, người Cor gọi là Plơi. Làng dân tộc miền núi không có nơi ở cố định, sau vài mùa trồng tỉa, đất đai không còn màu mỡ, người ta phải tìm nơi khác để đốt nương phát rẫy, khi rẫy mới quá xa nơi ở, phải dời cả làng theo để gần rẫy mới; lúc trong làng có bệnh dịch, có người chết dữ cũng dời làng đi nơi khác, từ đó hình thành tập quán du canh du cư.

Ở miền núi rất khó chọn nơi bằng phẳng để làm nhà, do vậy qua kinh nghiệm dân gian, những ngôi nhà sàn là kiểu kiến trúc phù hợp với mọi địa hình. Ở nhà sàn vừa phòng tránh được thú dữ, bếp lửa giữa nhà có thể sưởi ấm người ta trong những đêm giá rét… Các loại vật liệu để làm nhà như tranh, tre, nứa lại rất dễ tìm ở rừng núi. Như vậy thói quen ở nhà sàn xuất phát từ yêu cầu thích nghi với điều kiện tự nhiên của con người. Xưa kia, để tiện cho sinh hoạt cộng đồng và dễ dàng tương trợ nhau, nhiều gia đình người dân miền núi vùng Trường Sơn – Tây Nguyên thường sống chung trong một ngôi nhà dài, cửa ra vào trổ ở hai đầu hồi, ở giữa là lối đi, hai bên chia ngăn riêng cho từng hộ, mỗi ngôi nhà có thể chứa hàng chục gia đình, chỉ cần vài ngôi nhà dài là đủ chỗ ở cho cả làng. Dần dần về sau người ta tách ra làm những ngôi nhà riêng cho từng gia đình. Ngày xưa, làng các dân tộc thiểu số có tính độc lập và tự quản cao. Địa phận mỗi làng được phân định bằng ranh giới tự nhiên như con suối, cánh rừng, đỉnh núi… Mỗi làng có một nguồn nước sạch để dùng chung, có nơi chăn thả gia súc, khu nghĩa địa trong rừng, vùng rừng núi để săn bắn và hái lượm, những nương rẫy để các thành viên trong làng canh tác… Đứng đầu làng là một chủ làng, đó là người có uy tín, có đạo đức, mẫu mực, am hiểu nhiều tri thức bản địa, nắm vững luật tục, tập quán của dân tộc, được mọi thành viên trong làng nể phục bầu lên. Bên cạnh chủ làng có hội đồng già làng, gồm những người lớn tuổi có uy tín trong các gia đình trong làng, khi chủ làng muốn đưa ra một quyết định, một phán quyết nào đó thì phải được sự thống nhất của hội đồng già làng… Tất cả dân làng phải tôn trọng và tuân theo các quyết định, phán quyết đó. Chủ làng và hội đồng già làng có vai trò quyết định mọi việc trong việc quản lý cộng đồng.

Người Cơ Tu sống quây quần thành từng làng nhỏ. Tùy theo địa hình của khu đất, làng Cơ Tu thường bố cục thành vòng hình tròn hoặc bầu dục, ở giữa là một ngôi nhà chung gọi là Gươl – dùng làm nơi sinh hoạt cộng đồng và tiếp khách. Gươl được xây dựng bằng vật liệu của núi rừng như gỗ, tre, lá nón, lá tranh… Sàn Gươl cao cách mặt đất khoảng 1,5m đến 2m, cầu thang gỗ đặt ở chính giữa hoặc 2 đầu hồi. Bên trong Gươl được trang hoàng bằng những đầu thú mà dân làng săn bắt được, các tượng gỗ người và động vật trong rừng, các cột và vách được trang trí bằng những mô típ hoa văn hình học, hình vẽ diễn tả cảnh sinh hoạt của dân làng được thể hiện bằng nét vẽ mộc mạc và màu sắc tự nhiên… Người Cơ Tu quan niệm Gươl là nơi linh thiêng nhất của làng, là cầu nối giữa con người với thần linh, nơi lưu giữ những giá trị tinh thần thiêng liêng nhất của cộng đồng(1). Nơi đây vừa lưu giữ nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, vừa diễn ra các sinh hoạt văn hóa, cũng là nơi hội đồng già làng họp bàn những vấn đề của làng, giải quyết những vướng mắc, mâu thuẫn trong các gia đình, tộc họ của cộng đồng người Cơ Tu. Làng Cơ Tu nào cũng có một cây cột buộc trâu (xơ-nur) được dựng ở chính giữa sân phía trước Gươl, đây có thể xem như là một tác phẩm về nghệ thuật tạo hình, có sự kết hợp giữa điêu khắc và hội họa. Cột xơ-nur có ý nghĩa rất quan trọng, đây là cây cột lễ của dân làng, nơi để dân làng giao tiếp với các đấng thần linh trong các dịp lễ tế, chính vì thế xơ-nur được chạm khắc và trang trí những hoa văn truyền thống đẹp nhất của người Cơ Tu.

Với người Cor, cây Nêu dựng giữa làng không chỉ có ý nghĩa tâm linh mà còn là một tác phẩm điêu khắc đặc sắc. Theo nhà nghiên cứu Lê Hồng Khánh: Cây Nêu (gơơch) hay còn gọi là cột lễ không chỉ là một nghi cụ trong lễ cúng thần có đâm trâu mà còn là một công trình điêu khắc độc đáo, thể hiện sinh động các sinh hoạt đời sống cùng thế giới tinh thần, tâm linh phong phú của đồng bào Cor. Những đường chạm, khắc, tô màu tạo thành các dải hoa văn, hình vẽ đa dạng trên cây Nêu thể hiện khá tập trung những nét đặc sắc trong nghệ thuật trang trí của một tộc người vốn có trình độ thẩm mỹ rất cao(2). Làng của người Giẻ – Triêng có quy mô nhỏ nhưng có nét độc đáo riêng với kiến trúc nhà sàn dài truyền thống. Những ngôi nhà dài của họ thường dựng ở sườn đồi thấp, dọc theo những dòng suối; ở những nơi có đất rộng thì các ngôi nhà quây quần thành hình bầu dục, chính giữa là nhà Rông – nơi sinh hoạt chung của làng. Nhà có kết cấu vững chắc với sàn cao khoảng 1m, vách gỗ, mái lợp tranh. Từ thời xa xưa, các thế hệ trong một gia đình người Giẻ – Triêng cùng sinh sống với nhau trong một ngôi nhà sàn dài. Mái nhà hình mai rùa, hai đầu đốc được trang trí bằng hai sừng trâu là hai nét đặc trưng trong kiến trúc nhà sàn của người Giẻ – Triêng. Cách bố trí mặt bằng sinh hoạt trong nhà dài thường theo nguyên tắc: giữa là một hành lang dùng làm lối đi, hai bên là nơi làm chỗ nghỉ ngơi của các hộ gia đình. Trang trí và sắp đặt các vật dụng sinh hoạt trong một ngôi nhà truyền thống của người Giẻ – Triêng luôn bố trí theo hướng từ Đông sang Tây. Người Giẻ – Triêng quan niệm hướng Đông là nơi ánh mặt trời buổi sáng bắt đầu cho một ngày, là hướng của thần linh, từ đây ánh nắng mặt trời tỏa đi khắp các hướng khác sưởi ấm cho vạn vật, để con người mạnh khỏe, muôn thú sinh sôi đông đúc, cây cối tốt tươi, đem lại hạnh phúc cho dân làng, vì thế, hai cửa ra vào mở ở hai bên hông của ngôi nhà, cửa chính được mở ở hướng Đông, cửa phụ nằm ở hướng Tây.

Nguồn nước đối với người Ca Dong rất quan trọng và linh thiêng. Người Ca Dong chọn những vùng có nguồn nước để lập làng (Plơi) và đặt tên cho làng của mình theo tên của con suối dẫn nước về làng đó (như Tak Pỏ, Tak Chanh, Tak Xa…). Mỗi Plơi của người Ca Dong có từ 20 đến 30 nóc nhà (spôk), làng nào cũng có một máng nước (lang-tak). Nhà ở thường san sát nhau, xen vào giữa là kho thóc của từng gia đình. Mỗi plơi có một ngôi nhà chung (Ưng) dựng ở giữa làng làm nơi hội họp của mọi người trong Plơi, đây cũng là nơi tiến hành các nghi thức tín ngưỡng.

Khi dẫn nước từ những con suối đầu nguồn về sinh hoạt họ làm lễ cúng rất trang nghiêm. Lễ cúng máng nước là nét đẹp văn hóa của người Ca Dong. Theo Nguyễn Văn Sơn: Hằng năm, cứ vào thời điểm thu hoạch lúa mùa xong  (khoảng tháng  10, tháng 11), lúa đã phơi khô cất hết vào nhà kho  là thời gian nông nhàn, rảnh rỗi để  người Ca Dong tổ chức nhiều lễ hội tưng bừng theo nghi thức truyền thống riêng của cộng đồng. Trong  đó, có tục sửa chữa  lại máng nước và làm lễ cúng máng nước. Người Ca Dong cho rằng, cúng máng nước là hình thức củng cố tình đoàn kết cộng đồng và xã hội, và giáo dục con cháu nhớ về cội nguồn tổ tiên, nhớ về nguồn nước nơi cộng đồng đã định cư, sinh sống lâu đời(3). Xuất phát từ môi trường sống, phương thức sản xuất, tổ chức xã hội cổ truyền và tín ngưỡng dân gian, luật tục trong các cộng đồng dân tộc thiểu số được hình thành. Luật tục là một loại hình luật pháp sơ khai có tính quy ước nhưng rất được tôn trọng trong cộng đồng các dân tộc miền núi. Trong bối cảnh xã hội các làng sống mang tính khép kín, không chịu sự quản lý của một tổ chức nào cao hơn thì luật tục hết sức cần thiết để giữ gìn trật tự của cộng đồng. Ngày nay, các dân tộc thiểu số ở nước ta đều là thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, đều cùng phải tuân thủ luật pháp chung, bên cạnh đó vẫn còn nhiều quy định của luật tục mang tính tích cực, có thể hỗ trợ đắc lực cho luật pháp quốc gia; song cũng có không ít nội dung không phù hợp, thậm chí trái với pháp luật hiện hành, do đó phải biết phát huy những nội dung tích cực, hạn chế hoặc loại bỏ những điều không phù hợp đối với xã hội hiện nay.

Các tộc người thiểu số miền núi luôn quan niệm rằng ở đâu có rừng, có con sông, dòng suối thì ở đó làng mới tồn tại và phát triển vững bền được. Cuộc sống của dân làng luôn gắn với rừng, rừng không chỉ mang đến cho họ sự sống, rừng còn là cội nguồn văn hóa của họ… Chính vì thế, ngày nay khi thực hiện việc tái định cư cho đồng bào miền núi, phải chọn nơi phù hợp với tập quán của đồng bào để lập làng, không thể tách rời dân làng ra khỏi núi rừng. Thực tế cho thấy người dân một số vùng tái định cư theo mô hình hiện đại đã bỏ làng mới để trở về lại nơi gắn bó với đời sống của họ. Từ ngàn xưa, đồng bào đã có ý thức rất cao về việc bảo vệ môi trường sống của mình, nhất là cánh rừng già, rừng đầu nguồn… Để giữ được rừng, người Cơ Tu đã đặt ra luật tục quy định việc hạn chế khai thác cây rừng, phát nương làm rẫy… Luật tục bảo vệ rừng của người Cơ Tu luôn được cộng đồng làng tuân theo, không ai dám vi phạm vì sợ làm hại đến làng, đến thần linh. Người vi phạm phải chịu các hình phạt của làng hoặc bị đuổi ra khỏi làng. Vận dụng luật tục bảo vệ rừng vào đời sống cư dân miền núi sẽ mang lại hiệu quả cao trong việc bảo vệ môi trường núi  rừng.

Ngày nay, với cơ cấu tổ chức xã hội hiện đại, người chịu trách nhiệm điều hành ở cơ sở là trưởng thôn, tuy vậy, các già làng vẫn được nhân dân kính trọng, nghe theo. Việc điều hành xã hội theo mô hình hiện đại là điều tất yếu, tuy nhiên những giá trị văn hóa truyền thống của làng, những tri thức bản địa được sáng tạo, chắt lọc, lưu giữ và trao truyền từ bao đời vẫn còn nguyên giá trị, cần phải được bảo tồn và phát huy. Để giải quyết mối quan hệ giữa già làng với trưởng thôn, cần có một cơ chế linh hoạt, mềm dẻo nhằm kết hợp kinh nghiệm, uy tín, khả năng cố kết cộng đồng, duy trì vai trò truyền thống của già làng với trách nhiệm quản lý của trưởng thôn.

Vận dụng và phát huy giá trị văn hóa làng của đồng bào các dân tộc miền núi vào việc quản lý xã hội hiện đại sẽ nâng cao hiệu lựccủa bộ máy chính quyền từ cấp tỉnh đến cơ sở, giúp thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa xã hội khu vực miền núi, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, cải thiện đời sống đồng bào miền núi, đồng thời góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân địa phương trong việc bảo tồn, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ tốt đất đai và chủ quyền lãnh thổ.


HỒ XUÂN TỊNH

------------

Chú thích:

(1) Tấn Vịnh. Nhà Gươl Cơ Tu. Góp phần tìm hiểu văn hóa Quảng Nam. 2008 tr 377

(2) Lê Hồng Khánh.Nghệ thuật trang trí trên cây Nêu của người Cor. Thế giới Di sản điện tử.

(3) Nguyễn Văn Sơn. Tục cúng máng nước của đồng bào Ca Dong. Báo Quảng Nam, thứ Sáu 27.10.2006


Thứ Ba, 28 tháng 10, 2025

TÌNH SẦU BIÊN GIỚI - TRẦN HỮU NGƯ






 TÌNH SẦU BIÊN GIỚI

Những bài hát hay trước 1975 ở miền Nam nhiều quá! Nhớ sao hết được!
-Tôi không phải là Tề-Thiên-Đại-Thánh nên không nhớ hết ( bắt chước một câu nói gần đây của… ai đó, mà bỗng dưng tui quên tên!)
Có thể nhớ nhạc sĩ, còn hằng ngàn bài hát thì làm sao mà nhớ hết? Chỉ riêng nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ thôi, cũng không thể nào nhớ những ca khúc của ông, mặc dù có rất nhiều bài hát của ông đã được toàn dân cất cao và vang xa trong những ngày miền Nam Chiến tranh mỗi ngày một lan rộng.
Tôi đã viết về nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, người nhạc sĩ mà tôi đinh ninh rằng, sẽ có ngày sau Hòa bình tôi được gặp, nhưng ông đã kẹt lại ở ngoại quốc trước 1975!
Hằng trăm bài hát của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đã từng đi qua tôi trong Chiến Tranh… Nhưng có một một bài hát quen lắm, tôi thuộc nằm lòng từ ngày xửa ngày xưa, có lẽ hơn nửa thế kỷ trôi qua, và cũng kể từ ngày đó cho đến hôm nay không nghe thấy ca sĩ nào hát? Họ cũng quên chăng?
-Đó là ca khúc TÌNH SẦU BIÊN GIỚI của Hoàng Thi Thơ.
Một vài dòng ngắn về nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ:
-Sinh năm 1929 tại làng Bích Khê, Triệu Phong Quảng Trị
-Mất năm 2001 Hoa Kỳ
-Viết chừng 500 ca khúc (lấy con số tròn)
-Chủ đề: Quê hương, Chiến tranh, Tình yêu và Con người…
-Nghề nhiệp: Nhạc sĩ, Đạo diễn, Giáo viên
-Bút hiệu: Tôn Nữ Trà My, Tôn Nữ Diễm Hồng, Triệu Phong, Bích Khê.
Ông bắt đầu gia nhập làng Văn nghệ và viết nhạc từ năm 1946, nghĩa là lúc đó ông mới 17 tuổi!
500 bài hát của Hoàng Thi Thơ nếu so với nhạc sĩ Phạm Duy, Trịnh Công Sơn… thì chả thấm vào đâu, nhưng điều đặc biệt, người ta hát được, thuộc được chừng 200 bài của Hoàng Thi Thơ, cũng đủ nói lên con số khủng khiếp! (Con số 200 này cũng giống như những bài hát của Lam Phương. Hoàng Thi Thơ và Lam Phương là thiên tài âm nhạc).
Sau đình chiến 1954, người ta nghe và hát (nhất là những người ở miền quê) nhạc gì?
-HOÀNG THI THƠ.
Có ba nhạc phẩm lan truyền thời bấy giờ:
-Gạo trắng trăng thanh
-Trăng rụng xuống cầu
-Đường xưa lối cũ
Và một bài hát của Hoàng Thi Thơ ra đời từ năm 1954, đã được truyền miệng nhau , đó là TÌNH SẦU BIÊN GIỚI. Tôi đoán chừng “Biên giới” ở đây là Vĩ tuyến 17 chăng?



Cũng từ đó cho đến nay 2025 đã là 71 năm, nhưng tôi vẫn còn thuộc, vì bài hát hay quá. Nghe lại TÌNH SẦU BIÊN GIỚI, vẫn làm tôi cảm động, và những kỷ niệm thời Chiến tranh hiện về… Hình ảnh những người vợ đợi chồng trong Chiến tranh, và có một ngày chồng trở về:
“… Đêm hôn qua anh trở về
Về bên sông, sông mờ mờ
Mắt ngước nhìn
Nhà ta chìm trong khói súng thù
Đên hôm qua lòng biết lòng
Nghe tin chồng về bên sông
Lòng biết lòng
Nhưng mong gì thấy đôi mắt chồng
Em ơi
Mướp cà mấy độ lên hoa
Hương cau còn tỏa mái nhà
Khóm trầu tô đậm duyên ta
Héo rồi khói lửa bao la
Ai khơi dòng lệ trắng đường
Oán thù dâng ngập quê hương
Có ai khóc những đêm trường
Ai gây thương nhớ
Ai gợi mong chờ
Những chiều mái tóc buông lơi
Những chiều đem áo ra phơi
Lòng thấy chơi vơi
Nói không nên lời
Tiếng lệ thắm qua muôn đời
Xa nhau cách mấy phương trời vì ai…”
(Bài hát này lâu quá, nên tôi viết có thể có một vài từ sai. Nhưng xem trên mạng, lại còn sai nhiều! Tin trên mạng, có ngày mất mạng!)
Biết rằng trong Chiến tranh là có đau khổ, ly biệt, chết chóc, đòi nghèo… nhưng TÌNH SẦU BIÊN GIỚI và hàng ngàn ca khúc khác được viết trong Chiến tranh như những thông điệp gởi đến tất cả mọi người, dùng những lời lẽ thương cảm, gắn kết tình người, đậm tình quê hương, thương yêu tràn đầy, dù cho:
-Oán thù dâng gập quê hương
-Có ai khóc những đêm trường
(Lời bài hát TÌNH SẦU BIÊN GIỚI)
Một bài viết ngắn, thương nhớ nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ (*)


TRẦN HỮU NGƯ
(Chi Bộ Xóm Gà, ngày 27.10.2025)

-(*) Tôi đính kèm chữ ký của Hoàng Thi Thơ, chữ ký có một không hai ở Việt Nam. Với chữ ký này, đáng lẽ ông phải làm xếp ở kho bạc, vì không có ai làm giả chữ ký ông được!

THƯƠNG MẢNH TRĂNG XƯA - THƠ HUY VỤ

 


THƯƠNG MẢNH TRĂNG XƯA


Phận số an bài ta chốn đây
Mịt mờ tri kỷ khuất chân mây
Sắt se đất khách câu thơ lạnh
Khắc khoải quê xa chén rượu đầy
Mấy tiếng chim chiều khơi nỗi nhớ
Một làn mây tím gợi niềm tây
Ta về lật lại chồng thư cũ
Thương lắm vườn xưa bóng nguyệt gầy.

Bóng nguyệt gầy hao bấy khắc trường
Khuyết tròn năm tháng những sầu vương
Nhủ lòng cố giữ câu nhân nghĩa
Nhắc dạ dần buông chuyện thế thường
Bả lợi thời xa phòng hiểm họa
Mồi danh chớ lại tránh tai ương
Nâng cao đuốc tuệ soi đêm tối
Thương mãi ngàn xa ánh nguyệt hường.


HUY VỤ 
27/10/2025

Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2025

CHỢ CHIM CẦU MỐNG. - TỪ KẾ TƯỜNG




 SÀI GÒN NGÕ NGÁCH:

CHỢ CHIM CẦU MỐNG

Trong số những cây cầu cũ xưa còn sót lại ở Sài Gòn, có lẽ Cầu Mống là cây cầu mang hình bóng của một thứ thời gian lắng động nhất trong tâm tưởng của rất nhiều người yêu quý thành phố có những cây cầu in vóc dáng của năm tháng đã qua đi trên một dòng sông. Cầu Mống là loại cầu sắt thiết kế kiểu Pháp và do Pháp xây dựng nên in đậm nét “văn hóa cầu” phương Tây, thành cầu uốn cong, có những khoảng trống, sơn đen bắc qua sông Bến Nghé hay còn gọi là sông Ông Lãnh nối quận 1 và quận 4 (đất Khánh Hội xưa). Chân cầu phía quận 1 nằm chếch công viên Diên Hồng đối diện đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa (Công Lý cũ). Sở dĩ gọi là công viên Diên Hồng vì phía sau đó là Hội trường Diên Hồng mà báo chí trước năm 1975 còn gọi là “Viện Bô Lão” vì đây là trụ sở Thượng Nghị Viện của chế độ cũ. Chân cầu phía quận 4 nằm trên đường Bến Vân Đồn thuộc địa phận P12 Q4.
Cầu Mống nằm giữa khoảng không gian của cầu Ông Lãnh và cầu Quay. Lúc tôi lên Sài Gòn đi học Cầu Mống chỉ dành cho xe gắn máy và xe đạp lưu thông, về sau dành riêng cho người đi bộ. Bây giờ ít ai đi bộ qua Cầu Mống vì lớp xi măng trên cầu đã bong, tróc, nhiều nhịp hư, gãy người sơ ý có thể lọt thõm xuống sông. Do không có khách bộ hành nên cầu trở nên vắng vẻ và vì thế dân bụi đời, xì ke ma túy chiếm lĩnh làm “bãi đáp” để tụ tập, hút chích. Cách đây khá lâu tôi có về quận 4, đi bộ qua cầu Mống như một cách tìm lại kỷ niệm với một cây cầu mà thời thơ ấu đã từng đi học qua đây chợt lạnh người khi nhìn thấy kim tim của dân xì ke vứt bữa bãi như chỗ không người. Cầu Mống bây giờ tuy còn gọi là cầu nhưng không còn chức năng của một cây cầu nữa, nó cứ đứng im lìm, soi bóng xuống dòng sông Bến Nghé, thế thôi. Có lẽ cầu Mống hiện diện ở thành phố Sài Gòn trên trăm năm rồi, tuổi đời đã cao, thân cầu đã xuống cấp và nó đã được “nghỉ hưu” để ngày ngày trầm mặc suy tư như một chứng nhân của lịch sử đầy cảnh bể dâu thế sự.
Nhưng có lẽ ít ai còn nhớ dưới chân Cầu Mống phía quận 1 sau năm 1975 có một thời gian dài khu vực này trở thành chợ chim, chó, cá cảnh gọi tắt là chợ chim Cầu Mống sau khi chợ chim lề đường Hàm Nghi bị giải tỏa đã dời về đây. Chợ chim Cầu Mống dài khoảng 300m, cặp bờ sông Bến Nghé đoạn từ công viên Diên Hồng tới đầu đường Pasteur. Chợ chia làm hai dãy quầy sập, có một lối đi chính giữa rộng khoảng 1,50 m, mỗi quầy sập chừng 6m2 bán đủ thứ chim chóc, chó, mèo, gà, vịt, cần câu máy, dụng cụ và mồi câu nội ngoại nhập kể cả động vật hoang dã có tên trong sách đỏ ngày nay. Tôi thích nuôi chim, chó nên thường dạo chợ bất cứ lúc nào rãnh rỗi, nhưng chợ buôn bán tấp nập nhất là vào lúc sáng sớm lúc người nuôi chim tập trung mua thức ăn cho chim như sâu, cào cào, dế, châu chấu, lúa, hạt kê… và kẻ trộm dắt chó kiểng ra chợ bán sau một đêm trộm được và khổ chủ cũng ra đây mắt láu liêng tìm con thú cưng của mình bị trộm bắt mất.
Chợ chim Cầu Mống là nơi tập trung nhiều đầu mối mua bán chim, chó cảnh. Ở đây muốn mua chim gì cũng có, chó gì cũng xong, miễn thuận mua vừa bán là “tiền trao cháo múc” cấm mang ra khiếu nại. Có quầy không biết nhập từ đâu mà bán đầy những chú két nhiều màu sắc đẹp được chủ quầy thao thao giới thiệu là két châu Phi, Tây Ban Nha hoặc Úc nhưng hét giá tận mây xanh. Có quầy bán cả một bầy gấu con còn bú sữa, nhỏ xíu như chú heo con. Tôi hỏi thử giá, chủ quầy bán gấu hét 1,5 triệu đồng một con và hướng dẫn luôn cách nuôi, cho bú sữa bình như trẻ em hoặc nấu cháo thịt bò bằm nhuyễn cho ăn. Ở chợ này tôi đã mua được một chú chó Phú Quốc giá 700 ngàn, nguyên một ổ nhồng con mới “ra ràng” 3 con giá 150 ngàn, một con chó Nhật giá 500 gnàn, một cây cần câu máy giá 800 ngàn…nói chung có tiền là mua được tất những gì mình thích, kể cả một chú gấu con được giới thiệu là do người dân tộc bắt được từ rừng rậm cao nguyên cho tới một chị két Tây Ban Nha nhập theo đường tàu viễn dương.
Cũng chính ở chợ chim Cầu Mống tôi mới biết có một loại chim được gọi là…chim nô tì hay chim osin. Đó là giống chim sắc Nhật, tất nhiên được nhập từ Nhật, chim này nhỏ như chim sẻ lông có nhiều màu rất đẹp từ màu đen pha sọc trắng, sô cô la, tới trắng tuyền đẻ trứng trong ổ quấn bằng dây thừng, nuôi con mình rất giỏi đồng thời cũng nuôi con “người khác” ngon lành chẳng phân biệt “địch”, “ta” miễn là khi chim sắc Nhật đẻ bốn trứng, đồng thời chim bạc má là loài chim chỉ biết đẻ trứng chứ không biết ấp trứng nuôi con nên vứt ba trứng chim sắc Nhật chuồi 3 trứng chim bạc má vào, chim sắc Nhật ấp luôn, khi nở con, chim sắc Nhật cũng nuôi chim bạc má con tận tụy như con ruột của mình, bởi thế mới có tên gọi là chim nô tì hay osin, tức chim…ở đợ.
Chợ chim không chỉ bán chim mà còn giúp cho ta hiểu biết nhiều điều ngoài sách vở. Ví dụ như loài chim yến ngoại nhập có rất nhiều loại, nhiều màu sắc, nhưng mắc nhất là hồng yến. Một cặp hồng yến lúc đó giá gần 2 triệu bạc, người bán có một thủ thuật biến chim hoàng yến thành hồng yến chỉ trong một tuần lễ nhờ một loại thuốc bột màu vàng nhập từ Mỹ giá rất mắc. Cho chim hoàng yến, kể cả bạch yến ăn củ cà rốt bào nhuyễn, trộn thuốc này vào lập tức lông sẽ đổi màu biến thành hồng yến như ý muốn. Tôi đã làm thử và thành công, nhưng không phải để lừa gạt bán chim “ảo thuật” mà để…khỏi bị mua lầm chim hồng yến từ người bán đã “ảo thuật” đổi màu lông gạt bán cho mình. Chợ chim Cầu Mống cũng đầy những trò “ảo thuật” gian manh để lừa gạt bán chim, chó cho người mua. Chuyện khách lơ tơ mơ mua lầm chú chó bị nhuộm lông ở đây là chuyện… bình thường thậm chí họ dám nhuộm cho chú chó một bộ lông… màu tím dị thường để bán cho một ông khách quê mê chó lông màu tím độc đáo cũng đã xảy ra.
Có lẽ thấy dưới chân Cầu Mống, ngay trung tâm quận 1 tồn tại một chợ chim bát nháo, bầy hầy và luôn mất an ninh trật tự vì cãi nhau, kiện cáo giữa người mua lầm và người bán thú “ảo thuật”, cũng như mỗi ngày có nhiều vụ mất trộm chó, khổ chủ ra đây tìm chuộc lại hoặc thưa kiện ì xèo nên chợ chim Cầu Mống chỉ kéo dài được một thời gian rồi cũng bị giải tỏa dời đi nơi khác. Bây giờ chỉ còn cây cầu nối hai bờ sông Bến Nghé với cái bóng trầm lặng xưa cũ của mình theo thời gian.


TỪ KẾ TƯỜNG

Thứ Bảy, 25 tháng 10, 2025

VỊT NẰM BỜ MÍA - TỪ KẾ TƯỜNG

 



VỊT NẰM BỜ MÍA

Những câu hát ru em tôi thuộc lòng tứ năm 8 tuổi lúc về ở bên nội mà má tôi đã hát ru em gái tôi ngủ:
Vịt nằm bờ mía rỉa lông
Cám cảnh thương chồng đi học đường xa
Đường xa xe lửa chạy cũng gần
Muốn ăn rau é rau tần
Muốn về xứ sở cho gần bên em.
Hồi đó bên hông nhà nội tôi có khoảng đất trống độ chừng nửa công đất, tùy theo mưa hay nắng mà trồng thứ hoa màu phù hợp. Nắng trồng dưa, mưa trồng khoai lang, trồng bí, trồng bắp, nhưng tôi vẫn thích nhất khi má tôi vun liếp trồng mía. Khi mía lên cao, có đốt phải tướt lá và vun gốc, vô phân đánh bờ.(Mía sâu có đốt/Nhà dột có nơi). Những đốt mía phát triển cần phải tướt lá liên tục để cây mía cao lên, vượt khỏi đầu một đứa trẻ con. Những cây mía đơn lẻ ban đầu sẽ nẩy mầm dưới gốc, mọc thành cây con để phát triển thành bụi mía. Thế là bên hông nhà nội tôi đã có một vườn mía xạc xào.
Mía trồng hai hàng nên bờ rộng, phải cuốc đất đắp nhiều nên khoảng trống giữa hai bờ mía thành đường mương. Tháng 10-11 cuối năm, có nhiều giông bão, mưa dầm, dai dẳng tôi thường thấy những con vịt xiêm má tôi nuôi sau khi lội chán chê dưới mương thì lên bờ mía nằm rỉa lông. Mía tuy thành bụi, thân lá rậm rạp, nhưng cây mía lại giòn, dễ gãy. Cuối năm là mùa bão giông, chỉ một đêm mưa giông, gió mạnh thổi qua vườn mía, sáng ra sẽ có những cây mía gãy. Tôi là người được hưởng lợi từ những cây mía gãy đó, ăn mía mệt nghỉ.
Ba tôi đi biền biệt những tháng năm dài, nội tôi già yếu, bệnh tật năm ho khúc khắc trong buồng, má tôi đưa em gái tôi trên võng dưới nhà sau, cửa nhìn thẳng ra vườn mía trong mưa dầm, giông bão, giá rét. Và những câu hát ru em tôi của má thật buồn: “Vịt nằm bờ mía rỉa lông…” đã ăn sâu trong tâm khảm tôi từ thuở ấu thơ bên quê nội. Khi về bên ngoại, nhiều đêm tôi vẫn ngủ mơ thấy vườn mía khua động xạc xào bên hông nhà. Hình ảnh vườn mía thật gần gũi với tuổi thơ tôi có lẽ bắt nguồn từ bài hát ru em: “Vịt nằm bờ mía rỉa lông/Cám cảnh thương chồng đi học đường xa…”
Khi má tôi đã qua thời son sắc, má tôi dẫn anh em tôi về bên ngoại. Rồi bà ngoại tôi mất, theo thời gian má tôi cũng già yếu, loanh quanh một mình trong căn nhà rộng. Nhà không còn nhà lá như ngày xưa, đất rộng hơn nhưng không còn trồng mía nữa. Mỗi lần tôi về nhà thăm má tôi, ngồi viết bên cửa sổ nhìn ra hồ cá, đồi cúc, vườn nhãn, những hàng xoài cát Hòa Lộc, những hàng cau kiểng chợt giật mình tự hỏi tại sau nhà lại không trồng mía. Tôi bỗng nhớ lắm những bờ mía những khi gió giông khiến những cây mía khua lá xạc xào, nhớ bầy vịt nằm rỉa lông thảnh thơi, nghiêng mắt nhìn mưa, nghe sấm động trên nền trời mù đục nơi quê nội.
Và những lúc ấy kỷ niệm một thời ấu thơ chợt hiện về, thật đẹp, mà cũng thật ngậm ngùi. Và càng ngậm ngùi hơn đâu chỉ có nhà tôi dưới quê là không còn trồng mía? Cả làng, cả xã hầu như không còn ai trồng mía, một thứ cây quê mùa, dân dã, ngọt ngào, gắn bó với mọi tuổi thơ đời người như những câu hát ru em của mẹ tôi ngày xưa giờ chắc chỉ còn trong tâm tưởng, trong hoài niệm.
Những lúc đắm chìm trong ký ức như thế tôi thường tự hỏi một cách lẩn thẩn: Sao bây giờ người quê tôi lại không trồng mía?


TỪ KẾ TƯỜNG

Thứ Năm, 23 tháng 10, 2025

HAI BÀI THƠ ĐẠO - THƠ CHÂU THẠCH



 TRÊN ĐỈNH SIN SUỐI HỒ

                  
Đỉnh núi cao hơn trên đỉnh mây
Bài tôn vinh Chúa thật là hay
Cả bản H'Mong đều nên thánh
Một góc Thiên Đàng ngay chốn đây
 
Tôi đã cùng em đến một ngày
Rừng thiên nước độc lại lành thay
Tưởng đâu như có nhiều thiên sứ
Đi lại trên trời như bướm bay
 
Mới biết niềm tin hạnh phúc thay
Đại ngàn bình tịnh ánh trăng đầy
Mặt trời qua núi như ru võng
Đêm ngủ cùng ta giấc mộng say!
                          
 
DƯỚI CHÂN LẦU CHUÔNG
                
Dưới chân lầu chuông ngày Chúa nhật
Hai ta chuẩn bị lễ tôn thờ
Đầu tháng, hôm nay là tiệc Thánh
Trong lòng thanh thoát tựa như mơ
 
Thơm ngát trong ta bông trái nở
Thánh Linh tràn ngập cả hồn thơ
Trên cao chuông vọng lời muôn thuở
Chúa gọi nhân gian đến phụng thờ
 
Ta sẽ vào trong ngôi Thánh Đường
Nghe bài rao giảng những yêu thương
Thánh ca huyền nhiệm ban êm ái
Tiệc thánh năng quyền thân Thánh Vương
 
Dưới chân lầu chuông ngày Chúa Nhật
Mượn màu hoa đỏ trọn màu yêu
Cầm tay xin nguyện lời chân thật
Trung tín thờ Cha đến xế chiều!
                     

CHÂU THẠCH

Thứ Tư, 22 tháng 10, 2025

AO LÀNG - TỪ KẾ TƯỜNG

 



AO LÀNG

Con người ai cũng có hoài niệm tuổi thơ, càng lớn tuổi nỗi nhớ quê càng khắc khoải, luôn sống trong hoài niệm không nguôi về thời thơ ấu của mình – Đó là  “những tháng năm đẹp nhất đời người” theo cách nói văn hoa một chút. Đối với tôi “những tháng năm đẹp nhất đời người” ấy là kỷ niệm tắm ao làng. Cái ao làng không sâu như đầm phá, nó chỉ vừa hụt đầu một đứa trẻ lên 10, có trồng hoa sen, hoa súng, vào mùa hè nước trong xanh như in rõ dáng trời. Ao làng tất nhiên không chứa nước máy mà toàn nước mưa, được lọc lắng bằng hàng trăm, hàng ngàn bộ rễ nhỏ li ti của lục bình, bèo Tây, sen, súng… 

Có những ao làng nguồn nước ra, vào thay đổi, nhưng cũng có những ao làng quanh năm chỉ được bổ sung một nguồn nước mưa, đầy vơi theo nắng hạ, mưa đông. Nhưng nước ao làng luôn ngọt mát, đi trên đường lộ, đường làng giữa trưa nắng gắt, tình cờ ngang qua một cái ao làng đầy hoa sen, hoa sung nở, bướm ong chập chờn giỡn nước, lượn qua bất cứ người nào cũng thèm nhảy xuống tắm, muốn được trầm mình trong dòng nước mát lạnh, chân quê ấy.

Tôi đã từng ngụp lặn trong cái ao làng thân yêu của tuổi thơ tôi như thế, từng ngâm mình trong làn nước mát rượi, hoặc thả ngửa người trên mặt nước thong dong nhìn bầu trời cao phơn phớt màu xanh trứng sáo. Từng say sưa nhìn đàn sáo bay ngang, những con sáo nâu cứ đâp đôi cánh liên hồi, hai cái chớp trắng ở đầu đôi cánh sáo nâu sáng bừng lên trong khoảng không giữa mây và nắng, thu ngắn khoảng trời nhưng xa dần tầm mắt của tôi. Đàn sáo bay về đâu tôi không thể biết được, những con sáo bay qua ao làng (có thể đã qua sông) có trở lại không, cũng không ai biết rõ. Tôi cũng từng ngắm mê mải con chuồn chuồn kim xanh biếc, nhỏ tí, đậu trên một đài hoa súng đỏ, hay một cánh sen trắng hồng. Chú chuồn kim này ở đây bay tới? chuồn chuồn không bay đôi, nó thường lẻ bạn, chú chuồn chuồn kim nhỏ tí, giống như cây kim màu xanh ghim hờ hững trên một đài hoa sen, hoa súng của tôi cũng thế.

Ôi cái ao làng của tuổi thơ tôi xưa vẫn mãi là hình ảnh tuyệt đẹp. Nó nằm trước sân đình, ở góc ao có một cây đa to vòng thân mấy người ôm không hết, tàn lá rất rộng, che mát cả một góc ao. Trên tán lá xanh ngút ngàn, suốt ngày chim chóc nhảy chuyền, ca hót véo von. Tôi và lũ bạn học một thời đã quăng cặp, cởi áo trắng học trò, vận độc chiếc quần cụt đua nhau leo lên cây đa rồi đu theo nhánh đa de ra mặt ao, thi nhau buông tay cho người “rơi tự do” xuống đáy ao rồi trồi lên, tay vuốt nước nhòe mặt mũi, nhe răng nhìn nhau cười khoái trá. 

Có khi ao làng lại ở sau ngôi chùa cổ, khuất trong đám dừa Tam Quang có những quày dừa trái đỏ, trái vàng nước ngọt lịm. Ao làng ở đây tiếp cận với nguồn nước sông nên không trong mát bằng ao làng ở sân đình, nhưng cũng có hoa sen, hoa súng và rất nhiều lục bình. Tôi và lũ bạn lại có trò chơi đu dây sắp hàng dọc, lần lượt từng đứa chạy lấy trớn rồi với tay nắm một tàu dừa đu qua bờ ao bên kia, đứa nào yếu hơn sẽ bị rớt giữa mặt ao, té ùm xuống và rồi lại trồi lên.

Ao làng thường gắn với những trò chơi lặn ngụp của thời tuổi nhỏ. Nó không chỉ là nơi tắm mát trưa hè, hái sen, hái sung chiều thu, thả những con tàu trắng bằng giấy xếp mùa đông cho nước gợn trong ao đưa đi ra xa khơi, hoặc để lũ trẻ chúng tôi tụ tập chơi trò rồng rắn, xênh xang, lụng thụng trong những bộ quần áo mới trong ngày xuân Tết đến mà ao làng còn là một nơi mang tính “thiêng liêng” bất cứ người lớn hay trẻ con đều không được vứt rác hay bất cứ cái gì dơ bẩn xuống dưới. Do đó ao làng suốt bốn mùa, quanh năm suốt tháng, nắng lửa, mưa dầm làn nước vẫn sạch trong, ở chỗ trong nhất có thể soi gương rửa mặt, chải tóc. Do đó ao làng không chỉ là nơi trẻ con tắm mát mà còn là nơi cho ai đó ngồi lặng một mình… soi cả tâm hồn mình vào đáy nước trong.



TỪ KẾ TƯỜNG

Thứ Ba, 21 tháng 10, 2025

TỪ THUỞ XA NGƯỜI - THƠ NGUYỄN AN BÌNH

 




TỪ THUỞ XA NGƯỜI


Có phải là khúc hát

Mưa kể chuyện xa người

Mái hiên lòng gió tạt

Lá ngậm ngùi phai phôi.


Nhìn bóng mình trên vách

Thấy đêm nay quá dài

Từng giọt mưa tí tách

Nói hộ tiếng lòng ai.


Người về sao rất khẽ

Thèm lắm một vòng tay

Mưa ơi sao bước nhẹ

Để nỗi buồn quắt quay.


Dưới đèn từng trang sách

Đâu soi tỏ hình hài

Bóng trăng trên thành quách

Dõi cuộc tình đã phai.


Thì thầm mưa cổ tích

Thấm lạnh bờ vai mềm

Dấu chim thôi quấn quít

Lẻ bạn sầu sương đêm. 


Đâu ai còn góp nhặt

Trong tiếng mưa thật đầy

Ướt gì trong đôi mắt

Thăm thẳm gọi hồn say.


Ngày sau thành đá cuội

Lao xao dưới chân người

Lăn trầm theo cát bụi

Rong rêu một đời thôi.



NGUYỄN AN BÌNH


Thứ Hai, 20 tháng 10, 2025

VÔ CHIÊU THẦN CÔNG - KHA TIỆM LY







 VÔ CHIÊU THẦN CÔNG

a. Hôm qua ngày Sóc, không hẹn mà cao bằng hiền hữu đến kín lều cỏ, hai chiếc chiếu chưa đủ chỗ ngồi. Thù tạc tới lúc nào không biết, và ngủ lúc nào cũng không hay! Khi ánh dương xuyên qua lều rách, hong nóng mặt Thám hoa mới tỉnh dậy!
Như thông lệ, trước khi rửa mặt, Thám hoa rót môt chén đầy, ực một hơi, gọi là “giải nghễ”!
Chợt nhìn ra hiên (nhà Thám hoa không có cửa), ngạc nhiên thấy ai treo một túi gấm lớn tự bao giờ; bèn lấy vội xuống mở ra xem thì là một thanh cổ kiếm! Mở túi gấm nhỏ, trong đó cóhai quyển sách và môt phong thư. Thư rằng: “Đây là bộ VÔ CHIÊU THẦN CÔNG, tuyệt thế kỳ thư có một không hai trong thiên hạ, nay ta truyền lại cho người có duyên. Hãy cố công luyện tập để ngày sau rửa hận nước”. Cuối thư có ghi chú’: “Dục tốc bất đạt! Nhà ngươi không nên nôn nóng mà tẩu hỏa nhập ma! Luyện xong chương một mới luyện chương hai; luyện xong quyển thượng mới tới quyển hạ. Chớ quên!”
Thám hoa vào lều, mở quyển thượng. Trang đầu ghi: “Muốn luyện thành công trước hết phải tự cung!”. Thám hoa nhăn mặt vài giây rồi tự nghĩ: “Ta từ lâu có xài cái “thằng côn đồ” nầy đâu, để cũng vô ích. Nước nhà bị Hung Nô giày xéo. Cứu nước là thượng sách!”
Nghĩ xong, rút từ từ báu kiếm ra. Ánh thép xanh dờn, mát lạnh.
Bèn nói với ai đó:
- Vĩnh biệt bạn hiền nhe!
b. Chỉ sau sáu tháng luyện tập, Thám hoa bèn lên non thử kiếm. Thiết tưởng khỏi cần diễn tả hiệu quả thần sầu của kỳ thư chi cho mất thì giờ. Thám hoa cả mừng, quyết tâm học hết quyển hạ; bèn giở ra xem. Trang đầu ghi: “Quyển thượng dạy; “Muốn luyện thành công trước hết phải tự cung!”, nhưng nếu không tự cung thì cũng thành công, chớ lo lắng!”
Thám hoa ói ra một bụm máu tươi, buông mình ngồi xuống tảng đá. Tảng đá nát vụn. Công nhận mới luyện xong quyển thượng mà công phu đến mức thượng thừa!
Tảng đá đó người sau gọi là THỔ HUYẾT THẠCH, giờ là điểm du lịch thu hút nhiều du khách



KHA TIỆM LY
(Trích Chuyện Xạo Bốn Phương)

Chủ Nhật, 19 tháng 10, 2025

TRÊN LỐI THU PHAI. - THƠ NHẬT QUANG

 





TRÊN LỐI THU PHAI


Có mùa thu vàng phai 

trên lối cũ em về 

như dấu lặng của bài tình ca dang dở

Gió thu nhẹ nhàng 

mà như lòng ai trăn trở 

nhìn những chiếc lá vàng xác xơ

nghiêng nghiêng cuốn theo chiều gió

mong manh chạm vào vết thương ký ức...

thời gian

Ta cúi xuống nâng niu chiếc lá

ép vào trang kỷ niệm... 

như níu giữ lại những yêu thương

đã từng một thuở yên vui, hạnh phúc

Mùa đã qua đi

và em - cũng thế

chiều nay còn lại mình ta

lặng lẽ tiễn thu qua

chợt lòng khô như phiến lá

nghe hoàng hôn rơi chạm buốt con tim.



Jos NHẬT  QUANG