CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 19 tháng 4, 2018

TẦN HOÀI DẠ VŨ , MỘT MÌNH BƯỚC ĐI, BƯỚC ĐI MỘT MÌNH-CHÂU THẠCH

van tran
Tệp đính kèm16 thg 4 (2 ngày trước)
tới tôi






 TẦN HOÀI DẠ VŨ,

        MỘT MÌNH BƯỚC ĐI, BƯỚC ĐI MỘT MÌNH

                                                   Châu Thạch



 Tần Hoài Dạ Vũ, một nhà thơ mà tôi mến mộ gần 60 năm trước. Anh nhỏ hơn tôi ba tuổi, nhưng khi tôi còn viết báo tường trong lớp học thì tên tuổi anh đã có trên văn đàn miền Nam Việt Nam. Thời đó thơ anh thường được đăng trên những tờ báo văn học có giá trị như Văn, Bách Khoa, Văn học  v...v...

Sáu mươi năm sau, ở tuổi quá thất thập, tôi mới hân hạnh gặp được Tàn Hoài Dạ Vũ; ngồi uống cà phê cùng anh và nghe anh tâm sự về cuộc đời mình.

Anh cũng như tôi, đều đồng ý rằng, đời chẳng phải lúc nào mình cũng chọn đúng và cũng chẳng phải lúc nào đời cũng hiểu đúng mình.

Tôi tôn trọng anh bởi tình yêu văn chương và  tình yêu quê hương nồng cháy trong con tim nóng hổi của anh.


Về nhà nằm đọc thơ Tần Hoài Dạ Vũ, tôi cảm động biết bao bởi tiếng thơ đã quên đi từ dạo ấy trong tháng ngày lận đận, bây giờ nó lại đến như một mối tình thiết tha quay lại với mình.


 Tần Hoài Dạ Vũ có những bài thơ như bài thơ “Cuồng Ca”, là những bài ca đam mê của con tim dại khờ trước thần tượng hay ảo ảnh, trước mơ hồ hay chân lý. Tuổi trẻ nào đâu biết được nhiều, chỉ lao vào, lao tới để muốn bắt cả “trời xanh trong kẽ tay”.

Đọc những bài thơ ấy, tôi như nghe được con tim mình nhói đau vì định mệnh của đời:


Ta xẻ buồng tim hát tự do
chờ khi trăng loạn xuống ngang mày
níu trăng ta múa cùng hư ảnh
mai bắt trời xanh trong kẽ tay !

( Cuồng ca)


 Tôi đã khóc vì tôi đồng cảm với thơ. Ai trong chúng ta ở tuổi dại khờ không từng xé con tim cho tự do, không từng muốn đưa tay với bắt trời xanh (?). Thế nhưng, một ngày quay nhìn lại, ta thấy ta “níu trăng” mà “múa cùng hư ảnh”.

Đau xót biết bao khi con đò đưa ta qua bến bờ chân lý bỗng nhiên trở thành ảo ảnh. Hụt hẫng biết bao khi ta qua chưa hết chuyến đò mà đã  thấy sự chết ở bờ bên kía:


...Trên đò ngọn gió tịch liêu
Lạnh lùng thổi lại hồn chiều bơ vơ
Ta qua chưa hết chuyến đò
Thấy trăng đứng đợi bên bờ tử sinh
Thấy sông trôi lại bóng mình
Biết ta là bóng hay hình rong chơi
Tình xưa đã chết bên trời
Chiều nay sông nước đọc lời điếu tang
Hỏi quê nào biết đâu làng
Lòng không, còn lại mấy hàng mây trôi.

    ( Đò Chiều)



“Tình xưa đã chết bên trời” nhưng “chiều nay sông nước” mới “đọc lời điếu tang”. Nhà thơ đâu dễ gì quên được cái tình xưa đó, nhưng chiều nay, khi nhìn sông nhìn nước u buồn thì mới ngộ ra mình phải dứt khoát với mối tình tan vỡ kia. Có lẽ thế hệ chúng tôi, bởi hệ lụy của chiến tranh, đã có biết bao nhiêu mối tình đau xót như Tàn Hoài Dạ Vũ. Nếu gặp nhau nên ôm nhau mà khóc, đừng trách chi nhau, vì có khi đời ta đâu phải do ta định đoạt.

Nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ chỉ sáng tác một bài thơ “Cuồng Ca” nhưng đọc thơ anh ta thấy loại thơ như Cuồng Ca nhiều lắm. Tiếng lòng của nhà thơ tha thiết, nỗi ân hận vì những đổ vỡ trong đời dày vò, và tiếng thơ của nó reo như dòng suối buồn triền miên chảy qua những đại ngàn. Suối đó không bao giờ thành một dòng sông, vì nó chỉ chảy trong con tim của đại ngàn có tên Tần Hoài Dạ Vũ. Suối âm thầm róc rách chỉ để suối nghe. Ai muốn nghe thì hãy đến với đại ngàn có con suối kia, để ngồi lại nhìn phong lan rủ xuống bên bờ suối và thấy nó đẹp. Ai không muốn nghe thì cứ quay lưng đi về chân trời  lửa cháy của mình.

Thơ tình Tần Hoài Dạ Vũ không cuồng loạn, nhưng vẫn đam mê đến suốt một đời, kéo dài niềm luyến ái và nỗi đau như câu thơ của ai đó“Nhớ nhà châm điếu thuốc/Khói huyền bay lên mây” nhưng khác một chút, có thể gọi là, nhớ tình châm điếu thuốc/ khói huyền loan trên tay:  


Hồn thôi bỏ mặc cho sương xuống
thương nhớ không vàng giọt nắng hanh
Dừng chân dưới cột đèn châm thuốc
không gió mà tay lạnh rất đầy

( Chiều Mưa Uống Rượu)


Người ta thích nói “thương nhớ làm vàng  nắng chiều”, mấy ai nói “Thương nhớ không vàng giọt nắng hanh” như Tần Hoài Dạ Vũ ?. Giọt nắng hanh mà không vàng được, bởi thương nhớ đã làm cho mòn mỏi tâm hồn. Giọt nắng không vàng được, bởi sinh khí của tình yêu đã hết. Nó không hết bởi không còn yêu nữa, mà hết bởi niềm đau cùng tận khiến cho con tim yêu chỉ còn thoi thóp thở. “Tay lạnh đầy” không phải vì gió lạnh mà vì châm điếu thuốc. Khói của thuốc làm tay lạnh, vì khói ấy quyện trong và với kỷ niệm một thời. Đốt thuốc không phải vì thèm thuốc, đốt thuốc để nhớ ngày xưa. Nhớ ngày xưa nên đốt thuốc dưới cây cột điện cô đơn, với tâm hồn đã sương xuống lâu rồi. Thơ như thế không phải thơ diễn ý mà là thơ nhập hồn. Nó là loại thơ lên đồng mà con đồng vẫn tỉnh táo. Nó thăng hoa trong nỗi đau và nó thành thi ca như con nhộng rúc vào trong chiếc kén của mình. Nhộng sẽ chết trong kén và người kéo tơ để nhìn tơ đẹp chính là ta, là bạn đọc bài thơ.

Thơ tình của Tần Hoài Dạ Vũ là thứ “thơ tình không có tuổi” như thi sĩ đã tâm tình:


Qua năm tháng dầu tuổi có già đi
                             nhưng tâm hồn tôi vẫn vậy
Vẫn đắm say cuộc đời như lúc thanh niên


Quả vậy, thơ tình của Tần Hoài Dạ Vũ có dòng thơ “Giọng buồn của tượng”, Nó như ngọn gió đưa tình sử bay vèo. Rồi tình sử đó hóa thành tượng trong hồn. Tượng đứng cô đơn thương tiếc cho một thời vụng dại. Bài thơ có 16 câu, xin vui lòng cho tôi rút ngắn:


...“Công viên buồn tượng hồn tôi dựng đó
Khi vàng bay lá nhớ chớm sang mùa”
...“Tôi sẽ khóc bằng con tim của đá
Ru êm đềm theo những bước đêm trôi
...“Trên bệ cao trọn kiếp này đứng rũ
Từng đêm nghe gió lạnh thổi trong hồn”

              (Giọng buồn của tượng)


Tượng ở ngoài đời đặt nơi công viên thì lạnh. Tượng đặt ở trong hồn tưởng ấm mà lại lạnh hơn!. Đá không có con tim nên đá khóc chỉ vì sự tưởng tượng của người. Người có con tim máu đỏ nhưng lại khóc bằng con tim của đá. Khóc bằng con tim của đá vì nỗi đau cô đọng, quắn lại, khô cứng, thê thiết biết bao! Ở đây, thơ đã làm tình yêu thành tượng và thơ đã làm cho tượng chảy thành tình yêu. Đó là phép biến hóa của thơ, hay nói đúng hơn là thiên tài của người thi sĩ!

Tần Hoài Dạ Vũ thích đá, anh khóc bằng con tim của đá và anh yêu cũng bằng con tim của đá:


Có một buổi ta nằm say trong đá
Hồn theo em mây trắng phía chân trời
Rồi ngàn buổi giấc mơ đầy bướm lạ
Đá không lời mà lệ hóa sao rơi…

     ( Lệ Đá)


Ai đã một lần nằm cô đơn, nhìn bầu trời rất thấp, với trăng sáng, với mây bay, với sao rơi thì sẽ cảm nhận hết cái vô cùng lãng mạn của bài thơ. Nhà thơ đã hóa thành đá. Đá bị chôn chân một chỗ để nhìn tình yêu thơ mộng, bao la bát ngát vây quanh mình, rồi sau đó bay đi, đến tận chân trời nào xa thẳm. Rồi bỗng nhiên đá khóc, lệ lại thành những áng sao rơi. Nghịch lý chăng? Không, hư cấu trên cả hư cấu. Hãy hình dung từng giọt nước mắt lăn tròn trên đá, rồi từng giọt nước mắt nầy phản chiếu những ánh sao rơi. Ánh sao rơi sáng trên bầu trời sẽ long lanh trong nước mắt. Đẹp biết bao và tha thiết biết bao!. Chúa Jesus phán rằng:”Nếu loài người không tôn vinh ta, ta sẽ làm cho đá cũng biết nói để tôn vinh ta”. Vậy đá mà yêu, đá mà khóc thì cao quý hơn người! !  Đá yêu, đá khóc, đó là con tim của nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ.


Tần Hoài Dạ Vũ yêu Huế. Anh là dân Quảng Nam nhưng tuổi thanh xuân ở Huế. Anh học Quốc Học, Đại học Huế, rồi vào đời lập nghiệp ở Huế. Anh từ giã Huê trong biến động của tâm hồn, để lặn lội 30 năm sau ngày xa Huế, viết về văn học dân gian Quảng Nam- Đà Nẵng. Trong lận đận hai phần đời người, nhà thơ vẫn giữ Huế trong lòng để nhớ khôn nguôi:


Và nhớ giữ lại cho ta
Những buổi sáng mù sương trắng áo
Vai cầu nghiêng một nét xuống trang thơ
Dòng sông xa sương trải lụa đôi bờ
Giọng hò đỡ tôi lên từ những ngày niên thiếu

                       ( Từ Biệt Huế)


Nhớ để rồi hẹn quay về:


Anh sẽ về một sáng mùa thu
sông Hương còn trắng những sương mù
áo em trắng nhịp cầu thương nhớ
bóng ngã lòng anh câu hát ru


Anh sẽ giong thuyền trên nước xanh
chở trăng Gia Hội vào Nội thành
soi nghiêng mái tóc thề Tôn nữ
thiếp giữa một vùng hương mỏng manh

                                ( Hẹn Về Với Huế)


Huế của Tần Hoài Dạ Vũ một màu trắng: sương trắng, cầu trắng, áo trắng, và không chỉ có vai cầu, mà tất cả “nghiêng xuống” trang thơ của anh, đỡ anh đứng dậy, và cho anh thiếp vào một “vùng hương mỏng manh” mỗi khi nhớ đến nó. Đọc Huế trong thơ Tần Hoài Dạ Vũ và nhìn Huế ngày nay, tôi muốn bật khóc. Bởi vì "dấu xưa xe ngựa" không phải "hồn thu thảo" mà hồn nó đã tân thời quá lứa, "nền cũ lâu đài" không phải "bóng tịch dương", mà nền cũ lâu đài có nơi thì bệ rạc, có nơi sơn quết mới một màu phồn hoa lòe loẹt và hợm hĩnh... 


Tần Hoài Dạ Vũ còn có dòng thơ “Đi tìm sự thanh bình”.

Một đời anh ao ước thanh bình, dấn thân cho thanh bình, để phải mang nhiều hệ lụy, đến nỗi anh phải viết Di ngôn. Bài thơ có 20 câu, tôi xin rút ngắn:


...“Rồi anh sẽ gối đầu lên giấc mộng
Ngủ quên đời trong giường mộ bình yên”
...“Xin em hãy liệm anh bằng tiếng hát
đắp mặt anh bằng mái tóc em buồn”
...“Em có nhớ, thắp hương bằng nước mắt
Ngọt vô cùng anh sẽ uống no say”
...“Và em hãy viết thư bằng cổ tích
Đừng nhắc chuyện quê hương chinh chiến hận thù
Anh sẽ tưởng hồn anh không xiềng xích
Bay tìm em dù gió cát, sương mù”

               (Di Ngôn)



"Di ngôn" cho ta thấy linh hồn nhà thơ bị xiềng xích. Xiềng xích khi còn sống và có lẽ cả khi đã qua đời. Nhà thơ phải nhờ em “liệm anh bằng tiếng hát”, “đắp mặt anh bằng mái tóc em buồn”, “thắp hương bằng nước mắt”,  vì như vậy thì họa may anh mới “tưởng rằng” linh hồn anh không còn xiềng xích nữa. Điều đó cho thấy anh “đi tìm sự thanh bình” suốt một đời không có được.

Thơ Tần Hoài Dạ Vũ còn thể hiện một tâm hồn thánh thiện với lòng bao dung vô bờ bến. Anh có dòng thơ “Thơ Tặng Lòng Bao Dung” trong đó có những bài thơ như “Thư gửi một người lỗi lầm” kết tủa lệ của anh thành từng chuổi hạt vị tha, vừa long lanh nhưng cũng vừa giá buốt:

"Đừng nghĩ tới những nỗi đau buồn phải gánh chịu. Bằng sự gội rửa tâm hồn em sẽ trở nên giá trị hơn với chính em.

...Đừng chán nản vì ngày vui ngắn ngủi còn nỗi buồn thì muôn trùng, em thân yêu."

                         (Thư gửi một người lỗi lầm)

Đọc thơ Tần Hoài Dạ Vũ, tôi có cảm tưởng anh đi một mình suốt cả cuộc đời. Bước đi một mình, một mình bước đi. Thơ anh qua sa mạc, qua rừng, qua phố, qua cả một đời trong chiếc bóng lẻ loi của mình. Hạnh phúc anh có được không phải là sự đoàn tụ; niềm vui anh có được không phải là sự đoàn viên, mà là những gì sót lại, rơi ra, nhà thơ nhận nó cho riêng mình:


Cái nắm tay bên cửa sổ toa tàu
như nốt nhạc rơi bên ngoài nỗi nhớ
như thời gian rơi bên ngoài đổ vỡ
kỷ niệm đầy vị ngọt của tương lai


Những dòng sông trôi đi, cuộc sống vẫn còn dài
cơn gió cũ qua rồi đời vẫn mát
một góc phố một khoảng trời xanh ngát
lại đưa ta về trong mắt của tình yêu.

                ( Những cuộc chia tay và trở lại)



Vâng, nhà thơ lượm cái rơi bên ngoài nỗi nhớ, lượm cái rơi bên ngoài đổ vỡ, để cho cơn gió cũ qua rồi lại làm mát lòng khi nhớ về một góc phố, hay một khoảng trời đã mất. Đó là Tần Hoài Dạ Vũ. Tôi đọc và hình như tôi thấy anh chỉ có hai bàn tay trắng với nỗi cô đơn trùm lên cuộc đời. Cuộc đời Tần Hoài Dạ Vũ là một cuộc dấn thân vào chốn bụi mù, đi tìm thanh bình cho đời và đi tìm văn học cho quê hương.



Thơ Tần Hoài Dạ Vũ như một vườn hoa có quá nhiều bông hoa đẹp. Tôi nhắm mắt để bốc đại, được bông nào thì ngắm nhìn bông đó, viết về bông đó. Để nói về nhà thơ nầy, phải có hàng trăm trang giấy, chưa nói đến phải có hàng ngàn trang viết.

 Hy vọng tôi sẽ còn nhiều cơ hội để viết nữa về anh./.

                                       

                                 CHÂU THẠCH





1 nhận xét:

Đỗ Văn nói...

DVD sang thăm nhà, được đọc bài viết hay của nhà phê bình văn học Châu Thạch vể thơ của nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ!
DVD cảm ơn và chúc chủ nhà NHAMY an lành!