CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 31 tháng 8, 2017

NGUYỆT THỰC - THƠ LÊ KIM THƯỢNG


Sinh Lê
Tệp đính kèm18:38 (12 giờ trước)

tới tôi 
GỬI NHÃ MY

TÔI TIẾP TỤC CỘNG TÁC VỚI BÀI THƠ TÌNH 2017 - CHÚC VUI KHỎE

NHA TRANG, 31/08/2017 - LÊ KIM THƯỢNG



                                LÊ KIM THƯỢNG  gửi  “NHÃ MY”                                         
                                                
THƠ  TÌNH    2017   




Kết quả hình ảnh cho ẢNH THIẾU NỮ VÀ TRĂNG





NGUYỆT   THỰC



Đêm Thánh lạnh qua vườn em nguyệt thực
Hồn nhiêu khê môi mắt thật vô tình
Tinh tú đó sáng danh niềm hạnh ngục
( Em lưng trần nằm mộng với yêu tinh… )

Con sông nhỏ chảy xuôi thềm trái đất
Chẻ muôn dòng mưa lũ xuống trăm năm
Em sẽ khóc nỗi buồn vui được mất
( Ngoài chân mây ta ngậm ngãi tìm trầm… )

Khi đời sống là trùng trùng vinh nhục
Như con quay xoáy buốt giữa lòng đời
Ta là ta, nôn nao niềm uẩn khúc
( Em là em, mùa xác rã thân rời... )

Khi tiền kiếp xốn xang ngày xá tội
Lời than em thấm đậm thấu tim người
Là thánh thể xanh xao lòng sám hối
( Ngày qua ngày, sao lòng rặt hổ ngươi… )

Trời mưa Ngâu rụng rơi mùa hôn ước
Cõi nhân gian sao người giận chi người
Anh mê mãi theo bóng đời xuôi ngược
( Em cô đơn ngồi thả tóc xanh trời … )
                          Nha Trang, tháng 9. 2017
                              LÊ  KIM  THƯỢNG

Thứ Hai, 28 tháng 8, 2017

DỊU DÀNG THÁNG BA - THƠ NHẬT QUANG


nhat quang <nhatquang18@gmail.com>
Tệp đính kèm18:12 (14 giờ trước)

tới tôi 
Kính chào nhà thơ Nhã My!

Trước hết Nhật Quang gởi lời kính thăm sức khỏe của chị, chúc chị luôn vui khỏe, hạnh phúc!
Em gởi chị bài thơ DỊU DÀNG THÁNG BA mong được chia sẻ tới các thi hữu và bạn đọc.

                                                                                            Trân trọng cám ơn chị!
                                                                                                     Nhật Quang



Ảnh minh họa do tác giả gửi

DỊU DÀNG THÁNG BA

Trời ươm sợi nắng hanh vàng
Em hong vạt tóc mượt màng làm duyên
Gió la đà quyện góc hiên
Phất phơ áo lụa bay nghiêng thẹn thùng

Chân ai, gót bước chập chừng?
Vườn xuân mở lối xin đừng vội qua
Điệu đàng, e ấp dáng hoa
Xuân non mơn mởn tháng Ba vỗ về

Chạm hồn ngả giấc si mê
Ủ ươm mơ mộng...tóc thề vấn vương
Giơ tay níu vội niềm thương
Nâng niu hoa ngát làn hương dịu dàng.

                           NHẬT  QUANG
                            (Sài Gòn)


NM rất vui và hân hạnh nhận được bài thơ hay của Nhật Quang.
Cảm ơn nhà thơ đã chia xẻ và mong nhận được thêm nhiều bài cộng tác với blog của NM.

Chủ Nhật, 27 tháng 8, 2017

Thứ Bảy, 26 tháng 8, 2017

LỐI CŨ ÂN TÌNH XƯA - MẶC PHƯƠNG TỬ


tong minh
Tệp đính kèm14:15 (7 giờ trước)

tới tôi, Dao, Lê, aocuoitruonghue




Hình ảnh có liên quan




LỐI CŨ ÂN TÌNH XƯA

                                 Mùa Vu Lan Báo Hiếu


“ Một hôm, Tôn giả Xá Lợi Phất đi trì bình khất thực trong thành Vương Xá, khi ngang qua một khu vườn, trong vườn có người Bà La Môn làm vườn tuy nghèo khó và tuổi đã cao, nhưng phải đổi lấy sức già để được có chút vật thực nuôi thân qua ngày, ông thấy Tôn giả ôm bát đi ngoài ranh vườn, liền đến thăm hỏi thân thiện, và để biết sự việc, sau đó ông để vào bát một phần thực phẫm mà ông có được phần thọ dụng trong ngày, Tôn giả chứng minh và chú nguyện phước lành cho ông. Và rồi cũng từ đó thời gian đã trôi biền biệt giữa Tôn giả và ông lão Bà la môn làm vườn.

Một ngày đẹp trời, ông Bà la môn ấy đến gặp Đức Phật tại Tinh Xá Kỳ Viên ( Thành Xá Vệ) và xin Phật được xuất gia, Phật quán xét thấy ông ta có thể đắc quả Thánh, nên mới hỏi trong đại chúng có ai đã chịu ơn với người Bà la môn nầy lần nào không ? Khi ấy, Tôn giả Xá Lợi Phất đối trước Đức Phật và đại chúng mà thưa rằng : Có lần con khất thực trong thành Vương Xá, người Bà la môn kia đã để vào bát của con một phần thực phẫm mà ông đã có được trong ngày ! Lúc ấy, Phật liền dạy: Vậy ông hãy tiếp độ người Bà la môn nầy và được làm phép xuất gia. Thời gian không bao lâu, được sự hướng dẫn của Tôn giả, người Bà la môn ấy được đắc quả A La Hán trong giáo pháp giải thoát của Phật.”

Từ câu chuyện được kể trên, chúng tôi muốn nói đến một việc trong những sự việc dù đã, hay đang xảy ra trong bối cảnh đất nước còn chiến tranh hay ngay bây giờ. Chuyện được kể rằng: Ở thời điểm trước đây, khi chiến tranh còn leo thang và ác liệt, sống trong nỗi lo âu, sợ hải ở một vùng miền quê xa xôi, việc cơm áo dù có khó khăn, nhưng sự sống chết, ly tán, đau thương mất mát đưa đến bất ngờ đầy nghiệt ngả. Nơi ấy có một người mẹ bị bom đạn cướp đi mạng sống, cha thì phải bôn ba xứ người để tìm áo cơm, còn bé trai mới lên 6-7 tuổi, phải nhờ đến các cô Ni nuôi dưỡng lo cho cái ăn, cái mặc rồi đến trường để tìm con chữ cho mai sau.

Cơm áo, tiền nông cũng không phải dễ dàng có được trong thời buổi xã hội còn lắm nhiễu nhương nầy. Vã lại, có được đồng tiền chân chính lại càng khó hơn. Với một rổ bánh, một lố nhang thơm, đội nắng đội mưa ngày ngày hai buổi kiếm sống, tháng năm mòn mỏi lê kiếp thân nghèo, áo vai bạc màu sương gió, ánh mắt hoen bao lớp bụi phong trần, lo cho bản thân và cháu, chỉ ước mơ cho cháu sau nầy nên thân, nên phận với đời, và để biết cảm thông sâu xa cho những ai một đời cũng sớm mất mẹ và hiểu mà nhớ ơn đền ơn đối với những ai đó đã trót một đời lo cho mình và vì mình.

Thời gian lặng trôi qua bao khúc quanh, bao bước ngoặc của dòng chảy cuộc đời, thăng trầm, thịnh suy, vinh nhục bao độ của thế nhân, ngược xuôi giữa cuộc sinh tồn tạm bợ, say khướt theo ảo huyền mộng thực. Người cháu, người học trò xưa giờ đã thành danh thành phận, ôm lấy những mảnh giấy học vị (văn bằng) mà nơi ấy đã hóa thân từng con chữ, từng lời, từng câu, từng nhịp thở của buồng phổi, từng ý niệm của khối óc con tim của quí Ni, của người thân và của Thầy-Cô. Nhưng nào phải bao nhiêu việc đó thôi đâu ! Khi có được mảnh giấy danh phận ấy, để rồi được bao nhiêu lợi dưỡng trong cuộc phù sinh mỏng manh tạm bợ, thỏa mãn với bao ước vọng khoái lạc của trần tục tầm thường, thoáng chốc rồi cũng thành sương khói, rồi còn gì cho ta, cho người ! Có biết đâu rằng: Những nỗi vui buồn lẫn vào tháng năm cơ cực, lắm nỗi lo toan cơm áo sớm chiều, một nắng hai sương gót lê kiếp nghèo tất bật, chiết từng ước mơ thuở ấy, đã thấm mặn bao giọt lệ tinh khôi khi còn cái thuở quê nghèo lưng trần chân đất bạc phếch áo vai gầy.v.v.. Để cho có được ngày mai, cái ngày mai đã thấm đẫm tất cả…vào mảnh bằng mà người cháu, người thanh niên này nay có được.

Rồi một sớm trở lại quê hương, cái cảnh lên xe, xuống xe, kẻ đón người đưa, trông ra bây giờ không còn như thuở hàn vi xưa kia nữa, từ cái đi, đứng, ngồi nay đã chuyển sang lắm vẻ dáng màu danh phận, đến cái ăn mặc, nói năng cũng khéo vẽ nên hình thức địa vị… Làm cho chúng ta nhớ lại thi sĩ Nguyễn Bính đã ưu tư :
                          “Hôm qua em đi tỉnh về
                   Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều…” (Chân Quê)

Cái cảnh tha hóa đổi thay vốn không có gì đáng trách trong thói đời thường tình. Nếu có chăng, bởi sự cảm thụ tri kiến lại rót nhằm vào tờ lá sen mà nơi ấy không có sự thấm đẫm và giữ lại, càng thêm nhớ xa hơn nữa từ lời của một đại sư Tịch Thiên (Shantideva) đã khuyên nhắc và giúp chúng ta làm để có được những điều lợi lạc: “ Hãy khởi tâm hành thiện, hoặc khởi tâm đối trị (bất thiện) như cúng thí vào 3 ruộng phước là ; Kỉnh Điền (Tam Bảo),  n Điền (Cha Mẹ) và Bi Điền ( Mọi người nhất là những người nghèo khó) thì sẽ được phước lớn” (Nhập Bồ Tát Hạnh,V.81 ).

Điều muốn nói ở đây, không nhất thiết phải đề cập đến Tam Bảo, trọng tâm thứ nhất ở chổ xác định một tính cách “nhân bản” của con người, tính nhân bản ấy đã được thiết lập trên hai nền tảng cơ bản đó là ; Sự nhớ ơn và đền ơn cha mẹ, đến những người nuôi dưỡng, cưu mang về mình và thứ đến, nói lên tình người trong cái nhìn có sự hiểu biết, yêu thương và cảm thông cùng kiếp sống như ta và nhất là những người có đời sống bất hạnh hơn ta.

Có được nền tảng cơ bản ấy chính là một nhân cách sống lành mạnh trong sáng, như thế, ta đối với Tam Bảo mới có thể nói lên sự cung kính toàn mãn, bởi vì có biết ơn và đền ơn cha mẹ, có lòng thương tưởng đến mọi người và rộng hơn là mọi loài, thì chính ở đây đã có âm hưởng sâu sắc đến đời sống có văn hóa, phải đâu từ những mảnh bằng kia, nó chỉ là tri thức suông, mà chính hành động có đạo tình đạo nghĩa, luôn nhớ ơn và đền ơn, đó mới thật chất người, là cái hồn của văn hóa. Mà cũng là sự nương tựa và kính trọng Tam Bảo.

Vì rằng ; Tam Bảo là điểm nương tựa, trở về, là mục tiêu phục vụ đem lại sự an lạc hạnh phúc  lâu dài cho chư thiên, chúng sanh và loài người.

Trong một lời dạy khác của Đức Phật như sau :

“ Nầy các Tỳ kheo, thế nào là địa vị không phải chân nhân ? người không phải chân nhân, nầy các Tỳ kheo, không biết ơn, không nhớ ơn. Đối với những người độc ác, đây là đặc tánh của họ được biết đến, nầy các Tỳ kheo, tức là không biết ơn, không nhớ ơn. Đây hoàn toàn là địa vị không phải chân nhân… Còn bậc chân nhân, nầy các Tỳ kheo, là biết ơn, là nhớ ơn. Đối với những thiện nhân, đây là đặc tánh của họ được biết đến, nầy các Tỳ kheo, tức là biết ơn và nhớ ơn…”
                                                                    (Kinh Tăng Chi, IV, 118-119).

Ngang qua lời dạy trên, chúng ta thấy Đức Phật đã khẳng định qua hai tính cách, hay một lời xác chứng về đặc tánh của các bậc thiện nhân cũng như những ai được coi là phi chân nhân. Sự kích hoạt chất liệu ấy phải được nói lên bằng cử chỉ, hành động việc làm, ý tưởng như thế nào của con người đó. Như vậy, nhớ ơn, biết ơn là một ký hiệu đặc tánh của các bậc thiện nhân hay chân nhân và trái lại, không biết ơn, không nhớ ơn cũng là một ký hiệu đặc tánh dành cho những ai được xem là phi chân nhân, chưa trọn hình người.

Sống giữa đời thường, cho dù một tổ chức, đoàn thể, đảng phái chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo.v.v… Thì tính cách nhân bản phải được nói đến như là một nếp sống, y cứ chuẩn mực tiêu biểu từ tính thể con người. Nếu tự thân chỉ biết lợi dưỡng để thỏa mãn những ước vọng thèm khát thường tình thấp kém, lấy địa vị danh xưng hay chút khả năng mọn có được để làm mục đích trú ẩn và tự mãn, ta xem đây là nguyên nhân nẩy mầm những bất thiện và có khả năng nguy cơ bất ổn, mất thăng bằng trong xã hội nói chung, và trong mỗi tổ chức đoàn thể và cho dù đó là một tổ chức tôn giáo, hay chính trị.v.v….

Những ơn nghĩa đạo đức được sống như là một sức mạnh tất yếu và thực sự được tôn vinh từ mỗi con người, thì giai cấp, địa vị, chức danh sẽ trở thành một bổn phận đúng nghĩa, có tư duy chân chính trong mọi hành xử và phục vụ, còn nếu như ân nghĩa, đạo đức, nhân tính và sự tôn vinh không đúng “ như pháp”, không chiết xuất từ tâm lực, niệm lực của bậc Thánh, bậc chân nhân, thì nó sẽ biến thành những độc tố nguy hại tàn phá vào tận gốc rể của cây đời và cho cả bao đời tiếp nữa.

Tóm lại, tánh cách của người biết ơn, nhớ ơn hay những vong bản vô ơn, cả hai đều tồn tại trong đời, nhưng điều gì tồn tại mà được ca ngợi, tán thán của người có trí chân chánh, thì chính đó là “lõi cây”. Những gì tự thân đã thọ nhận dù trước đây hay bây giờ để tiếp sức cho máu tim, những con chữ làm nên hiểu biết, không chỉ về pháp thượng nhân để tự điều phục chính mình mà còn phải hiểu biết sâu xa tận cùng vào trong từng mảnh đời giữa cuộc sinh tồn nhân thế, có gần gũi để thương yêu giúp đỡ, để lắng nghe, cảm thông và chia sẻ bao tâm tình, xem như là một nghĩa cử tri ân, nhớ ân mà câu chuyện về Ngài Tôn giả Xá Lợi Phất đã được nói đến, nhớ và biết mình có thọ nhận chỉ một phần thực phẫm trước đây từ nơi vị Bà La Môn già xưa mà mọi việc đã trở thành đạo nghĩa cho ngàn đời. Trái lại, với thái độ từ người thanh niên có mảnh văn bằng đã được đề cập ở trên, đủ để cho chúng ta tự thẩm xét lại chính mình. Ngày nay, chúng ta cũng không ít ưu tư về những tư duy ấy, dù cổ xưa nhưng vẫn đẹp bền, còn để lạc mất đi hay quên lãng bao chất liệu ấy thì khác nào như bị những loài cỏ hoang dại khõa đầy trên những lối mòn xưa cũ.. Để kết thúc, chúng ta cùng đọc lại lời Phật dạy:


“Người trị thủy dẫn nước
Kẻ làm tên, nắn tên
Người thợ mộc uốn gỗ
Bậc trí nhiếp tự thân”      PC. 80.


Long Xuyên, 12.01.2013

MẶC PHƯƠNG TỬ.

Thứ Sáu, 25 tháng 8, 2017

ẤM MÃI LỜI RU - THƠ TRÚC THANH TÂM

Kính gởi: nhà thơ Nhã My ( Ấm Maĩ Lời Ru - thơ Trúc Thanh Tâm ) 
Hộp thư đến


TrucThanhTam Truc
22:18 (21 giờ trước)

tới tôi 
 thơ Trúc Thanh Tâm
      




ẤM MÃI LỜI RU

* Tôi bây giờ không còn 2 đấng sinh thành. Nhân Mùa Đại Lễ Vu Lan 2017, xin đăng lại bài thơ " ẤM MÃI LỜI RU " tôi đã viết trên 40 năm để cùng chia sẻ với Người thân và bạn bè của mình.

    Giữ trong đời cái chân chất yêu thương
    Như gió chiều quê ôm lời ru mát rượi
    Mẹ ta đó bộn bề trăm nỗi
    Áo sờn vai nuôi ta lớn nên người !

    Tôi vào đời lời ru mãi trong tôi
    Thêm nghị lực trên bước đường đi tới
    Tôi xa xứ mang lời ru chan chứa
    Chợt bùi ngùi nhớ dáng mẹ già nua !

     Lời mẹ ru đâu dễ phôi pha
     Dẫu vết cắt thời gian làm tim tôi rỉ máu
     Lời mẹ ru vượt ngàn giông bão
     Đưa ta qua bến ấm cuộc đời !

     Dẫn ta vào thời thơ ấu rong chơi
     Để bay đến khoảng trời xanh mơ ước
     Lời mẹ ru đồng lúa hương bát ngát
     Tôi say sưa tắm mát nước sông đầy !

     Chiếc cầu tre, vườn trái, cánh cò bay
     Yêu biết mấy làng quê, chiều vương sợi khói
     Men lối nhỏ vào đời, tôi chưa mỏi
     Mỗi bước chân như dán chặt lời ru !

     Đất nước ta qua hết cuộc mây mù
     Đêm trăng sáng, giọng hò ai dìu dặt
     Câu vọng cổ muồi tai ngây ngất
     Không gian chìm trong nỗi nhớ chơi vơi !

     Tôi nên người, nhớ mãi thuở nằm nôi
     Dòng sữa mẹ chạy đều trong cơ thể
     Hạnh phúc nhất khi mình còn mẹ
     Được nghe lời trìu mến của cha !

     Yêu quê hương, tình xứ sở, ruột rà
     Bên ngôi trường nhỏ vang vang lời trẻ
     Tôi nhìn lại tuổi thơ mình để nhớ
     Lời ru buồn vượt mãi với thời gian !


      Quê mẹ Bạc Liêu, 1974
    TRÚC THANH TÂM

Thứ Năm, 24 tháng 8, 2017

NHỚ NGÀY GIỖ MẸ - THƠ MẶC PHƯƠNG TỬ

tong minh
Tệp đính kèm14:15 (7 giờ trước)

tới tôi, Dao, Lê, aocuoitruonghue







NHỚ NGÀY GIỔ MẸ.





Mẹ ơi !
Bây giờ là tháng 9, mùng 3
Mây trắng vẫn thênh thang lùa vào nỗi nhớ
Phương trời cũ,
Biết đâu tìm hơi thở
Bóng mẹ mùa thu đổ xuống bóng hoàng hôn !

Mẹ ơi !
Bây giờ là tháng 9, mùng 3
Con lặng lẽ
Bên thềm thu gió về hiu hắt
Mang mang nửa khung trời, nửa vòng trái đất
Còn nửa quê nhà, hoang tái bóng chiều sa.

Mùa thu
Một thoáng đã ba năm, 
Nhớ ngày mẹ mất !
Vầng trăng sơ huyền chưa kịp sáng bên trời
Nên mẹ đi không để lại một lời
Và đương lúc con vẫn còn phiêu bạt.

Ai đâu hiểu hết nỗi đời lưu lạc !
Cánh chim chiều
Vừa chếch bóng buổi nghiêng chiều
Ai đâu phủi hết bao nỗi buồn sương cát !
Trên vai gầy, và trên cả bước cô liêu.

Bây giờ
Con đâu còn có mẹ
Để nghe tiếng hát xa xưa
Từ thuở tao nôi chín vàng chín đỏ
Đâu cái thuở mẹ còn coi nhỏ
Đâu nhịp võng đong đưa
À ơi…những trưa hè hiu hắt gió - lời ru…


Bây giờ
Mẹ đã thiên thu
Bây giờ
Con vẫn nhớ “từ ngôn” xưa.
Bây giờ trời đã sang mùa
Vầng trăng mẹ - vẫn sớm trưa trong lòng.

Mẹ ơi !
Tháng 9, mùa thu
Nhớ ngày giổ mẹ
Nén tâm hương dâng đến một phương trời
Trong khi con còn lưu lạc chốn quê người 
Trên vai gầy 
Bước tha hương nghe nỗi buồn hạt bụi
Vẫn trải lòng năm tháng với dòng trôi !

MẶC PHƯƠNG TỬ  

New Orleans, tháng 9 , thu 2014
                                                            

   NM cảm ơn Thầy Mặc Phương Tử đã chia xẻ bài thơ hay.                                                                     

  



Thứ Ba, 22 tháng 8, 2017

VỀ LẠI BẾN XƯA - THƠ TRÚC THANH TÂM

Thân gởi: nhà thơ Nhã My ( Về Lại Bến Xưa - thơ Trúc Thanh Tâm ) 
Hộp thư đến


TrucThanhTam Truc
20 thg 8 (1 ngày trước)

tới tôi 


  


 VỀ LẠI BẾN XƯA

    - Tặng chị Lộc Tưởng và anh Lương Thư Trung

 Xa người từ chuyến đò trưa
 Nghe sông hát những lời chưa muộn phiền
 Tóc dài nón lá che nghiêng
 Yêu người từ độ hẹn nguyền tóc tơ

 Tình mình đẹp tựa bài thơ
 Áo thơm hơi ấm mắt ngơ ngẩn tình
 Ráng chiều đỏ phía bình minh
 Khổ đau, hạnh phúc cứ rình rập nhau

 Cuộc đời là giấc chiêm bao
 Nên quên và nhớ xé rào nhân duyên
 Trần gian từ lúc đảo điên
 Hồi chuông rung động một tiền kiếp mưa

 Trở về tìm lại bến xưa
 Xa người thuở chiến tranh vừa nổi lên
 Lục bình tím khúc sông quen
 Và mùa xuân cũ chưa quên... tới giờ !


 TRÚC THANH TÂM
 ( Châu Đốc )


Thứ Hai, 21 tháng 8, 2017

CHÀNG LÙN NỂ VỢ - TRUYỆN NGẮN CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN


BAOTHANG_XUANXUYEN DANG
19 thg 8 (1 ngày trước)

tới Phu, tôi, Tran, Trác, Giống, bài_blog, Da, Xuân, Tongocthachhp, Vu, Thuong 







CHÀNG LÙN NỂ VỢ
(Truyện ngắn của Đặng Xuân Xuyến)
*
Về làm hàng xóm với nhau từ năm 1998, cũng ngót ngét 20 năm. Gặp nhau vẫn tươi cười chào hỏi, đẩy đưa mấy câu thân tình chẳng động chạm tới ai, kiểu con gà nhà em sáng nay bị cúm, con lợn nhà anh tối qua biếng ăn... Đôi khi hứng chí còn đấm lưng nhau thùm thụp, rồi nắc nẻ cười, có lúc bá vai nhau, mời nhau chén trà, điếu thuốc, chú chú anh anh ầm ĩ cả góc phố. Ấy vậy mà anh tên gì, bao nhiêu tuổi, nhà số bao nhiêu lão cũng chịu. Không phải lão ra vành ra vẻ, vì lão chả có gì để lên mặt ta đây. Lão không biết tên tuổi của anh, số nhà của anh chỉ vì bản tính của lão vốn ngại giao tiếp, lại thêm trí nhớ có vấn đề, cứ nhớ nhớ quên quên nên càng ngại quan tâm lý lịch của người hàng xóm. Lão sợ chuyện ông A “muốn yêu vợ” nhưng bị vợ “cấm vận”, lâu ngày, quá bí bách nên đêm đến lẩn ra đường Giải Phóng tìm mấy em có thói quen “tạo dáng bên gốc cây” để “tâm sự” cho “thoáng trên thông dưới” nhầm thành chuyện ông A “cấm vận” vợ khiến bà vợ bứt rứt phải nhảy sang nhà hàng xóm, thách ông hàng xóm “có giỏi thì đọ vòng eo” xem eo ai nhỏ hơn... Nếu thế thì thành to chuyện. Loạn phố Nguyễn Văn Trỗi. Lão chỉ có mỗi một cái đầu, chả dại.
Cũng có lần, lão nảy ra sáng kiến, mua cuốn sổ nhỏ nhỏ, đút vừa túi quần rồi tiện gì ghi nấy, làm cuốn cẩm nang tra cứu khi cần thiết nhưng rồi thấy như thế thì bất tiện nên thôi, phó mặc cho bộ nhớ có vấn đề của lão. Với lại, biết ghi chú thế nào khi ví dụ, anh (nhân vật chính, lão sẽ hầu chuyện mọi người) quá nhiều điểm giống mọi người mặc dù anh cũng rất nhiều điểm chẳng thèm giống thiên hạ. Chẳng hạn, cao mét 65 thì phố Nguyễn Văn Trỗi đếm vội cũng vài nghìn nhân mạng. Khuôn mặt rúm ró, dài thượt khi bị vợ quát, nét đặc trưng của khuôn mẫu đàn ông “biết điều với vợ” thì phố Nguyễn Văn Trỗi không vài nghìn ông cũng tròm trèm trên dưới hai hay ba, hoặc bốn nghìn nhân mạng. Nhưng nhất định, giữa vài nghìn đấng nam nhi tưởng chừng có rất nhiều nét hao hao giống nhau ấy chẳng cần nhìn kỹ cũng biết đấy là vài nghìn con người riêng biệt. Như thế, biết ghi thế nào để phân biệt anh với người khác?! Thế nên, lão quyết định cứ căn cứ vào ấn tượng ban đầu về người đó mà đặt tên, ví dụ như anh, đường ăn nết ở thuộc diện “lễ phép, biết nghe lời vợ” nên gọi anh là chàng lùn nể vợ, cho khỏi lẫn với mọi người.
*          *
*
Lão nhớ, hôm ấy, hình như là lão về nhập cư ở phố Nguyễn Văn Trỗi được chừng hai hoặc ba tháng. Lão ra quán nước đầu ngõ uống trà, để nghe ngóng tình hình khu phố mới giống và khác gì với khu phố cũ lão ở nên săm soi mọi chuyện khá kỹ. Hôm ấy, lão thấy anh diện lắm. Đầu vuốt keo láng bóng. Mặc quần sooc kẻ, áo phông màu mỡ gà, thắt cái nơ màu tím, trông hơi ẻo ẻo nhưng cũng bắt mắt, khá bảnh. Mỗi tội, lẽ ra quần ấy, áo ấy, đầu ấy... anh đừng thọc chân vào đôi giày đã toác mõm, thì hay. Đã thế, anh lại đem đôi chân có phần cò hương, ống sậy, cắm vào hai chiếc tất sợi trắng đã ngả màu, loang loang lổ lổ, roãng ra, tụt xuống tận cổ bàn chân... nên trông có phần tức mắt.
Lúc đấy, khi thấy lão vào quán, kéo ghế ngồi xuống, anh nheo nheo mắt nhìn, kiểu dân đàn anh đàn chị quen nhìn người khác bằng nửa con mắt dưới, rồi anh hơi nghiêng nghiêng mặt, tạo dáng kiểu “lửng lơ con cá cờ” của những chàng hotboy, trai đẹp đã quá tuổi được gọi là trai trẻ nhưng cố tạo dáng cho ra vẻ còn trẻ đẹp để lòe đời... Tóm lại, anh có cách tạo ấn tượng rất đặc biệt với thiên hạ. Mới về nhập cư, tuổi còn trẻ, chưa vợ nên lão thấy cách anh “tạo hình” cũng hay hay, lạ lạ, cũng có chút gì đó của chất nghệ nên tuy hơi buồn cười về gu thẩm mỹ có phần tạp nham, hổ lốn của anh nhưng lão cũng khoai khoái, muốn được làm quen, kết bạn. Thế nên, lão cố bắt chước anh để gây ấn tượng, ăn điểm. Lão cũng nghiêng nghiêng người, ngồi chân co, chân duỗi, tay cầm điếu thuốc, miệng nhả khói chữ o, mắt lim dim chữ a như đang mơ màng, lãng mạn kiểu chất chơi của trai thành thị. Lão cố làm cho thật tự nhiên, thật điệu nghệ... nhưng có lẽ, trông chẳng giống ai, buồn cười quá nên anh kéo ghế sát lão, vỗ vai, hỏi:
- Mới về sống ở đây hả? Chưa vợ à? Dân ngoại tỉnh mới về Hà Nội đúng không? Biết ngay mà. Gu thẩm mỹ dở hơi, cám hấp!
Lão hì hì cười, thật bả lả, cố tỏ ra là thằng xu nịnh, biết thân biết phận:
- Dạ! Em chào anh. Em còn ngu ngơ lắm. Rất mong nhận được sự chỉ giáo của anh!
Ngả đầu ra phía sau, rồi đưa tay vuốt vuốt mái tóc xịt keo láng bóng, anh nheo mắt, phán:
- Trai quê xịn hả? Đần thối mặt ra. Nhưng mà có vẻ thật thà. Chơi được.
Anh kéo dài tiếng “chơi được”, nghe lanh lảnh mà lạnh làm lão sợ sợ. Tuy vậy, lão vẫn cố cười thật tươi, xoa xoa tay, êm giọng:
- Anh giỏi thế. Mới gặp em lần đầu đã biết em là trai quê xịn. Bái phục!
Anh mân mê chiếc cằm nhẵn thín, bói cả ngày cũng không kiếm được cọng râu, mủm mỉm:
- Chuyện! Thế mới nói dân nhà quê có đeo mác thành phố thì vẫn hiển hiện chất quê một cục, vì lố.
Rồi anh giảng tràng giang về tố chất trai Hà Nội thế nào? Khác trai quê căn bản ở những điểm nào? Anh chốt, trai quê có cố bắt chước cũng không thể giống được trai Hà Nội xịn... nên đừng có học đòi mà thiên hạ chửi cho là “đã ngu lại còn cố tỏ ra nguy hiểm”. Tóm lại, anh nói nhiều lắm. Lão chăm chú nghe nhưng không thể nhớ hơn được vì dù đã rất cố gắng cũng không thể hiểu anh nói gì. Chỉ loáng thoáng câu anh phân trần rằng, cũng lâu rồi anh không về thăm quê Thái Bình, làm lão suýt buột miệng khoe: “Bà nội em cũng gốc gác, quê ở Thái Bình.” sẽ bị anh nghiêm mặt mắng là nhiễm nặng thói dân quê, “thấy người sang bắt quàng làm họ” thì ngượng chết. May. Lúc lão định khoe có tý chút đồng hương Thái Bình thì anh cao giọng khảng khái, từ bữa cố kỳ chân thật sạch ở cầu ao đầu làng, quyết trả lại hết chất Thái Bình cho đất quê để lên Hà Nội sống thì ngay từ hôm đó anh không còn là thằng con trai nhà quê nữa, mà hiển nhiên anh đã là trai thành phố rồi nên lão nín lặng, lảng nhanh sang chuyện khác.
Đang khoan khoái đổ người ngả vào lão, kiểu rất thân mật của con trai thành thị với nhau, cách như anh nói: Một tay quàng hờ qua eo lão, một tay vân vê điếu thuốc lá, một chân co lên, thúc thúc vào đùi lão, còn chân kia choãi ra, xoay xoay gót chân theo “bản nhạc” đang ư ử phát ra từ khoang miệng... anh đứng phắt dậy, khi nghe thấy giọng khàn khàn kéo dài:
- Này... Lại ra quán đàn đúm nữa cơ đấy.
Anh đứng hơi thẳng người, gần giống kiểu học sinh chào cờ đầu tuần, rồi giẫm giẫm vào chân lão, trả lời rất nhanh, hệt trẻ lớp 3 trả bài cô giáo:
- Đâu có. Chú này mới chuyển về khu phố nhà mình, muốn kết bạn với anh nên mời anh chén nước, điếu thuốc, nhỉ?
Thấy lão ngơ ngác, chưa hiểu, anh giẫm giẫm tiếp lên chân rõ đau, rồi gằn tiếng một:
- Chén nước, điếu thuốc... nãy là chú mời anh để kết bạn, nhỉ?
“Ồ. Tưởng gì? Thì ra là vậy. Sợ vợ đến suýt đái cả ra quần. Bố khỉ!”
Lão cố nhịn cười, cố thật thà lễ phép:
- Vâng! Chén nước nãy. Và điếu thuốc nãy là em mời anh đấy ạ.
Anh nhấm nhẳng, ra chiều ấm ức lắm:
- Thấy chưa. Bảo mà. Có bao giờ đàn đúm, hoang phí đâu. Sao chả chịu tin.
Thấy anh đứng co ro rúm ró, tội quá, định đỡ lời nhưng nhìn sang bên kia đường, thấy chị đang rung đùi, vắt vẻo ngồi trên xe máy, gật gù, gật gù cái đầu, rồi dài giọng: - “Có thật không?”, thì lão choáng, cuống lên:
- Dạ!... Không ... Không ạ!
Biết là hớ, vội tìm cách chữa cháy để cứu anh nhưng chưa kịp thì anh đã xô lão ngã, chỉ mặt, chửi:
- Mẹ mày! Thằng đểu! Hèn! Đéo thèm chơi với mày nữa! Hãm!
*          *
*
Thế rồi gặp nhau, chả thèm chào lại, anh còn bĩu môi khi lão chủ động làm lành. Cứ mỗi bận thấy lão vào quán là anh vội đứng dậy, phủi đít, nguây nguẩy bước đi, ra chừng khinh và ghét lão lắm.
Một bận, hiếm hoi lắm mới thấy anh có bạn ngồi cùng bàn rượu. Thực lòng, cũng muốn tránh mặt anh nhưng chị chủ quán cứ ời ời gọi nên lão đành tặc lưỡi bước vào. Quán đông khách, còn mỗi ghế trống cạnh bàn anh nên lão không thể không nhìn anh, không thể không gật đầu chào xã giao với anh cho phải phép. Thế nhưng anh chỉ liếc xéo một cái, rồi vênh mặt, hiếng mắt ra đường, bĩu môi rõ dài, chừng như muốn “chửi đổng” vào mặt lão: - Eo ôi! Tởm!....
Kệ. Lão thủng thẳng ngồi xuống và gọi đồ nhậu. Vừa nâng ly rượu lên môi, chưa kịp hít hà hơi rượu theo thói quen thưởng rượu của lão thì anh ngó sang, bĩu môi, khinh khỉnh:
- Kệch cỡm! Chả giống ai! Tởm!
Lão buồn cười, làm rơi chén rượu xuống bàn, bắn tung tóe rượu vào người bạn của anh. Chưa kịp nói câu xin lỗi thì lão nghe tiếng reo:
- Ô anh Thi! Đang mong gặp anh thì lại gặp ở đây. Anh thiêng thế!
Lão và Dân, bạn cùng bàn với anh, hồ hởi bắt tay nhau. Anh rụt rè, nhìn Dân, hỏi:
- Quen à?
Dân cười:
- Không phải quen mà là thân, rất thân của Dân đấy.
Anh ngoảnh mặt đi, vẻ không thích:
- Thế à? Sao chả nói trước.
Thấy Dân và lão tay bắt mặt mừng, hoan hoan hỉ hỉ, anh tỏ không vui. Rót chén rượu. Ực một hơi, hết luôn chén rượu, rồi anh ngoảnh mặt ra đường, hai tay chống đầu gối, mắt nhìn xa xa, ý chừng như muốn đuổi lão về bàn.
Không để ý thái độ của anh, Dân kéo lão ngồi xuống, liến thoắng:
- Thấy Quân bảo anh đã mua được nhà rồi, Dân mừng cho anh lắm. Chuyện anh với chị Phượng thế nào? Không thể quay lại với nhau được à? Uầy... Khi còn nghèo khó, sao người ta dễ yêu nhau, dễ thông cảm cho nhau? Vậy mà... khi đã có chút thành quả, người ta lại quay ra dò xét nhau, nghi ngờ nhau, khó thông cảm cho nhau.... Lạ nhỉ?
Anh cau có, gắt:
- Dân! Sao mày cứ thích bao đồng chuyện của người khác như thế! Có uống rượu nữa không, hay là về?
Dân nhìn lão, nháy mắt, cười:
- Về sao được anh Thi nhỉ! Lâu rồi Dân mới gặp anh Thi. Phải say mới được về chứ, anh nhỉ?
Biết tính anh, lão bảo:
- Cứ thoải mái đi anh. Bữa nay để em chi.
Anh gặng:
- Thật không? Hay lại như bữa trước?
Lão cười:
- Thật. Anh cứ thoải mái đi. Bữa này em chi.
Anh nhìn lão, nhìn Dân, rồi lại nhìn lão, ánh mắt lạ lắm, cứ như cú mèo săm soi con mồi vậy. Chừng như hiểu thắc mắc ở lão, Dân ghé tai, nói nhỏ:
- Anh ấy không thích ai quý mến Dân, tử tế với Dân.. nên mới thế, anh ạ! 
Lão thắc mắc:
- Sao oái oăm thế?
Dân thì thào:
- Tại mấy thằng bạn du thử du thực và mụ vợ quái thai nửa đực nửa cái của anh ấy... Thôi. Để khi khác Dân kể. Dài dòng lắm. Anh ấy nghe thấy là rách việc cho Dân lắm đấy.
Thấy Dân thì thào vào tai lão, anh hất hàm hỏi: - “Này, thằng bạn của Dân! Có phải thằng Dân nói xấu vợ chồng anh không?”. Rồi chẳng cần nghe lão trả lời, anh nhoài người lấy thực đơn, gọi la liệt rượu và đồ nhắm.
Chừng tiếng sau. Anh vươn vai, vuốt bụng, rồi hắng giọng:
- No rồi... Nhưng mà... Ê chủ quán! Cho thêm chai rượu và vài món lạ lạ nữa đi. Chả mấy khi được nhậu với tâm trạng thoải mái thế này.
Dân lẩm bẩm:
- Ông này lạ thật. Lúc đầu bảo anh không uống được rượu, chỉ nhâm nhi với chú một hai chén cho vui anh vui em thôi... Vậy mà giờ như lột xác, hùng hục ăn, hùng hục uống. Cứ như là đi ăn khoán, uống khoán vậy.
Anh rướn mắt, nhìn Dân, rồi hất hàm sang phía lão:
- Lúc đầu tưởng phải chi tiền nên anh nói thế nhưng thằng kia nó vừa nhận trách nhiệm sẽ chi tiền bữa nhậu này, dại gì anh không ăn không uống... Mẹ kiếp! Cho nó tốn tiền, hết sĩ!
Dân làu bàu:
- Ngồi giao lưu với nhau cho vui, cho tình cảm. Sao phải khổ sở thế anh!
Cầm chén rượu, anh gạt Dân, bắt lão cụng ly:
- Này! Thằng bạn của Dân kia! Mày có dám 100% với anh chén nữa không? Sợ à? Nhìn anh mày mà học.
Anh ngửa cổ, ực cái hết chén rượu.
Chưa kịp đặt chén xuống bàn, anh ngã uỵch cái xuống đất, rồi nôn thốc nôn tháo, mặt mũi anh be bét “sản phẩm hổ lốn” của bữa nhậu...
Dân cuống quýt lau chùi mặt mũi cho anh, rồi quay sang phân trần với lão:
- Anh ấy là anh con bác ruột của Dân dưới quê. Xưa tốt tính lắm nhưng từ ngày giao du với mấy thằng du thử du thực, bị mê hoặc thế nào mà đổi tâm tính, về đòi từ cha mẹ tổ tông, rồi bỏ lên thành phố ăn ở với mụ vợ quái thai nửa đực nửa cái nên mới ra nông nỗi này... Xấu hổ quá! Anh thông cảm nhé.
  Lão không nói gì. Cúi xuống, cùng Dân vực anh đứng dậy, dìu anh về nhà. Thỉnh thoảng, lại thấy anh cười khẩy, rồi nhếch miệng, lảm nhảm: - Chết chưa! Cho mày hết sĩ! Làm lão giật mình: Không biết anh giả say hay say thật?
*          *
*
Sau trận rượu ấy, anh và lão có vẻ thân nhau hơn nhưng lạ là chưa bao giờ anh mời lão vào nhà. Lão cũng thế. Chưa một lần có ý định để anh biết nhà biết cửa. Gặp nhau ngoài đường, gật đầu chào nhau rồi đường ai nấy đi, hiếm hoi lắm mới dừng lại hỏi han nhau vài câu xã giao này nọ.
Một bận, anh hỏi, lâu rồi sao không thấy Dân đến chơi? Lão thật thà trả lời chắc Dân bận kiếm sống nên không có thời gian thăm bạn bè. Ruộng không còn, nghề không có, mà tiền ăn tiền học của con cái với trăm thứ “phí” ngày một tăng, thật khó xoay xở …. Anh lắc đầu, nhún vai, rồi bĩu môi, không rõ biểu cảm đó là vui hay buồn, là vì chuyện của Dân hay vì thói quen anh làm vậy.
Rồi anh chèo kéo bằng được lão vào quán, gọi cút rượu, đĩa đậu luộc, khẩn khoản mời lão nâng chén. Nhấp chén rượu, anh khề khà, thấp giọng:
- Thấy Dân bảo cậu xem bói tay chuẩn lắm nên nhờ cậu xem giúp ngôi mộ nào hợp với tớ để tớ lo chuyện hương khói, kêu cầu cho đúng quy trình, phép tắc. Dạo này nhà tớ nhiều chuyện quá.
Lão suýt phì cười vì thái độ nghiêm túc, lạ lẫm với tính cách bặm trợn thường ngày của anh nên vội trả lời:
- Dân nói đùa đấy. Em biết gì đâu mà xem.
Anh bĩu môi:
- Gớm. Dân bảo cậu chỉ xem mồ mả đất cát khi đã có men rượu và xem khá chính xác nên tớ mới mời cậu uống rượu… Nhà người ta gặp chuyện, mới nhờ. Hàng xóm láng giềng với nhau, cứ làm bộ làm tịch... Chán.
Thấy điệu bộ giận dỗi của anh, lão đành thật mà giãi bày:
- Nói thật là em chỉ xem được đất cát mồ mả khi rượu đã phê phê và khi có hứng chứ rượu chưa phê, không có hứng thì em chịu...
Anh vội cướp lời:
-  Thế uống mấy chén nữa thì cậu sẽ phê? Dân nó bảo cậu uống rượu ghê lắm, những gần nửa lít mới xỉn… mà đi hết gần nửa lít rượu phải kèm thêm nhiều đồ nhậu lắm. - Rồi anh thấp giọng, nửa như tự nói với mình, nửa như cằn nhằn đủ để lão nghe - Người đã béo, ăn đéo gì lắm thế. Tốn mồi!
Như chợt nhớ ra điều gì, anh dồn dập:
- Này! Thế làm thế nào để cậu có hứng? Ở đây làm gì có em út? Mà ... Cậu có thể tưởng tượng ra chuyện gì đấy để tạo cảm hứng được không? Chứ ... Tôi thế này mà đi tìm gái cho cậu... Ngại chết!
Thấy lão cứ nhìn anh tủm tỉm cười, anh đỏ mặt, cuống quýt:
- Sao cứ cười thế? Cậu nói đi, làm thế nào để cậu có hứng? Tớ nghe các cụ bảo, trăm thằng đàn ông nói năng nhỏ nhẻ, khuôn mặt lại mềm mại như con gái thì đến 99 thằng là loại dâm ngầm và đểu giả... Nhưng cậu không giống thế. Nói chuyện cứ ông ổng ông ổng, mặt thì toàn thịt là thịt thì chỉ có thể là đểu vì ngu chứ dâm làm sao được. Chẳng lẽ...? Thảo nào... Dân nó bảo trông cậu thế thôi nhưng ghê lắm, không vừa đâu... Mà này... Sao cậu không cạn chén đi? Từ nãy đến giờ, vẫn chưa hết chén rượu thì đến bao giờ cậu mới phê? Hay vì mồi không đủ nhiều? Để tớ gọi thêm đĩa đậu lướt ván nữa nhé? Thời buổi này, thịt cá nhiều sợ lắm, thuốc tăng trọng ăn vào chỉ tổ rước bệnh. Dính ung thư như bỡn. Thôi, ta cứ rau với đậu cho nó lành, cậu Thi nhỉ?!
Rồi anh rót rượu.
Rồi anh e hèm, hắng giọng, trịnh trọng gọi thêm đĩa đậu lướt ván.
Rồi khi đĩa đậu lướt ván vừa được đặt xuống bàn, anh nhổm người, gắp một miếng, chấm vào bát mắm tôm, bỏ tọt miếng đậu vào miệng, lim dim mắt, nhai từ từ, từ từ...
Rồi anh duỗi duỗi đôi chân, căng bộ mặt rất chi là khoan khoái, hất hàm giục lão:
- Nhâm nhi đi cậu. Món này vừa mát vừa bổ, lại vừa an toàn, không lo bệnh tật... Kể cũng lạ! Người như cậu mà lại chơi thân được với thằng Dân nhà tớ. Thằng ấy nghèo là bởi nó thật, thật đến ngu tối. Mà cũng cả tin lắm. Người như nó rất dễ bị lừa. May nó là con trai chứ là con gái thì tháng vài bận phải đến bệnh viện phá thai là cái chắc.… Đã nghèo lại còn sĩ, còn cố cổ súy lối sống đạo đức, thanh cao. Tớ bảo nó bao lần rồi, thời buổi này mà tử tế chỉ có nước chết đói. Ngu lắm! Tưởng học cao, nhiều chữ đã là giỏi, là nhìn xa trông rộng. Tưởng đạo đức, tử tế là sẽ được trọng vọng. Xàm! Hãm! Cậu thấy đấy, các quan bây giờ, ối quan có cần chữ đếch đâu, cũng “giật gấu vá vai” từng chữ nhưng mặt quan nào quan nấy bóng nhẫy những chữ là chữ, mở khẩu hình ra là nhả chữ xối xả. Mà các ngài đếch thèm chuộng chữ latinh đâu, toàn là chữ tượng xế, tượng hộp... nghe méo mặt mà dân bố cu đếch hiểu các ngài nói gì vì chữ nghĩa các ngài dùng đâu để bọn dân đen các cậu hiểu, thế thì cá mè một lứa à? loạn xã hội mất?. Hôm nọ, tớ mới khai quật được một quan anh cũng kha khá, mặt mũi cũng những thịt là thịt, cũng hao hao như mặt cậu, nhưng mặt quan toàn thịt thớ ngang nên trông bự lắm, phốp pháp lắm. Cái mặt mà dân có chữ các cậu gọi là loại mặt thịt, quen ngồi xổm lên văn hóa, đạo đức ý... Quan gọi tớ đến, giao cho mấy việc cỏn con để thử thách, nếu làm tốt sẽ được thu nạp dưới trướng. Dựa vào quan anh đấy, chắc tớ sẽ kiếm được kha khá, sẽ bộn tiền, sẽ khiến khối kẻ rỏ dãi vì thèm... Mà cậu có biết những việc thử thách ấy là việc gì không? Nói kiểu như cậu hay thằng Dân nhà tớ là mấy việc mất dạy, thất đức, chỉ những thằng đầu trộm đuôi cướp mới dám làm... Uầy... Các cậu chỉ giỏi nâng cao quan điểm này nọ rồi sĩ diện hão! Thế nào là mất dạy? thế nào là thất đức? Xin thưa: Đấy cũng chỉ là những khái niệm, những phạm trù đạo đức do con người đặt ra nên không có khái niệm nào, phạm trù nào là tuyệt đối đúng với mọi người, là trường tồn, bất biến cả. Phàm những thứ gì con người đặt ra cũng sẽ do con người thay đổi. Đúng hay sai là do con người, do ý thức hệ của từng giai đoạn lịch sử. Ví dụ, hôm nay tớ làm sếp, tớ bảo con lợn nó kêu gâu gâu, con trâu nó kêu cục tác, con vạc nó kêu ủn ỉn... thì cậu sẽ gật đầu lia lịa, rồi vỗ tay rần rần, thề sống thề chết rằng, đúng là con lợn nó kêu gâu gâu, con trâu nó kêu cục tác, con vạc nó kêu ủn ỉn và đó là chân lý bất di bất dịch. Rồi cậu sẽ nhắng nhít tán nhăng tán cuội lên tận trời xanh đấy là “lời vàng thước ngọc”, là “kim chỉ nam cho các thế hệ noi theo”. Thậm chí, cậu còn hô hào vợ con, anh em, bè bạn sống và làm việc theo “thánh ca”: Lợn kêu gâu gâu, trâu kêu cục tác, vạc kêu ủn ỉn... Thế nhưng ngày mai, ngày kia, thằng khác làm sếp, tớ xuống làm thằng bố cu, cậu sẽ chửi tớ là thằng ăn quàng nói bậy, còn hò cả tên củ tên cái của ông cha tớ ra mà chửi... Chắc cậu sẽ hỏi sao văn hóa lùn mà tớ nói bài bản thế? Cứ như là báo cáo viên, tuyên truyền viên chuyên nghiệp? Những chữ lừa đảo, kiểu “hiếp dâm văn hóa” như thế đều do quan anh nhét vào mồm tớ chứ tớ biết đếch gì mà nói. Còn quan anh nghĩ ra hay quan anh thuổng của thằng nào thì tớ đếch biết, cũng không có phận sự phải biết... Hôm nay tớ mời cậu bữa rượu này để cậu giúp tớ xem ngôi mộ nào hợp với tớ, để tớ còn kêu cầu xin lộc cho đúng bài bản, đúng quy trình... Nôm na là chạy chọt cho đúng cửa, được việc mà đỡ tốn kém... Mà này. Dân bảo cậu cũng biết xem cả tử vi. Cậu xem giúp tớ quan anh mà tớ đang cầu cạnh là loại người thế nào? Đểu giả, bất nghĩa thì đương nhiên rồi. Thời buổi này, có quan nào tử tế, nhân nghĩa mà leo cao, tiến nhanh như diều gặp gió đâu? Chỉ bọn cơ hội, đểu giả mới leo nhanh, leo cao, mới cần bọn người như tớ hầu hạ, tung hô chứ mấy ông quan chính trực, liêm khiết chả đá đít bọn tớ từ xa... Với lại, những quan chính trực, liêm khiết giờ hiếm lắm, lạc lõng lắm, là của hiếm, của độc... Nói thật, những quan thuộc diện quý hiếm ấy, cậu có các vàng, tớ cũng cóc thèm tung hô... Sao cứ tròn mắt nhìn tớ thế? Cũng chỉ là để biết quan anh đểu cỡ nào mà đề phòng, chơi lại khi cần đánh bài ngửa để thoát thân... “Quân tử phòng thân, tiểu nhân phòng bị gậy” mà cậu... Nào. Cậu cầm chén lên. Cạn đi. Mãi không chịu hết chén rượu thì đến bao giờ cậu mới phê. Tớ nói từ nãy cũng mỏi miệng rồi mà cậu vẫn chưa chịu cầm tay tớ, mân mê tay tớ để “đọc” cho tớ biết ngôi mộ bà cô tổ mấy đời hay ngôi mộ nào trong dòng họ nhà tớ hợp với tớ, sẽ phù hộ độ trì cho tớ để tớ “biết đường mà lội, biết lối mà tránh”.... Đừng như thằng Dân, nói chả đâu vào đâu, nào là thành kính với tổ tiên vì đạo hiếu, nào là đạo làm người là phải đàng hoàng, chính trực... nghe mà nổi da gà, phát ớn. Tiền đâu mà cúng kiếng hàng đống vong mà chả biết có vong nào chịu phù hộ cho tớ không? Tốn tiền sắm lễ, mỏi mồm khấn vái, lại bị các vị ấy chổng mông vào mặt thì tớ đếch dại. Cứ phải chắc ăn cái đã. Sắm lễ đã tốn kém, khấn vái đã mỏi mồm, thì công quả phải có, phải được vong ấy phù hộ độ trì. Thế tớ mới cầu cạnh cậu. Mới tốn bữa rượu để nhờ cậu tìm cho đúng cửa vong để tớ thắp hương, xin lộc. À mà phê với hứng thì cái nào cần hơn? Chưa phê mà hứng rồi thì có xem được không? Cũng chả biết làm thế nào để cậu hứng lên nữa. Khổ! Tớ đã uống mấy chén rượu. Cũng năn nỉ ỉ ôi cậu đến mỏi mồm mà một chén rượu cậu cũng không chịu uống hết. Lại cứ nheo mắt nhìn tớ rồi tủm tỉm cười như thằng dở người sắp lên cơn động cỡn. Chán! Hôm nay ra ngõ dẫm phải cứt!
Nói xong. Lấy tay quyệt môi, chớp mắt vài cái rồi cúi xuống trân trân nhìn vào chén rượu, anh thẫn mặt, trông thật tội.
Không đành lòng, lão uống hết chén rượu, rồi chậm rãi:
- Em chỉ phê rượu khi đang có tâm trạng, là những lúc em đang vui hoặc lúc đang có tâm sự muốn được giãi bày, chứ bình thường em chỉ nhâm nhi vài ly xã giao thì phê rượu làm sao được. Còn chuyện hứng là hứng xem tướng tay chứ không phải hứng chuyện em út... Bệnh tật đầy mình thế này, gái gú sao được, anh!
Anh nhăn mặt:
- Sao đéo bảo trước. Câu giờ như thế, làm người ta cứ chờ đợi, hy vọng... Tốn tiền! Mất thời gian! Đúng là... Đéo dẫm phải cứt mà thành dẫm phải cứt. Đen! Hãm!
Anh phủi đít, đứng dậy, rồi nghĩ sao lại ngồi xuống, hất hàm hỏi:
- Dân nó bảo cậu chơi thân với mấy ông thầy tử vi, tướng số, xem cũng chuẩn lắm. Cậu giới thiệu cho tớ vài ông được không?
Lão chửi thầm: - “Mịa ông! Giới thiệu để tôi dơ mặt với anh em bạn bè à?” nhưng cố ra vẻ khổ sở, nhăn nhó:
- Tiếc quá anh ạ! Mấy ông anh ấy lại vừa giải nghệ, về quê hết cả rồi...
Anh chưng hửng, ra chừng thất vọng:
- Sao phải giải nghệ? Nghề ấy dễ sống lắm cơ mà? Dân tình đã ngu, lại cả tin, thời buổi thì nhố nhăng... các ông ấy tha hồ chặt chém... Dở hơi à mà giải nghệ. 
Thấy anh đứng dậy, lão vội kéo anh ngồi xuống, cố ra vẻ khẩn khoản:
- Thì cũng do hoàn cảnh anh ạ... Anh cứ ngồi xuống, để em từ từ kể anh nghe.
Anh vội gạt tay lão, cau có:
- Mình chuyện của cậu đã làm tớ bực lắm rồi. Thêm chuyện mấy ông bạn dở hơi của cậu, chắc tớ điên mất. Thôi. Chuyện của bạn cậu, tớ nghe không hợp. Tớ về.
Rồi anh bước xăm xăm ra khỏi quán, như cố chạy thật nhanh để khỏi phải thanh toán tiền cút rượu và 2 đĩa đậu.
Chị Lý, chủ quán, lắc đầu:
- Lại đẩy cho người khác thanh toán. Bổn cũ soạn lại, dùng mãi mà không chán. May mà thằng này chỉ làm thằng loong toong, điếu đóm. Nó mà làm quan, khối người sẽ bị hành cho sống dở chết dở... Mà em giao lưu với hạng người ấy làm gì...
Lão cười, nói với chị mà như tự trấn an mình:
- Là người hàng xóm láng giềng, tránh cả đời được sao ...
*          *
*
Mới học hết lớp 3 trường làng rồi bỏ học, lêu lổng theo chúng bạn lên Hà Nội làm đủ trò, đủ nghề, thế mà anh cũng vơ được mấy mảnh bằng Đại học, nghe đâu còn có cả bằng Thạc sĩ Tâm lý học và bằng Triết học loại giỏi lận lưng làm vốn liếng để sau này chạy chọt vào cơ cấu “lãnh đạo”. Hôm trước, lâu rồi, trước bữa anh mời rượu để nhờ lão coi số, anh gạ lão “làm bằng” Thạc sỹ Triết học chỗ bạn của anh, giá bèo lắm. Lão cười, hỏi để làm gì? Anh mắng sao hỏi ngu thế, để làm đồ trang sức cho ra dáng là người học thức uyên bác, rồi làm mớ hành trang mà chạy chức chạy quyền, chứ cứ làm thằng bố cu thì mãi nghèo mà nhục lắm. Anh còn hỏi trong nhóm bạn bất tài của lão, có thằng nào “máu” làm quan không, anh có cửa chạy, rẻ lắm. Anh bảo: - “Học nhiều chỉ tổ ngu! Chữ nhiều làm gì? Chữ có làm no bụng được đéo đâu! Tiền! Chỉ có tiền mới giải quyết được tiếng òng ọc òng ọc của dạ dày. Nhưng tiền nhiều mà không có quyền thì cũng nhục lắm, cũng suốt đời phải nâng bi thằng có chức, phải khúm núm trước thằng có quyền dù thằng có quyền chức ấy nói những câu ngu bỏ mẹ, còn khắm hơn cả cứt, nên bằng mọi giá phải chạy cho bằng được một chức quan để “ăn trên ngồi chốc”, để “chỉ mới húng hắng ho một tiếng cũng làm khối thằng phải tè vội ra quần…”. Anh hỏi lão có biết Lã Bất Vi là thằng nào không? Lão thật thà bảo đấy là “con buôn”, người xứ Tàu. Anh bĩu môi rõ dài: - “Thế cũng đòi là dân có ăn có học! Đấy là tổ sư của nhiều quan “phụ mẫu” nhà ta đấy!”. Ghé vào tai lão, anh nói rất nhỏ, ý như bí mật, hệ trọng lắm: - Này! Người đàng hoàng tử tế đéo ai thích làm quan đâu. Tranh thù mà kiếm một ghế khơ khớ để dưỡng già, chú ạ. Rồi như để thể hiện khí phách của quan phụ mẫu tương lai, anh rướn mắt, xoa bụng, ư ử như hát: - Chỉ có đầu tư QUYỀN LỰC mới cực lãi, siêu lãi. Quyền ơi quyền sao mà yêu đến thế!
Vâng! Cũng chính sau vụ mời rượu nhờ xem bói không thành, anh tuyên bố chẳng thèm chơi với lão nữa, sẽ đoạn tuyệt quan hệ. Anh còn đe, sau này nếu gặp chuyện gì thì đừng có vác mặt đến nhờ vả, anh chẳng thèm giúp. Là dân thấp cổ bé họng, bản tính lại nhút nhát, ngại va chạm, sợ đến chốn công quyền nên lâu nay lão đã rèn được cách sống khiêm nhường, đúng hơn là kiếp sống an phận đến nhu nhược. Vì thế, lão tin sẽ chẳng cần đến anh nương nhờ, cũng giống như niềm tin xưa nay lão đã lấy làm kim chỉ nam: Mày lấn tới thì tao nhịn. Mày lấn tiếp. Tao nhịn tiếp. Hết chỗ để mày lấn, chắc chắn tao sẽ được yên.
Sáng nay, gặp chị Lý ở đầu ngõ chợ, chị hỏi: - Này, đã biết tin về thằng đấy chưa? Xộ khám cùng thằng Vĩ, thằng Đại rồi. Tham lắm thì thâm nhiều. Đã theo thằng Đại lại cấu kết với thằng Vĩ chơi xỏ thằng Đại, định lập công với thằng Vĩ để thằng Vĩ “cơ cấu” cho chút quyền lực, không ngờ vào phút chót thằng Vĩ quay sang bắt tay với thằng Đại, để hợp sức đấu lại phe cánh ông Tân, thế là con tốt đen được quẳng ra thí mạng... Nhưng cũng còn may là thằng Vĩ, thằng Đại sau đó đều bị gãy cánh, chứ không thì… Thấy cũng tội nghiệp! Nhà đấy bây giờ ủ rũ như có đại tang.
Chưa kịp hỏi thêm vài chuyện cho rõ sự tình thì chị Lý đã te tái vào chợ.
Chuông điện thoại réo, lão bắt máy. Giọng Dân buồn buồn phía đầu dây:
- Anh à. Ông đấy bị xộ khám rồi. Em đang trên đường lên Hà Nội để đưa mấy thằng cháu về quê, sợ để chúng sống trên đó rồi sẽ hỏng như đời bố chúng nó. Hôm qua, em vào trại, đã thuyết phục được ông ấy viết đơn li dị bà vợ quái thai nửa đực nửa cái và cam kết tuyệt giao với mấy thằng bạn du thử du thực để làm lại từ đầu. Ông ấy khóc nhiều lắm. Ân hận đã cưới cô vợ quái thai, đã mù quáng tin tưởng mấy thằng du thử du thực, đã ngu muội bám theo mấy thằng lưu manh Vĩ-Đại... Thôi. Muộn nhưng cũng còn may, anh ạ....
Lão tặc lưỡi: - Ừ. Khổ thân chú! Giờ lại phải gồng lên để thu dọn bãi chiến trường nặng mùi uế tạp.
Phía đầu dây, Dân thở dài, chua xót:
- Vâng! Thì em là thằng Dân mà anh!   

*.
Viết xong ngày 13 tháng 06.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
.

Chủ Nhật, 20 tháng 8, 2017

BỤI TRẮNG - THƠ LÊ KIM THƯỢNG


Sinh Lê
Tệp đính kèm17 thg 8 (3 ngày trước)

tới tôi 
GỬI NHÃ MY BÀI THƠ TÌNH 2017 - CHÚC VUI KHỎE

NHA TRANG, 18/08/2017 - LÊ KIM THƯỢNG



                                LÊ KIM THƯỢNG  gửi  “NHÃ MY”                                         

                                                  
THƠ  TÌNH    2017









BỤI   TRẮNG


Rồi có ra sao thì ra
Em về xôn xao xe ngựa
Phất phơ tà áo tiểu thơ
( Rơi giữa hồn ta bóng lạ ! )

Rồi có ra sao thì ra
Bóng núi vàng mơ vạt nắng
Tình duyên mong manh bụi trắng
( Ơi em, nụ cười kiêu sa ! )

Rồi có ra sao thì ra
Chung rượu giao hoan ân ái
Thương nhau đêm trầm phố ngải
( Chợt thấy đời lầm xa hoa ! )                             

Rồi có ra sao thì ra
Giận nhau mùa thu không gặp
Mùa đông cạn chén quan hà
( Em ơi, sầu ta đã tắt ! )

Rồi có ra sao thì ra
Thương ta nửa đời dâu bể
Bóng người khuất nẻo mờ xa
( Thì ra đời ta đã xế ! )

Rồi có ra sao thì ra
Người vẫn tìm nhau mê mãi
Hạnh phúc xa mờ, xa ngái
( Ta đã làm chi đời ta ! )


                          Nha Trang, tháng 8. 2017
                              LÊ  KIM  THƯỢNG

Thứ Bảy, 19 tháng 8, 2017

Thứ Sáu, 18 tháng 8, 2017

THƠ VỀ MÙA THU NƯỚC NGA - NGUYỄN KHÔI



1- MÙA THU NGA LA TƯ
            (Tặng Ph. A.)
                   
Chẳng biết thực có tình yêu không đấy ?
Nhưng mùa thu thì lại nhớ em rồi
Xao xác lá, nắng thu vàng rười rượi
Để một mình thu chín ở trong tôi
                         
Sông lặng chảy một dòng thu chậm rãi
Căng cánh buồm tung cánh Nhạn bay
- Em thầm hỏi : thu về ai yêu nhỉ ?
Mà xao lòng...thu đến với ai đây ?

                                       
 2- MỘT MÌNH VỚI MÙA THU
         Cảm đọc "K. Pautovski"
                 
Một mình với mùa thu
Nắng thu vàng anh uống
Lá thu vàng anh tưởng
Trời thu vàng anh say...
             
Hồ thu vàng ngất ngây
Sông thu vàng lóng lánh
Tình thu vàng dâng đầy
Gió thu vàng lành lạnh...
             
Mùa thu vàng nước Nga
Đi xa rồi vẫn nhớ
Lá phong - rừng Bạch Dương
Mắt xanh, trời xanh mơ...

                Mockba 19/9...
               NGUYỄN KHÔI

Nguồn : từ email của tác giả Nguyễn Khôi gửi lamngoc.
NM cảm ơn nhà thơ Nguyễn Khôi thường xuyên chia xẻ những bài thơ hay.

Thứ Năm, 17 tháng 8, 2017

BÀI THƠ TÌNH MUÔN THUỞ - THƠ TRÚC THANH TÂM

Thân gởi: Nhà thơ Nhã My ( Bài Thơ Tình Muôn Thuở - thơ Trúc Thanh Tâm ) 
Hộp thư đến


TrucThanhTam Truc
21:18 (10 giờ trước)

tới tôi 
thơ Trúc Thanh Tâm



  




 BÀI THƠ TÌNH MUÔN THUỞ

 - Quý mến tặng tất cả bạn bè

 Anh rất vui, trái đất chưa tận thế
 Nên bao điều cần nói hôm nay
 Xin tạ lỗi với những người đang sống
 Cám ơn đời cho anh hạnh phúc, đắng cay.

 Ngày ly biệt, em hãy nên bình tĩnh
 Khóc nhiều rồi, đã mấy mươi năm
 Cả đời anh, thăm chưa giáp nước
 Nghĩ thêm buồn chuyện của thế nhân.

 Đem theo anh, em đừng quên giấy, viết
 Những tập thơ tình bè bạn in chung
 Anh ký tặng để làm quà qua cửa
 Ở cõi âm, văn hóa họ rất cần.

 Chỉ biết được những giây phút cuối
 Người yêu thầm và người lại yêu thơ
 Anh trả lại trần gian bao vinh, nhục
 Riêng tình em, anh mang hết xuống mồ.

 Bạn bè xa, bao người hay muộn
 Hãy nâng ly cạn hết rượu buồn
 Anh nhớ mãi nụ cười của những người thân thích
 Cõi sinh tồn nhiều lắm hoa thơm.

 Tiếng chuông ngân qua tầng mây gió
 Đưa hồn anh ra khỏi bến mê đời
 Sống thật làm người đâu phải dễ
 Đất nước mình còn điên đảo, em ơi.


 TRÚC THANH TÂM
( Châu Đốc )

Thứ Tư, 16 tháng 8, 2017

MỘT LẦN ĐƯỢC KHÓC VỚI QUÊ - THƠ TRÚC THANH TÂM

Thân gởi: Nhà thơ Nhã My ( Một Lần Được Khóc Với Quê - thơ Trúc Thanh Tâm ) 
Hộp thư đến


TrucThanhTam Truc
05:43 (4 giờ trước)

tới tôi 
thơ Trúc Thanh Tâm
     

  



MỘT LẦN ĐƯỢC KHÓC VỚI QUÊ

 Ngước lên thấy lạ mặt người
  Nhìn ngang ngửa thấy một trời bể dâu
  Thư hùng còn một nhát dao
  Vết thương âm ỉ cứ trào máu tươi

  Giết nhau rồi bịt miệng đời
  Đằng sau tiếng nói giọng cười vuốt ve
  Hồn đêm mù mịt vỉa hè
  Độc huyền ai dạo não nề khúc mưa

  Tin người nên bị bùa mê
  Sống là cõi tạm đừng thề thốt chi
  Một bầu khí quyển sân si
  Giữa trầm luân lạc người đi kẻ về

  Một lần được khóc với quê
  Và xin tạ tội lỗi thề năm xưa!


  TRÚC THANH TÂM
 ( Châu Đốc )

Thứ Hai, 14 tháng 8, 2017

CHÙM THƠ KIẾM KHÁCH







VÀNG XƯA

Vàng ươm chùm khế sau nhà
Vàng mơ màu áo vàng hanh nắng chiều
Vàng đời bóng mẹ xiêu xiêu
Vàng thơm hoa chúa cánh diều đường quê
Vàng bông cây cải sau hè
Vàng con bướm nhỏ vãn ve gợi tình.


NƯỚNG BÁNH PHỒNG

Lửa rơm đốt nướng bánh phồng
Khéo tay chùi bánh mà lòng lo xa
Nghiêng vai gánh nước non nhà
Giếng trong khơi đục cũng là từ đây
Đường xa đêm tối trăng tà
Chân đi dò dẫm quá xa đình làng
Em đi cây nép hai hàng
Chông gai lá rụng gót nàng xót xa.


EM XƯA QUA ĐÒ

Chuông chùa vừa gõ tiếng ngân
Sang sông ta với em xưa- chạm lòng
Cảnh thiền tĩnh lặng mà không
Màu thiền in nét dòng sông mây choàng
Áo xưa vừa rũ mũi xuồng
Nằm phơi bãi vắng lặng buồn đâu đây.

NỤ CƯỜI NỬA MIỆNG

Hai tay xách nặng nỗi niềm
Gói vào lại mở gởi tìm gió đưa
Gió đưa gió đẩy bão mưa
Uớt vai áo lạnh tóc vừa thôi xanh
người núp ở trong tranh
Nụ cười nữa miệng tròng trành sóng xô


KIẾM KHÁCH


Chủ Nhật, 13 tháng 8, 2017

Thứ Bảy, 12 tháng 8, 2017

ÁNH TRĂNG AO - XƯỚNG HỌA HẢI LY , LÊ KIM THƯỢNG


Sinh Lê
Tệp đính kèm10 thg 8 (2 ngày trước)

tới tôi 

GỬI NHÃ MY HAI BÀI THƠ ĐƯỜNG LUẬT XƯỚNG HỌA
CHÚC VUI KHỎE
NHA TRANG, 11/08/2017 - LÊ KIM THƯỢNG


                                LÊ KIM THƯỢNG  gửi  “NHÃ MY”                                         

                                            
THƠ  ĐƯỜNG LUẬT  XƯỚNG - HỌA






1. Bài  xướng    
        
          ÁNH  TRĂNG  AO

Chiều chiều,em hát khúc đồng dao
Lùa nắng cho hương tỏa ngọt ngào
Những bước chân trâu bừa lỏm bỏm
Mấy hàng lau sậy cựa lao xao
Trúc xanh gầy lại bên sông vắng
Cò trắng bay về chốn núi cao
Hun khói lâng lâng mùi cỏ cháy
Tưới trầu mẹ múc ánh trăng ao

                                        
                                        HẢI  LY

2.  Họa y đề      

       ÁNH  TRĂNG  AO

Ru chiều trầm bỗng khúc ca dao
Hương đất hương hoa tỏa ngạt ngào
Gánh lúa về thôn cười khúc khích
Lùa trâu thổi sáo điệu xôn xao
Hồn quê lắng xuống đời êm ấm
Khói rạ bay lên gió cuốn cao
Tối tối bên bờ em giỡn nước
Lùa trăng xỏa tóc tắm cầu ao

                                    
                            Nha Trang, tháng 8. 2017
                               LÊ  KIM  THƯỢNG


Thứ Sáu, 11 tháng 8, 2017

BÙA YÊU - THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN


BAOTHANG_XUANXUYEN DANG
07:30 (12 giờ trước)

tới Trác, Phu, Tran, tôi, Giống, bài_blog


Kết quả hình ảnh cho ẢNH CÔ GÁI BÊN HOA


BÙA YÊU
- Với N.T.Y -


Bùa chẳng ném vào tôi
Lại cứ nhằm quăng vào người đấy
Cả đời người ta nợ đậy
Luyện xong bùa rồi mắc khổ thôi...


Ừ. Chẳng chịu tin tôi
Cứ đong mẽ người bóng bẩy
Cứ dụ miệng cười bóng nhẫy
Líu quíu mớ ba mớ bảy
Rắn rồng rồng rắn lên mây...


Biết không
Men đủ thì rượu mới nồng
Than vừa thì lửa mới đượm
Phải áo quần đâu mà thử ướm
Tình yêu không phép cộng trừ...


Ừ đợi qua ba mùa lũ
Ừ chờ sắp bốn mùa đông
Nụ cười chừng như đã gượng
Người còn mải luyện bùa yêu...

*.
Hà Nội, chiều 10 tháng 08.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN