CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2025

NƯƠNG LÀ NÀNG - PHIẾM LUẬN CỦA ĐỖ CHIÊU ĐỨC

 



Tạp Ghi và Phiếm Luận : 
                         NƯƠNG là NÀNG
 
 
       NƯƠNG là NÀNG, NÀNG chữ Nho là NƯƠNG 娘. Như chữ LANG 郎 là CHÀNG, chữ NƯƠNG cũng thuộc dạng chữ Hài Thanh và Hội Ý trong Lục Thư. Theo "CHỮ NHO... DỄ HỌC" có cấu tạo chữ viết như sau :

                             Lệ Thư       Khải Thư      Tống Thể
  
       Ta thấy :
              Theo phép Hài Thanh chữ NƯƠNG 娘 gồm có chữ LƯƠNG 良 ở bên phải chỉ ÂM(ương) và bộ NỮ 女 ở bên trái chỉ Ý. Nên NƯƠNG 娘 là NÀNG, là một giới tính nữ. Còn xét theo Hội Ý thì chữ NƯƠNG 娘 được ghép bởi hai chữ NỮ 女 và LƯƠNG 良, ý chỉ một giới nữ thiện lương. Tổng hợp hai cách trên lại, thì NƯƠNG là một giới tính nữ lương thiện, là một bà, một cô, một nàng hiền lành dễ thương, dễ thân cận. 
      Ta thấy chữ NƯƠNG 娘 có chữ LƯƠNG 良 ở bên tay phải; còn chữ LANG 郎 thì có chữ LƯƠNG 良 bên tay trái, đúng như kiểu ông bà xưa nói : Nam tả nữ hữu ! LƯƠNG ngoài nghĩa Lương Thiện ra, còn có nghĩa hiền lành, tốt đẹp, giỏi giang. Nên ngày xưa vợ chồng gọi nhau là LƯƠNG NHÂN 良人, như người Việt Nam ta  vợ chồng gọi nhau là "MÌNH ƠI", còn người Anh người Mỹ vợ chồng gọi nhau là "HONEY" vậy ! Nhưng sau nầy trong văn học cổ ta chỉ thấy Vợ gọi Chồng là LƯƠNG NHÂN mà thôi. Như trong bài《TỬ DẠ THU CA 子夜秋歌》 của Thi Tiên Lý Bạch 李白 đời Đường dưới đây :

                 長安一片月,   Trường An nhất phiến nguyệt,
                 萬户搗衣聲。   Vạn hộ đảo y thinh.
                 秋風吹不尽,   Thu phong xuy bất tận,
                 總是玉關情。   Tổng thị Ngọc quan tình.
                 何日平胡虜,   Hà nhật bình Hồ Lỗ,
                 良人罷遠征。   LƯƠNG NHÂN bãi viễn chinh !?
      Có nghĩa :
                      Trường An một mảnh trăng tà,
                 Tiếng chày giặt áo muôn nhà vang vang.
                        Gió thu hiu hắt chứa chan,
                 Tình người chinh phụ Ngọc quan bao tình.
                        Ngày nao hết nạn đao binh,
                 LƯƠNG NHÂN khỏi phải viễn chinh xa nhà !?



     
      Trở lại với NƯƠNG là NÀNG, là một cô gái trẻ trung đẹp đẽ, như hai câu thơ trong bài "Tử Dạ Ca 子夜歌" trong Cổ Nhạc phủ :

                 見娘喜容媚,   Kiến NƯƠNG hỉ dung mị,
                 願得結金蘭.    Nguyện đắc kết kim lan.
       Có nghĩa :
                        Thấy NÀNG đẹp đẽ trẻ trung,
                  Nguyện mong đây đó kết cùng kim lan.

      NƯƠNG trong hai câu thơ trên là CÔ NƯƠNG 姑娘 ta nói là CÔ NÀNG, là một cô thiếu nữ trẻ trung. Còn TIỂU CÔ NƯƠNG 小姑娘 là một cô gái bé nhỏ. Nếu đổi chữ TIỂU thành chữ ĐẠI, thì ta có từ ĐẠI CÔ NƯƠNG 大姑娘 là "Cô Gái Lớn" cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, có thể là cô gái lớn tuổi, lớn nhất trong nhà, mà cũng có thể là cô gái lớn con to xác nữa ! Nếu bỏ chữ CÔ ở giữa thì ta sẽ có từ...
      ĐẠI NƯƠNG 大娘 là từ dùng để gọi các bà các cô đứng tuổi, sồn sồn. Còn lớn tuổi hơn nữa thì gọi là DI NƯƠNG 姨娘 là Bà Dì hoặc THẨM NƯƠNG 嬸娘 là Bà Thím. Nhưng từ thân thương nhất là NƯƠNG THÂN 娘親 là từ con gọi mẹ, thường thì chỉ gọi cho gọn lại  bằng một chữ "NƯƠNG" mà thôi. Như người Mỹ gọi là "MOM", người miền Bắc gọi là "U", người miền Trung gọi là "MẠ" và người miền Nam gọi là "MÁ" vậy. Bây giờ thì...
      NƯƠNG 娘 là MẸ chớ không phải là NÀNG nữa, nếu chập hai từ lại là NƯƠNG NƯƠNG 娘娘 thì là Mẹ của cả nước ngày xưa, là HOÀNG HẬU NƯƠNG NƯƠNG 皇后娘娘, hay còn gọi là CHÁNH CUNG NƯƠNG NƯƠNG. Từ NƯƠNG NƯƠNG còn được dùng để gọi tên hiệu các vị nữ thần như "Vương Mẫu Nương Nương 王母娘娘", "Thánh Mẫu Nương Nương 聖母娘娘" hay từ dùng gọi Bà Mẹ Sanh là "Chú Sanh Nương Nương 註生娘娘"...



      NƯƠNG 娘 là MẸ, nên NƯƠNG GIA 娘家 là Nhà của Mẹ. Nói chung là "Nhà của Cha Mẹ". Con gái gả đi lấy chồng, khi nhà chồng cho phép về thăm cha mẹ ruột, thì gọi là "Hồi Nương Gia 回娘家" là một niềm vui vô hạn của các cô gái ngày xưa. Mẹ ruột thì gọi là THÂN NƯƠNG 親娘, Mẹ Vú (bà Vú) thì gọi là NÃI NƯƠNG 奶娘. Mẹ kế thì gọi là DI NƯƠNG 姨娘, như ta gọi là "Dì Ghẻ" vậy. Theo chế độ Tam Thê Tứ Thiếp 三妻四妾 ngày xưa, thì còn có NHỊ NƯƠNG 二娘, TAM NƯƠNG 三娘... Nhưng trước khi là MẸ, thì...
      NƯƠNG 娘 là VỢ, Vợ mới cưới là Cô Dâu Mới thì gọi là TÂN NƯƠNG TỬ 新娘子. Nhưng thường, cô dâu mới được gọi cho gọn là TÂN NƯƠNG 新娘 để đối xứng với Chú Rể Mới là TÂN LANG 新郎. Chồng thương vợ gọi một cách thân thương là NƯƠNG TỬ 娘子. Nhưng NƯƠNG TỬ cũng là từ chỉ chung các bà các cô, nên cũng có thể già có thể trẻ. Như NƯƠNG TỬ QUÂN 娘子軍 là Đội quân của các bà các cô, "Đội quân Đàn bà" : Đây là đội Nữ Binh 女兵 nổi tiếng của Bình Dương Công Chúa 平陽公主 con gái thứ ba của Đường Cao Tổ Lý Uyên, với sự giúp đỡ của chồng là Sài Thiệu lập nên đội nghĩa binh NƯƠNG TỬ QUÂN nầy ở cuối đời Tùy, lập được nhiều chiến công trong việc giúp vua cha tạo dựng nên nhà Đường hùng mạnh suốt ba trăm năm sau nầy. Từ đó về sau "NƯƠNG TỬ QUÂN 娘子軍" là danh từ chung dùng để gọi một cách tôn xưng kính trọng đối với tất cả các đội nữ binh mãi cho đến hiện nay ta gọi là các đội Nữ Quân Nhân.

        Inline image

      NƯƠNG 娘 là KIỀU NƯƠNG 嬌娘 là Người Đẹp. Ta có "một lô" người đẹp với chữ NƯƠNG theo sau... Trước tiên là...
      ĐỖ THU NƯƠNG 杜秋娘 (cuối Thế kỷ 8) tên thật là Đỗ Thu 杜秋, người đất Kim Lăng đời Đường. Bà là một ca kỹ múa giỏi hát hay và giỏi cả thi ca, 15 tuổi đã  được Tiết Độ Sứ Lý Kỹ 李錡 mua về làm tì thiếp. Sau Lý Kỹ tạo phản thất bại, bà bị biếm vào cung. Khi Đường Mục Tông 唐穆宗 (821-826) lên ngôi, phong bà làm Phó Mẫu là Giáo tập ở trong cung nuôi dạy Thái Tử. Mục Tông mất, Thái tử bị phế, bà bị thải về quê. Khi Đỗ Mục đi ngang qua Kim Lăng, trông thấy hoàn cảnh của bà vừa già vừa nghèo khổ, ông đã làm bài Đỗ Thu Nương Thi 杜秋娘詩 để kể lại thân thế của bà. Đỗ Thu Nương nổi tiếng với bài thất ngôn tứ tuyệt "Kim Lũ Y 金縷衣" sau đây :

              勸君莫惜金縷衣,    Khuyến quân mạc tích kim lũ y,
              勸君惜取少年時.    Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì.
              花開堪折直須折,    Hoa khai kham chiết trực tu chiết,
              莫待無花空折枝!    Mạc đãi vô hoa không chiết chi !
     Có nghĩa :
                    Khuyên chàng chớ tiếc áo tơ vàng,
                    Hãy tiếc tuổi xuân chớ để tàn.
                    Hoa nở đúng kỳ tua bẻ lấy,
                    Đừng đợi cành không bẻ muộn màng !
     Lục bát :
                         Tiếc chi chiếc áo chỉ vàng,
                Khuyên chàng trân trọng tuổi đang xuân thì.
                         Hoa đang độ, hãy bẻ đi,
                  Đợi khi hoa rụng bẻ gì cành không ?!   
               
      Khéo mà ví von khuyên nhủ những chàng công tử phong lưu chỉ biết ăn ngon mặc đẹp, mà không biết tranh thủ lấy tuổi thanh xuân của mình để trao dồi kiến thức, cố gắng học hành để mong có ngày tiến thủ, lập chữ công danh... Cứ mãi miết ăn chơi trác táng ở lầu xanh, ở các nơi trà đình tửu điếm, để đến khi ăn năn thì đã qúa muộn màng.  

                 Inline image

      ĐỖ VI NƯƠNG 杜韋娘 vốn là tên của một ca kỹ trong giáo phường đời Đường, được Đỗ An Thế dùng đặt tên cho một Từ khúc. Sau thường dùng để chỉ một người đẹp hay một bài ca theo Từ điệu, như chuyện kể sau đây :
      Thi hào LƯU VŨ TÍCH 劉禹錫(772—842)khi bị biếm làm Thứ Sử đất Tô Châu (833), quan lớn Tư Không là Lý Thân nghe tiếng và cũng mến mộ tài văn thơ của ông, bèn mời ông đến và thiết tiệc khoản đãi. Buổi tiệc thật xa hoa với đầy đủ các sơn hào hải vị, mỹ tửu quỳnh tương, dưa ngon trái ngọt. Có một nàng ca kỹ thật đẹp ăn mặc như các cung nữ trong cung vua và lại ca múa hát khúc "ĐỖ VI NƯƠNG" trong cung đình. Lưu Vũ Tích đã choáng ngợp trước buổi tiệc qúa cao sang xa hoa nầy và bàng hoàng ngây ngất trước vẻ đẹp sắc nước hương trời của nàng ca kỹ giai nhân, nên Ông đã xúc động mà viết bài thơ tứ tuyêt "Tặng Lý Tư Không Kỹ 贈李司空妓" (Tặng nàng ca kỹ của ông Tư Không họ Lý) với những lời lẽ ngưỡng mộ như sau :

                高髻雲鬟宮樣妝,    Cao kế vân hoàn cung dạng trang,
                春風一曲杜韋娘。    Xuân phong nhất khúc ĐỖ VI NƯƠNG.
                司空見慣渾閒事,    Tư Không kiến quán hồn nhàn sự,
                斷盡蘇州刺史腸。    Đoạn tận Tô Châu Thứ Sử trường !
     Có nghĩa :
                   Tóc kết cung đình mây lướt trôi,
                  "Đỗ Vi Nương" khúc hát chơi vơi.
                   Tư Không quen mắt không cho lạ,
                   Thứ Sử Tô Châu ruột đứt rồi !                

      Ông là quan lớn Tư Không, đã quen sống xa hoa và nhìn ngắm các giai nhân đẹp như tiên nga, hát hay múa giỏi như thế nầy quen rồi, nên cho là chuyện bình thường không có gì là lạ cả. Nhưng đối với chức quan nhỏ nhoi Thứ Sử Tô Châu như tôi, thì đối diện với bửa tiệc cao sang và nhất là đối diện với giai nhân tuyệt sắc như thế nầy, làm cho tôi xúc cảm rung động đến như đứt từng đoạn ruột ra hết vậy (Đoạn Tận 斷盡 là Đứt hết. Đoạn tận Tô Châu Thứ Sử trường : là "Đứt hết ruột gan của Thứ Sử Tô Châu rồi!) Cho nên, sau buổi tiệc, Lý Thân cũng rất điệu nghệ và hào phóng cho kiệu hoa đưa nàng ca kỹ với "cung dạng trang"(là Trang điểm như là các cung nhân trong cung vua vậy) về với Thứ Sử Tô Châu Lưu Vũ Tích để cho ông "khỏi phải đứt từng đoạn ruột nữa" ! Câu thơ cuối của Lưu Vũ Tích lại làm cho ta nhớ đến một câu ca dao rất đa tình dễ thương của cô gái quê  vùng Nam ký Lũc tỉnh :

                                    Đưa tay em bứt cọng ngò,
                            Thương anh ĐỨT RUỘT, giả đò làm ngơ !
            Inline image
                                 Đoạn tận Tô Châu Thứ Sử trường !

       ĐỖ LỆ NƯƠNG 杜麗娘 là tên của nhân vật nữ chính trong hí kịch《Mẫu Đơn Đình Hoàn Hồn Ký 牡丹亭还魂记》của Thang Hiển Tổ 湯顯祖, một hí kịch gia đời Minh. Vốn là một tiểu thơ con nhà quan, nhưng Đỗ Lệ Nương không cam tâm bị trói buộc gò bó bởi xã hội phong kiến, nàng muốn bức phá khỏi những lễ giáo cổ hủ để đến với một tình yêu đôi lứa đúng theo như là người yêu trong mộng của mình là thư sinh Liễu Mộng Mai 柳夢梅. Nàng tương tư đến thành bệnh rồi mất, được quàn trong Mai Hoa Quán. Sau thư sinh Liễu Mộng Mai đến viếng, nàng sống lại và hai người vượt qua lễ giáo phong kiến cùng đến với nhau, kết hôn để hoàn thành giấc mơ tự do luyến ái và tự do truy tìm hạnh phúc cho bản thân mình. 
       Sau đây là lời ca từ của nhân vật Đỗ Lệ Nương :       

                 原来姹紫嫣紅開遍,     Nguyên lai sá tử yên hồng khi biến,
                 似這般都付與斷井颓垣。 Tự giá ban đô phó dữ đoạn tỉnh đồi viên.
                 良辰美景奈何天,      Lương thần mỹ cảnh nại hà thiên,
                 賞心樂事誰家院!      Thưởng tâm lạc sự thùy gia viện !
      Có nghĩa :
                      Muôn hồng ngàn tía hoa đua nở,
                      Cảnh đẹp phai tàn theo tường đổ giếng khô.
                      Trời cao có xót cảnh nên thơ,
                      Vui buồn bao chuyện nhà ai đó !
                           
                     Inline image

       TẠ THU NƯƠNG 謝秋娘 là một ca kỹ nổi tiếng đời Đường, thường được gọi cho gọn là TẠ NƯƠNG 謝娘, nàng cũng là một ca nhi nổi tiếng trong phủ của Tể tướng Lý Đức Dũ đời Đường. Nên TẠ THU NƯƠNG 謝秋娘 vừa là từ phiếm chỉ các ca nhi lại vừa là từ phiếm chỉ gọi chung những ca khúc ca ngợi vùng sông nước Giang Nam với các lời từ nổi tiếng như bài "Ức Giang Nam 憶江南" do TẠ THU NƯƠNG biên soạn lời hát như sau đây :

                  江南好,              Giang Nam hảo,
                  風景舊曾諳。        Phong cảnh cựu tằng am,
                  日出江花紅勝火,    Nhật xuất giang hoa hồng thắng hỏa,
                  春来江水绿如藍。  Xuân lai giang thủy lục như lam,
                  能不憶江南 ?       Năng bất ức Giang Nam ?!
        Có nghĩa :
                        Giang Nam đẹp, Giang Nam đẹp...
                        Phong cảnh Giang Nam người đều biết,
                        Nắng lên hoa đỏ rực trời nam,
                        Xuân về sông nước biếc như lam...
                        Ai chẳng nhớ Giang Nam ?!

                Inline image

      Trở lại với NƯƠNG 娘 là NÀNG, từ chỉ chung phái nữ, là các bà các cô, là ngôi thứ HAI trong đàm thoại, như Bạc Bà khi ép Thúy Kiều lấy Bạc Hạnh đã mở lời hăm dọa Thúy Kiều rằng :

                              NÀNG dù quyết chẳng thuận tình,
                            Trái lời nẻo trước, lụy mình đến sau.

      Nhưng khi thêm chữ ẤY vào sau chữ NÀNG thành "NÀNG ẤY", thì lại trở thành ngôi thứ BA, như lời của Vương Quan nói cho Thúy Kiều biết về thân thế của Đạm Tiên vậy :

                              Vương Quan mới dẫn gần xa :
                          "Đạm Tiên NÀNG ẤY xưa là ca nhi...

      Khi lần đầu tiên Kim Trọng và Thúy Kiều gặp gỡ cùng "Sánh vai về chốn thư hiên, Góp lời phong nguyệt nặng nguyền non sông". Thấy bức tranh tùng của Kim Trọng vừa phác họa, Thúy Kiều đã "Tay tiên gió táp mưa sa, khoản trên dừng bút thảo và bốn câu". Khiến cho chàng Kim phải trầm trồ :

                         Khen : Tài nhả ngọc phun châu,
                        NÀNG BAN ả Tạ cũng đâu thế nầy !

     NÀNG BAN ở đây là nàng Ban Chiêu 班昭 (CN 45-117), tự là Huệ Ban 惠班, là nhà văn học, nhà sử học nổi tiếng đời Đông Hán, em gái của nhà sử học Ban Cố 班固. Sau khi Ban Cố mất Ban Chiêu đã thay anh hoàn thành tác phẩm sử học vĩ đại là "Hán Thư 漢書". Khi Hán Hòa Đế nối ngôi đã nhiều lần vời bà vào cung để dạy cho Hoàng hậu và các phi tần trong cung học hành. Khi Đặng Thái hậu lâm triều cũng có vời bà đến để tham gia chính sự. Nên trong văn học cổ NÀNG BAN dùng để chỉ những phụ nữ tài hoa giỏi giắn không thua gì nam giới.

                            Inline image

      Ngoài ra, NÀNG BAN còn chỉ BAN TIỆP DƯ 班婕妤(TCN 48 ― CN 2)là phi tử của Hán Thành Đế, là nữ tài tử, nữ trứ tác gia nổi tiếng đời Tây Hán. Bà là tổ cô (em gái của ông nội) của Ban Cố và Ban Chiêu. Sau khi bị Hán Thành Đế chê bỏ vì nghe lời của chị em Triệu Phi Yến, Ban Tiệp Dư lui về ở Đông cung làm bài thơ Oán Ca Hành 怨歌行, còn gọi là Đoàn Phiến Ca 團扇歌 dệt vào trong lụa và làm thành chiếc quạt, nói lên việc chiếc quạt đến mùa thu thì không còn được trọng dụng nữa như thân phận bị thất sủng của mình vậy. 
      Trong Cung Oán Ngâm Khúc, Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều cũng đã cho nàng cung nữ bị thất sủng của mình than thở :

                             Nhị hoa chưa mỉm miệng cười,
                          Gấm NÀNG BAN đã nhạt mùi thu dung.
      
      Vì là người đẹp, nên BAN TIỆP DƯ còn được gọi là BAN CƠ 班姬 (Cơ 姬: là phi tần tì thiếp đẹp) như trong thơ truyện Nôm "Phương Hoa-Lưu Nữ Tướng" :

                                Giá xưa nay chửa thấy ai,
                        Nào người Thái Nữ, nào người BAN CƠ.

                       Inline image   

      Khi biết được Thúy Kiều đã bán mình để chuộc tội cho mình, thì Vương Ông mới "Liều mình ông đã gieo đầu tường vôi", làm cho Thúy Kiều phải can ngăn khóc lóc và phân bua :

                           Dâng thơ đã thẹn NÀNG OANH
                          Lại thua Ả Lý bán mình hay sao  ?
        
        NÀNG OANH, tên họ đầy đủ là THUẦN VU ĐỀ OANH 淳于緹縈, người đất Lâm Chuy đời Tây Hán. Bà là con gái út của Thái Thương Lệnh Thuần Vu Ý. Ý trị bệnh chết người, bị khép tội nhục hình, trên đường bị giải về kinh để nhận tội, Ý than cho gia cảnh của mình chỉ có 5 con gái, đến khi nhà gặp chuyện không có lấy một con trai để đở đần. Nàng Đề Oanh đã theo cha đến tận kinh thành, dâng thơ lên Hán Văn Đế xin làm tì thiếp để chuộc tội nhục hình cho cha, lời văn chân thành khẩn thiết, khiến cho Hán Văn Đế cảm động, chẳng những tha tội cho cha nàng mà còn phế bỏ luôn hình phạt nhục hình tàn khốc. Sử gia Ban Cố đời Hán đã khen trong bài thơ ngũ ngôn "Vịnh Sử" rằng :"Bách nam hà hội hội, Bất như nhất Đề Oanh 百男何憒憒,不如一緹縈". Có nghĩa :"Một trăm thằng con trai ngơ ngáo, không bằng được một gái Đề Oanh !".

       Trong văn học cổ nàng Đề Oanh tượng trưng cho người con gái có hiếu với cha mẹ. Trong truyện thơ Nôm khuyết danh Nữ Tú Tài, nàng Phi Nga giả trai cũng theo về kinh để xin tội cho cha là Văn Sác :

                                   Rằng : Xưa có gái ĐỀ OANH,
                               Cứu cha khỏi nạn nên danh nữ tài.

                               Inline image  
                     
       NÀNG OANH còn chỉ THÔI OANH OANH 崔鶯鶯 và Trương Quân Thụy 張君瑞 trong truyện Tây Sương Ký của Vương Thực Phủ. Nàng Oanh nầy rất đa tình và rất lãng mạn ở dưới Mái Tây, nên mới để "Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng". Còn trong truyện "Trinh Thử" thì Chuột Đực đã ve vãn Chuột Bạch khi vừa gặp gỡ :

                              ... Mà nàng lạc lối tới đây,
                       Vả coi hình tướng cũng tày NÀNG OANH.
         
      Theo "U Quái Lục 幽怪錄", truyện "Đằng Lục giáng tuyết Tốn Nhị khởi phong 滕六降雪巽二起風" (Đằng Lục thì cho tuyết rơi, Tốn Nhị thì cho gió thổi) chép lại truyện như sau :

      Trung Thư Lệnh là Tiêu Chí Trung 蕭志忠, năm Cảnh Vân thứ hai đời Đường Tuấn Tông, đãm nhiệm chức vụ Thứ sử Tấn Châu. Ông định ngày mùng 8 tháng chạp sẽ giăng lưới tổ chức một ngày săn bắt lớn để tế thần cuối năm. Muôn thú biết tin cùng kéo đến xin với đạo sĩ ở phía đông cốc khẩu cứu mạng. Đạo sĩ bảo rằng : Tiêu Sứ Quân là người nhân đức, ông luôn nghĩ đến sự đói lạnh của thuộc cấp, bèn bày cho kế đi xin với Thần tuyết là Đằng Lục và thần gió là Tốn Nhị vào ngày hôm đó tạo nên một trận bão tuyết lớn. Qủa nhiên, vì sợ thuộc cấp đói lạnh vất vả, nên Tiêu Chí Trung bãi bỏ cuộc đi săn ngày hôm đó. Muôn thú khỏi một phen bị hại. 

     TỐN NHỊ 巽二 và PHONG DI 封姨 đều là Thần Gió trong thần thoại Trung Hoa và trong văn học cổ, còn như trong bài thơ sử trường thiên là "Thiên Nam Ngữ Lục" của ta thì gọi là NÀNG TỐN :

                                Thủy vân lòng những rắp mong,
                           Giận thay NÀNG TỐN khéo lòng thày lay.

                        Inline image

     Sau NÀNG TỐN, ta có NÀNG TÔ. Từ dùng để chỉ vợ của Tô Tần.
     TÔ TẦN 蘇秦 (TCN?-384) tự là Qúy Tử 季子. Người thời Chiến Quốc, ở đất Lạc Dương, tỉnh Hà Nam hiện nay, vốn xuất thân gia đình nhà nông, rồi trở nghề công thương, nhưng Tô Tần có chí lớn muốn ra làm quan, nên theo học phép "Liên Hoành" của Qủy Cốc Tử. Mười lần dâng kế sách cho vua Tần đều thất bại, đến nỗi hết tiền chi dụng, mão tưa áo tơi giày rách, mang tấm thân tàn ma dại về nhà. Thê bất hạ nhâm, tầu bất vi xuy, phụ mẫu bất dữ ngôn 妻不下紝,嫂不為炊,父母不與言. Vợ là Tô Thị cứ ngồi trên khung cửi dệt vải chẳng thèm mừng đón, Chị dâu thì dọn cơm không mời ăn, cha mẹ thì cũng chẳng buồn hỏi han ngó ngàn gì cả. Tô Tần vừa buồn vừa thẹn cho sự thất bại của mình, bèn phát chí vùi mài thêm về các sách lược và tình hình chiến quốc, đến nỗi suốt đêm treo tóc lên trên rường nhà sợ sẽ ngủ gật, và bên cạnh để sẵn một mũi dùi, khi buồn ngủ thì dùng nó đâm vào đùi cho đau để thức tỉnh mà học. Cuối cùng sau hơn hai năm nghiền ngẫm đã ngộ ra thế "Hợp Túng" liên kết 6 nước lại để chống Tần. Sau khi Tô Tần du thuyết được các mước nghe theo cùng liên kết lại thành "Hợp Túng Liên Minh" và cùng cử Tô Tần làm Liên Minh Trưởng mang ấn tướng của cả 6 nước. Vinh quang lên đến tột đĩnh. Khi vinh quy bái tổ thì vợ và chị dâu qùi mọp không dám ngẩn đầu lên. NÀNG TÔ là như thế đó. 
     Theo Điển Cố Văn Học của nhà xuất bản Khoa Học xã Hội Hà Nội, thì trong "Nam Hải Tế Văn" của ta có câu :

                         Cửi NÀNG TÔ không vác mặt làm thinh,
                         Mai mốt cũng rồng mây gặp hội.
                         
     Còn một NÀNG TÔ thuần túy của Việt Nam ta mà ai cũng biết đến, đó là NÀNG TÔ THỊ vọng phu. Nằm trong quần thể di tích động Tam Thanh thuộc phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn có núi Tô Thị hay còn gọi là núi Vọng Phu. Trên đỉnh núi có một khối đá tự nhiên như hình của một người phụ nữ bồng con hướng nhìn về phương trời xa xa trên mặt biển. Từ xưa tượng đá này đã gắn liền với truyền thuyết về một người đàn bà chung thủy đứng chờ chồng đi lính thú. Chờ mãi không thấy chồng về, nàng và con đã hóa thành đá. Từ đó, người dân gọi đây là tượng NÀNG TÔ THỊ. Trong ca dao Việt Nam xưa khi nói về Lạng Sơn đã có câu:
                                
                                  Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa,
                           Có NÀNG TÔ THỊ, có chùa Tam Thanh.

                          Inline image 

     Còn trong văn thơ Thời Tiền Chiến, thi sĩ Nguyễn Văn Cổn trong bài "Nước Tôi" đã có một vế thơ như sau :

                          Đá Vọng Phu nhớ thương thổn thức,
                          Tay bồng con non nước vời trông.
                          Xa xa mặt biển mênh mông...
                          Đầu non tượng đá tỏ lòng tiết trinh !...

       Từ NƯƠNG là NÀNG cuối cùng cho bài viết nầy là HÔI CÔ NƯƠNG 灰姑娘 (HÔI 灰 là Tro, là Lọ) nên HÔI CÔ NƯƠNG là NÀNG LỌ LEM, là CÔNG CHÚA LỌ LEM hay CÔ BÉ LỌ LEM, truyện cổ tích của nhà văn Pháp Charles Perrault ở thế kỷ thứ 17 làm say mê tất cả trẻ em trên thế giới. Truyện có rất nhiều phiên bản : Tiếng Anh: Cinderella, tiếng Pháp: Cendrillon, ou La petite Pantoufle de Verre, tiếng Ý: Cenerentola, tiếng Đức: Aschenputtel... Cô Bé Lọ Lem hay Đôi Giày Thủy Tinh là một câu chuyện dân gian thể hiện về sự áp bức bất công. Nhân vật chính là một cô gái trẻ sống trong hoàn cảnh không may đã được hoàng tử cưới làm vợ. Nội dung na ná như là truyện "Con Tấm Con Cám" của ta vậy.

                     Inline image

        NƯƠNG là NÀNG, NÀNG là AI ?  Mời bấm vào link dưới đây để nghe bài Tân Cổ Giao Duyên do nghệ sĩ Thành Được trình bày (Tân nhạc : Nguyễn Hữu Thiết; Cổ nhạc : Thanh Tùng) :      
                      https://www.youtube.com/watch?v=u_mI29hDHvE

      Hẹn bài viết tới !

                                                              杜紹德
                                                             ĐỖ CHIÊU ĐỨC
              


Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2025

MÙA HÈ BÂNG KHUÂNG NỖI NHỚ - TRẦN HỮU NGƯ




MÙA HÈ
BÂNG KHUÂNG NỖI NHỚ!
Dù tôi đã không còn được trẻ, nhưng mỗi năm đến hè lòng tôi cũng man mác buồn. và cũng thường bâng khuâng nỗi nhớ! Nhớ một thời cắp sách đến trường, nhớ những tà áo dài trắng, nhớ những buổi mai vội vàng vì tiếng trống trường, nhớ gói xôi chưa kịp ăn, nhét trong cặp, chờ đến giờ ra chơi! Nhớ những cây phượng trổ hoa đỏ rực, và sân trường đầy nắng…
Làm sao mà quên được mùa hè đã đi qua biết bao năm tháng? Và cuộc đời đã đi qua biết bao mùa hè có vui, có buồn. Mùa hè của tôi - những ngày xa xưa ấy - một vùng kỷ niệm ngút ngàn, mồ hôi rịn trán, mắt nổi đom đóm vì chói chang nắng, đó là mùa hè của râm vang tiếng ve, của tròn xoe hoa phượng đỏ thắm, của những ngọn gió mang hơi nóng từ một miền xa tắp nào đó như hơ cây cỏ, như hâm không khí, bầu trời như thấp xuống mang những đám mây xám xịt trôi nặng trịch trên đầu. Những hạt bụi đường khô hơn, một chút gió nhẹ cũng phát tán trong không khí, và trọng lượng thân thể chúng ta cũng nhẹ hơn vì khô nước!
Có những bài hát viết về hè, đã từng đi qua trong Chiến tranh, nay Hòa bình rồi, ít có ai nhắc tới, dù cho nhạc hè trong Chiến tranh hay nhạc hè trong Hòa bình đều giống nhau, chỉ khác nhau trong cách nghĩ. Nhạc hè cũ là những bài hát trong trắng tươi vui, nó không dành riêng cho những ai còn cắp sách đến trường, mà dành cho tất cả mọi người, vì mấy ai trong đời mà không có một lần cắp sách đến trường?
Một bài hát mang thông điệp của hè, đã làm thổn thức biết bao con tim:
“… Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn/ Chín mươi ngày qua chứa chan tình thương/ Ngày mai xa cách hai đưa hai nơi/ Phút gần gũi nhau mất rồ/ Tạ từ là hết người ơi/ Tiếng ve nức nở buồn hơn tiếng lòng/ Biết ai còn nhớ đến ân tình không…”. (Bài hát “Nỗi buồn hoa phượng” của Thanh Sơn – Lê Dinh).
Bài hát này, tác giả đã viết đúng tâm trạng những lứa học sinh thập niên 50-70 của thế kỷ trước. Mùa hè thời tiết khắc nghiệt nhất trong bốn mùa, nhưng mùa hè cũng là mùa rực rỡ và tươi đẹp (theo cách nói của những văn nghệ sĩ), nên có rất nhiều tranh ảnh, thơ văn diễn tả mùa hè. Đặc biệt, âm nhạc viết về mùa hè rất phong phú về ca từ, đa dạng về thể loại, đã làm say mê hàng triệu khán thính giả, trong đó có sinh viên học sinh.
Mùa hè dành cho tất cả mọi người chớ không riêng gì những ai còn cắp sách đến trường. Đó là kỳ nghỉ hè của một năm, dài ngắn tùy theo tập tục của mỗi đất nước và hoàn cảnh của mỗi người, và .... người Saì Gòn bỗng một ngày nào đó thấy học trò chộn rộn kỳ thi cuối cấp, các trường đại học chuẩn bị tuyển sinh, phượng Saì Gòn lác đác trổ hoa, trời hầm hập nóng, nóng xốn xang, nóng như có ai hơ lửa, và những cơn mưa thình lình không kịp tháo giầy, mặt áo mưa... thì biết hè về!
“… Rồi chiều nay hè trở về đây/ Phượng thắm ơi! Phượng thắm rơi đầy/ Lại cách xa nhau chín mươi ngày/ Hay là một thế kỷ dài/ Mà lòng ai đang khóc ai/ Một ngày nào mình mới gặp nhau/ Phượng đã phai ve trắng ru sầu…” (Bài hát “Mùa chia tay” của Duy-Khánh).
Thời tôi đi học sao nó... nhẹ tênh (cả sách vở và tâm hồn!). Mỗi năm đến hè lòng chúng ta man mác buồn vì phải xa thầy cô, xa bạn bè...
Làm sao mà quên được những bài hát viết về hè, về thời học sinh của chúng ta? Đẹp, lãng mạn, thơ ngây, trong trắng, tin yêu: Trên đầu có nắng hè, dưới chân có hoa phượng rụng, bên tai có tiếng ve, đôi mắt buồn nhìn hè đến, hè có một màu sắc rất riêng, đó là màu của chia tay, màu của tạm biệt, màu của xa và gần:
“… Ngày đôi ta quen nhau tuổi còn thơ/ Đi học chung cùng giờ/ Nhặt hoa đem cho nhau ghim vào thơ/ Đếm đầu tay mà chờ/ Thời gian qua trôi mau không ngừng đâu/ Mỗi mùa hoa phượng đầu/ Tiếng ve kêu gợi sầu/ Phút chia tay rầu rầu/ Tiếc thương riêng mình biết/ Hoặc tìm trong mắt nhau…” (Bài hát “Kỷ niệm nào buồn” của Hoài-An).
Những năm tháng xa xưa ấy, ba tháng hè tôi “dẹp sách vở qua một bên”, (thường thì gia đình cho chơi thả cửa) rủ nhau câu cá, thả diều, đá banh, nếu có điều kiện thì lên núi, xuống biển... Vậy mà khi tựu trường vào năm học mới, đứa nào làm bài cũng được thầy cô khen... Good... Bon... thế mới là lạ!
Bây giờ, mỗi năm đến hè, học sinh làm gì? Phải chăng học sinh bây giờ mỗi năm đến hè lòng cũng “man mác buồn” nhưng cái buồn không giống chúng ta, buồn vì phải học hè! Ôi, nếu thế thì còn đâu là kỳ nghỉ hè đúng nghĩa dành cho học sinh, tiếc nhỉ!
Biết bao mùa hè đã đi qua trong tôi, dù không còn cắp sách đến trường, nhưng mỗi năm hè lòng tôi bỗng bâng-khuâng nỗi nhớ!


TRẦN HỮU NGƯ 


Thứ Năm, 29 tháng 5, 2025

VỀ QUÊ XƯA - PLAYLIST NHẠC MIỀN TÂY 2025






CD CA NHẠC VỀ QUÊ XƯA
THƠ NHÃ MY, HUỲNH TÂM HOÀI
PHỔ NHẠC PHA NI TẤN,NGUYỄN HỮU TÂN
TRÌNH BÀY PHÚC DUY,HUỲNH THANH SANG,ĐỨC MẠNH
HOÀ ÂM LÊ HÙNG


Thứ Ba, 27 tháng 5, 2025

NGÓNG AI NGÀN DẶM,NHẮN NÀNG KỸ NỮ - THƠ NGUYỄN GIA KHANH




 

 NGÓNG AI NGÀN DẶM

(THTK, Giao cổ đối, Giao duyên đối)
"Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường"
(Bà Huyện Thanh Quan)
*
NGÀN dặm ngùi ai nhuốm bụi đường
NĂM dài gác lẻ lặng mùa hương
GƯƠNG khơi phận bạc xa xăm bóng
CŨ kĩ phòng loan tủi má hường
SOI dấu nao lòng phai thể ngọc
KIM bằng nhạt nghĩa xót tình vương
CỔ thi mấy vận tìm khuây khỏa
CẢNH ĐẤY NGƯỜI ĐÂY LUỐNG ĐOẠN TRƯỜNG.


NHẮN NÀNG KỸ NỮ
(THTK, Cách cú đối)
"Em về điểm phấn tô son lại
Ngạo với nhân gian một nụ cười"
(Thái Can)
*
EM hãy bằng an ủ mộng đời
VỀ hòa dĩ vãng để buồn vơi
ĐIỂM môi sắc đỏ trong hương nắng
PHẤN dẫu màu phai cũng rạng ngời
TÔ cánh sen vàng trên phận liễu
SON dù nét nhạt vẫn nồng tươi
LẠI yêu cho bóng nàng xuân tỏa
NGẠO VỚI NHÂN GIAN MỘT NỤ CƯỜI.


NGUYỄN GIA KHANH

Thứ Hai, 26 tháng 5, 2025

NƯỚC SÁT ĐI MÒ - TỪ KẾ TƯỜNG

 

Có thể là hình ảnh về 3 người và văn bản cho biết 'DAN'


MỘT GÓC TRỜI QUÊ
NƯỚC SÁT ĐI MÒ

Sông rạch quê tôi nhận nguồn nước từ cửa biển đổ vào mỗi ngày hai lần. Thủy triều lên là nước lớn, thủy triều xuống là nước ròng, gọi chung là “con nước”. Mỗi ngày “con nước” đều xoay lệch giờ và cứ như thế nguồn thủy triều đổ vào hay rút ra cũng xê dịch từ ngày chuyển thành đêm. Có hai con nước lên đến đỉnh điểm là ngày rằm và 30 mươi tính theo Âm lịch, gần 2 cột mốc này có những “con nước” từ sông đổ vào kênh rạch rất ít gọi là “nước ươn” và khi rút ra gọi là ”kiệt”, tức lúc đó, nước trong kênh, rạch rút ra sông gần như trơ cạn đáy. Vào những thời điểm như thế người dân quê tôi cư ngụ cùng xóm í ới gọi nhau “đi mò”.
Đi mò là tên gọi dân gian đúng 100% theo nghĩa đen. Tức là người ta lội xuống kênh, rạch vào giờ nước ròng cạn kiệt, khom lưng, hoặc ngồi xệp xuống đáy bùn, dùng hai bàn tay mò mẫm mọi ngóc ngách trong dòng nước lấp xấp đụng thứ gì bắt thứ nấy như tôm, cua, các loại cá nhỏ…công việc đơn giản, nhẹ nhàng này thường dành cho cánh chị em phụ nữ và trẻ con. Một buổi đi mò khoảng 2 tiếng đồng hồ cũng đủ thức ăn cho cả nhà, ai mò giỏi, được nhiều tôm cá thì mang đi bán dạo trong xóm cũng có thêm thu nhập.
Hồi nhỏ, tôi cũng là một tay chịu khó lặn ngụp, nên thường có mặt trong đội quân đi mò của xóm mỗi lần theo chu kỳ “con nước” cạn kiệt và khi nghe các bà, các chị í ới gọi nhau. Không hiểu do quy luật tự nhiên hay do lý do gì mà đi mò “con nước” đêm thường được nhiều tôm cá hơn “con nước” ngày. Bởi thế nên người xóm tôi thường rủ nhau đi mò vào “con nước” đêm, dù cực nhưng rất vui. Người đi mò chẳng cần trang bị gì, chỉ mang theo một trái bầu khô loại bầu tròn, to làm đồ dựng tôm cá. Khi xuống kênh, rạch, trái bầu được cột dây quanh thắt lưng người đi mò thả trên mặt nước, mò tới đâu, trái bầu theo sát tới đó, được con tôm, con cá nào người đi mò bỏ vào miệng trái bầu. Do miệng trái bầu nhỏ, lại có “hom” chận nên cá, tôm không thể thoát ra được.
Cá, tôm thủa ấy dưới kênh, rạch quê tôi khi nước rút còn rất nhiều nên đưa hai bàn tay xuống mò là đụng. Khó bắt nhất là cá lóc và cua biển, bởi cá lóc khi đụng tay vào nó phóng ngay nên cái mẹo của người đi mò bắt cá lóc mà không mang theo nôm là dùng hay tay quậy cho nước đục, cuộn thành xoáy để cá lóc chui vào hang trốn mới bắt được.
Còn cua biển thì khi hươ tay đụng phải nhanh chân đạp nó xuống bùn, lúc đó mới dùng tay mò bẻ hai càng, nếu không dùng chân đạp nhanh, nhận nó xuống bùn cua sẽ hươ hai càng kẹp tay người mò trúng nó, lúc đó chỉ có…kêu trời. Nhưng thứ mà người đi mò sợ nhất là cá quỷ. Loại cá này đầy gai nhọn, rất độc, mò trúng bị cá chém cho một nhát là coi như bỏ cuộc luôn, leo lên bờ về nhà trùm mền đón cơn sốt rét run người ập tới bởi chất độc chuyền vào cơ thể, uống thuốc trị chất độc của cá quỷ cũng phải ngày hôm sau mới hết.
Người đi mò cũng sợ chân dẫm phải cá ngát con, nếu bị cá ngát con chém cũng nóng lạnh run người, bị hành không thua gì cá quỷ. Khổ nỗi, cá ngát con vào mùa nước lợ hầu như có rất nhiều dưới kênh, rạch mà người đi mò nào cũng gặp. Nếu đi mò mà chưa nếm mùi cá quỷ hoặc cá ngát con chém hành nóng lạnh vài ba trận thì chưa thấm cái thú đi mò. Nhưng ngược lại, người đi mò thích nhất là gặp cá bống các, cá bống trân, cá bống dừa…mấy loại cá bống này thường dễ bắt, nhất là cá bống trân, khi mò trúng nó trân mình lại, chỉ việc bắt bỏ vào bầu. Tôi lại thích mò trúng tôm, cứ tưởng con tôm khi còn dưới nước sẽ quẫy mạnh và phóng nhanh khó bắt nhưng ngược lại con tôm rất dễ bắt khi đụng đến nó. Bời lẽ con tôm “đi ngược nước”, mò trúng nó không phóng tới mà…thụt lùi và thường “giả chết” trong tay người đi mò, nên cứ thế mà bắt. Đi mò thường gặp tôm càng xanh, nhiều con rất to, gặp mùa nước lợ, một buổi đi mò có thể bắt được năm, ba con tôm càng xanh là chuyện trong tầm tay.
Bây giờ kênh, rạch ít tôm cá, nguồn thủy sản nói chung bị tận diệt bằng các loại phương tiện đánh bắt bừa bãi, kể cả “chích điện” nên ở quê tôi ít ai đi mò. Việc các bà, các chị trong xóm đợi con nước ròng về đêm, đốt đuốc lá dừa í ới gọi nhau đi mò hầu như không còn nữa. Thỉnh thoảng về quê, nhớ lại thời “đi mò” tôi cũng đợi cho nước ròng lội xuống vườn thăm lại con rạch chảy qua, ngồi trên cây cầu khỉ vắt vẻo bắc qua con rạch um tùm hai bờ dừa nước cao ngọn, bạt ngàn nhìn xuống con rạch cạn nước. Con rạch thì vẫn như xưa, trơ bãi bùn, nước lấp xấp ngầu dục chảy ngược qua chân cầu để ra sông nhưng chẳng còn ai đi mò nữa. Cảnh cũ còn đây, nhưng người năm xưa tứ tán, tôi không khỏi bồi hồi xúc động nhớ lại kỷ niệm thời thơ ấu đã từng lặn ngụp trên con rạch này với thú vui “đi mò” đã gần như mai một.


TỪ KẾ TƯỜNG


Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2025

TRUYỆN TRUYỀN KỲ :ĐÀM PHỤNG NGỮ - KHA TIỆM LY

 




Truyện truyền kỳ

ĐÀM PHỤNG NGỮ
1. Vị Nghĩa Đường
Du Nguyên, người Hồ Nam, con nhà hào phú nhưng lại chuyên chú sách đèn. Lại khôi ngô tuấn tú, thông tuệ hơn người; bảy tuổi đã làu thông ngũ kinh tứ thư. Mười tám tuổi thi văn thơ nức tiếng một vùng.
Năm Canh Ngọ, lều chõng lên kinh ứng thí, tận mắt thấy cảnh sĩ tử đút lót cho bọn quan lại; cho là thô bĩ, khinh miệt bỏ về. Trên đường gặp phải bọn cướp, lột hết tiền lưng. Từ đó có ý định bỏ văn học võ.
Đến nhà thưa lại với cha. Du ông mắng:
- Làm trai mà không chịu tên đề bảng hổ, rạng rỡ tổ tông; lại muốn múa quyền luyện kiếm, ý muốn theo bọn mãi võ kiếm ăn, hay làm thảo khấu chốn sơn lâm?
- Con tận mắt chứng kiến lũ giòi bọ đi thi, và bọn quan trường sâu mọt; thì cái bảng hổ mà phụ thân nói, nó có giá trị gì? Đó chẳng qua là sự mua bán đê hèn. Với bọn nầy, áo mão triều đình chỉ là chỗ dựa để bòn rút xương máu lê dân. Lưỡi kiếm bén thường uống máu người nhưng cũng chẳng tanh hôi bằng loại bút mực làm đảo điên thiên hạ.
Du ông nghe cũng có lý, bèn cho chàng lên núi tầm sư. Được năm năm, mười tám ban võ nghệ đều thông.
Chẳng bao lâu thì Du ông về trời!
Vốn lòng hào hiệp, Du kết giao với hảo hán bốn phương; kể cả những thư sinh chuyên nghề nghiên bút. Bên Đông gia trang, Du lập một trại lớn, gọi là Vị Nghĩa Đường để dung nạp những người tài hoa lỡ vận. Thường ngày bố thí bá tánh; khi gặp thiên tai, tiền của bỏ ra không hề xót. Với người quẫn bách, Du lúc nào cũng sẵn sàng mở hòm giúp đỡ, chẳng cần biết kẻ ấy là ai. Vì thế cũng không ít người lợi dụng, kể cả những hạng thất phu tháng ngày lê la kiếm chác rượu trà!
Vị Nghĩa Đường lúc nào người cũng đầy, mà gia sản càng lúc một vơi, thế mà lòng Du chẳng hề hối tiếc.
Một chiều, Du đang uống rượu cùng hai người khách vận y phục võ lâm; thì có một thư sinh xin tiếp kiến. Du mời ngồi, tự rót rượu dâng, hỏi thăm quê quán, tánh danh. Thư sinh đáp:
- Kẻ hèn họ Đàm, tên Phụng Ngữ, nhà ở hướng tây. Suốt năm nay nhờ hạt cơm của Vị Nghĩa Đường mà không phải chết ở bụi bờ. Chẳng qua là phận bèo bọt, phần Vị Nghĩa Đường tân khách như vân, nên không được Du huynh hạ cố đó thôi!
Người họ Tạ có ý khinh thường:
- Thì ra lại có kẻ sống bám vào người!
Người kia họ Quách, càng cay cú:
- Ta thấy ngươi da trắng môi hồng, nên vận yếm đào, giả thành nhi nữ, vào “Mỵ Hoa Hương” sẽ được lắm người mê mệt!
Nói rồi cả hai đều phát lên cười hô hố. Du ngăn:
- Nhị vị chớ quá lời. Là người nhà cả mà.
Đàm cười, để lộ hai hàm răng trắng đều như bạch ngọc, vòng tay về phía Tạ, Quách thi lễ:
- Chẳng hay nhị vị là thần thánh phương nào đến viếng Du huynh, hay cũng chỉ là hạng ăn nhờ ở đậu như kẻ hèn nầy?
Bị vố đau, Tạ vỗ mạnh vào vai Đàm, định bóp cho xương vụn nát; nào ngờ vai Đàm cứng như đá, hắn nén đau, nén giận ngồi xuống. Đàm coi như không có hai người ở đó; nói với Du:
- Tiện sinh mạo muội tới đây dám nói một lời không phải: Bao năm nay nhờ ân đức của Du huynh mà bá tánh Nghi Xương đỡ phần đói rét; nhờ miếng cơm của Vị Nghĩa Đường mà bao anh tài đã đạt cao khoa. Nhưng tiếc rằng, Vị Nghĩa Đường cũng là nơi lẫn lộn vàng thau, chẳng khác gì trong đám lúa xanh lại chen nhiều cỏ dại, chúng lợi dụng mảnh đất mầu mỡ nầy mà nẩy nở sinh sôi. Có kẻ chỉ viết được vài câu văn mạt hạng, (liếc sang Quách, Tạ) hay biết dăm miếng võ mèo quào, cũng xưng là văn nhân, võ sĩ! Liêm sĩ chưa dính hết đầu tăm, nghĩa khí lận lưng chưa đủ, mà dám xưng là hảo hán anh hùng. Đó chẳng qua là những kẻ biếng lười, mượn Vị Nghĩa Đường miếng thịt miếng rượu để qua ngày đoạn tháng đó thôi! Nếu tình trạng nầy còn tiếp diễn, thì e rằng Du huynh dù có thiên điền vạn khoảnh, muôn dật huỳnh kim thì cũng phải tiêu tan! Mai kia Du gia ruộng vườn bán sạch, Vị Nghĩa Đường không gạo thổi cơm, chẳng biết bên cạnh Du huynh có còn ai cùng thưởng rượu nữa không?
Du hơi phật lòng nhưng chỉ nhíu mày không nói; cón Quách, Tạ thì mỉa mai:
- Rõ là lời nói của một cuồng sinh. Hồ đồ, bất phân cao hạ!
Không để ý đến lời của Quách, Tạ. Đàm tiếp:
- Du huynh hãy quên đi chuyện kết nghĩa Vườn Đào vì cổ kim có một; mà hãy để lòng đến chuyện Bàng Quyên. Bởi kẻ ti tiện đời nào cũng có. Trung ngôn nghịch nhỉ. Mong huynh chớ bỏ qua.
Nói đoạn bỏ đi.
Quả nhiên, chỉ một năm sau ruộng vườn hết sạch, Gia trang sờ gạo hết gạo, sờ muối hết muối. Tân khách bỏ đi hơn chín phần. Vị Nghĩa Đường vắng tợ chùa hoang; đến nỗi Du buồn tình thả bộ trọn vòng mà chẳng ai hay! Chợt Du thấy Đàm nằm co trong gian phòng cuối, bèn thấy vui trong lòng; hỏi:
- Đàm huynh vẫn còn ở lại à?
Đàm ngồi bật dậy:
- Chẳng qua là chờ đến ngày nầy đó thôi!
Biệt mình lỡ lời, Đàm vội đứng lên thi lễ:
- Du huynh chớ chấp! Tiểu đệ có thể mời Du huynh uống chén rượu suông để tạ lỗi chăng?
Qua vài chén rượu, Đàm mở lời:
- Bây giờ Du huynh có dự tính gì không?
Du lắc đầu:
- Điền sản bán sạch, một miếng bạc vụn không còn thì dự tính gì được chứ?
- Lúc trước Du huynh giúp người hàng vạn, nay hãy để tiểu đệ đến vay mượn lại, coi liệu thế nào?
Du dù vô vọng, nhưng cũng nghe theo. Thế nhưng trên cả sự bất ngờ, ngày nào Đàm cũng đem về nhiều bao ngân lượng. Du vui ra mặt; nói:
- Không ngờ trên đời nầy còn nhiều người biết trước biết sau như vậy. Trời không phụ lòng tốt của ta!
Đàm cùng vui theo, nhưng mỉm cười khó hiểu.
2. Đàm Phụng Ngữ.
Với ngân lượng đó, dù chỉ được vài phần như xưa nhưng cũng đủ làm cho Du gia trang hồi sinh.
Đàm tình nguyện bắt tay vào việc: Quán xuyến gia nhân, chiêu nạp tân khách. Mọi việc lớn nhỏ đều có tên, có chỗ hẳn hoi. Người nào việc nấy, nên gia trang lúc nào cũng kẻ ngược người xuôi. Tiếng thoi lại đưa lọc cọc, tiếng cửi lại chạy rập rình!... Đàm lại tự tay đong gạo thổi cơm nên mắm muối cũng không còn thừa mứa, hoang phí như xưa. Các tân khách cũng không ngoại lệ: Ai cày được thì cày; ai bừa được thì bừa. Lợi nhuận được chia theo công sức mỗi người. Kẻ giỏi võ, nhuần văn thì được người trong vùng rước về nhà để luyện võ ôn văn; kẻ có kỹ xảo thi ra chợ phô trương tài nghệ.
Người nghĩa dũng thất thời thì mừng ra mặt bởi không thẹn mình là kẻ ăn mượn, ở nhờ, lại thừa tiền bỏ túi, lận lưng; còn bọn vô lại biếng lười nay không còn cơ may bòn rút thì xấu hổ bỏ đi! Vị Nghĩa Đường đúng là hào môn vì nghĩa giúp người thất thế sa cơ; không còn là “viện tế bần” tạp nạp, trong đó có một phần bọn giá áo túi cơm.
Chẳng mấy chốc gia môn hưng vượng, bò trâu dần dần chuộc lại; vườn ruộng bờ lại liền bờ; hơn hẳn sản nghiệp của Du ông thuở trước. Du hài lòng lắm. Thấy Đàm quên ăn mất ngủ nên Du cũng tự mình bỏ bớt yến tiệc vui vầy. Một lần nói với Đàm:
- Thật không thể ngờ, bàn tay của hiền đệ cai quản việc nhà mà giới nữ lưu không sao sánh kịp.
Đàm lặng thinh, Du tiếp:
- Nếu ta có một người vợ giỏi giang như hiền đệ thi có phúc ba đời.
Đàm bụm miệng cười:
- Để được hưởng đôi tay chai như đá và đôi chân voi phải không?
- Cổ nhân có nói: “Xú phụ hữu đức”. Quý chi ở Hạ thị và vợ gã họ Tô?
Hôm ấy Du cùng Đàm uống rượu, khi đã ngà ngà. Đàm nhìn Du rồi nói:
- Huynh hãy nhìn đệ cho thỏa, bởi sáng mai không còn Đàm tiểu đệ nầy nữa đâu!
Du kinh hoàng:
- Hiền đệ nói gở gì vậy? Lại nỡ lòng bỏ huynh mà đi sao?
- Sáng mai tất biết!
Du lại hỏi; Đàm vẫn đáp ỡm ờ. Lại hỏi; lại đáp ỡm ờ! Mỗi lần như vậy Du tu một hơi vài chén, rồi gục xuống bàn hồi nào không biết.
Khi tỉnh dậy thì Đàm bỏ đi tự lúc nào! Lòng buồn, lửng thửng về phòng. Thì lạ thay! Đèn hoa sáng rực, hương thơm thoang thoảng. Nệm bông chăn chiếu mới tinh. Một tiểu thư vận lụa hồng ngồi nghiêng dáng mặt, tóc phủ tới lưng. Má phấn môi son, mi trường quá mục, cốt cách thanh kỳ. Bất chợt kiều nữ mỉm cười. Bấy nhiêu đó cũng đủ cho Du hồn xiêu phách lạc, tỉnh rượu mươi phần. Ấp úng hỏi:
- Tiểu thư là…
Kiều nữ quay lại, miệng tươi như hoa:
- Đã vội quên thế sao?
Rõ ràng là một tiểu thư diễm lệ phi thường. Du cứ nhìn trân. Bèn tiếp:
- Hãy xem con “xú phụ” nầy có đáng làm vợ chàng không?
Nghe hai tiếng “xú phụ”. Khấu bừng tỉnh; lắp bắp:
- Đàm… hiền đệ đó sao?
Rồi chạy đến ôm chầm. Da thịt mịn màng quyện hương thơm kỳ diệu làm Du ngây ngất:
- Ta có mắt như không. Ở cạnh tiên nương bao năm mà không biết!
Rồi một đêm Đàm nói:
- Cái kế lâu dài cho tử tôn không phải là để lại nhiều trân châu, dị ngọc; cũng không phải lưu lại nhiều bảo điển, kỳ thư; bởi chắc gì chúng có khả năng gìn giữ hay trình độ để nghiên cứu, tìm tòi? Chỉ có thi ân, rải đức, bố thí chúng sinh mới là sách lược cho tử tôn đời đời hưng vượng!
Du cười nhạo:
- Cây chưa ra hoa mà muốn bảo dưỡng trái rồi!
Đàm đặt tay chồng lên bụng mình, giẫy nẩy:
- Cái nầy không phải là “trái” hay sao?
Du cả mừng. Thế mà Đàm dòng châu lã chã. Du lòng ngập xót xa; dỗ dành một lát, Đàm mới gục đầu vào vai chồng, nức nở:
- Ơn cứu tử hoàn sanh thì dù cho tàn cái kiếp nầy cũng đáng mà thôi!
- Hiền thê nói chi lạ? “Cứu tử hoàn sanh” là sao ta không hiểu?
Đàm quẹt nước mắt vào áo chồng:
- Bây giờ thì không giấu chàng được nữa rồi. Thiếp đây vốn là chồn tiên. Bốn năm trước, chàng đã bỏ tiền để mua một con chồn già từ gã thợ săn. Đó là phụ thân của thiếp; nhờ vậy mà người không trễ cơ hội lên tiên. Nếu không thì thịt xương đã vào tay bụng bợm, chịu cảnh đọa đày; biết bao giờ mới được siêu thăng? Biết Du gia phải có ngày suy bại, thiếp phải tự mình đến để chỉnh hộ, hưng môn. Tưởng rằng ba năm vẹn ân tròn nghĩa, sẽ nối gót cha anh về chốn cõi trời; nào ngờ mãn vui thú gối chăn, giờ trong mình lại có mầm oan trái! Vì chàng mà bỏ ngàn năm tu luyện cũng đành, nhưng luật trời ai có tha cho?
Du bùi ngùi, thương vợ vô cùng mà không nói được lời nào.
Một ngày trong phòng sực nức hương thơm, lại nghe tiếng trẻ khóc chào đời. Du bèn chạy vào; Đàm mỉm cười chỉ đứa bé năm bên đẹp như tranh vẽ:
- Giọt máu nầy là của chính nhân quân tử, hào hiệp hơn người, lại được nuôi bằng tâm huyết của hồ tiên; sau nầy chắc chắn làm rạng rỡ tông môn. Du gia đã có người hương khói. Chàng hãy quyết tâm tu đạo. Hai mươi năm sau, nếu có duyên sẽ gặp nhau.
Du mãi miết nựng con mà không nghe lời Đàm nói. Đàm cũng rạng niềm vui:
- Chàng đặt tên con đi chứ?
- A ha! Ta có vợ hiền con đẹp nếu không gọi là Đại Phúc thì gọi là gì?
Đàm chỉ ngón tay vào trán chồng:
- Ân nghĩa đã đền đáp vẹn bề, không được đòi hỏi lôi thôi gì nữa nhé!
Du cười:
- Thói thường trả vốn phải trả lời. Ta cũng theo lệ ấy mà thôi.
Đàm bẹo nhẹ vào má con:
- Tên hào phú nầy gớm thật! Chứ cục cưng nầy không phải là lãi hay sao?
Từ đó mặt hoa đượm buồn, cờ đàn im tiếng. Đàm thường lui tới Vị Nghĩa Đường nói lời gởi gắm cùng tân khách anh hùng, lại dặn dò đám gia nhân hãy giữ lòng trung tín, chung lưng bồi đắp gia trang. Mọi người cho là điềm gở nhưng không tiện nói ra.
Đến một ngày, từ phòng bước ra, nàng vận y phục như mây, hương thơm ngào ngạt. đến hôn con, lạy chồng, và chấp tay xá dài các hào kiệt cùng gia nhân:
- Những lời ta đã nói, xin quý vị nể tình mà mà đáp ứng cho.
Đoạn quay sang chồng:
- Những lời thiếp dặn chàng chớ quên, thì sau nầy còn cơ hội gặp nhau. Đã đến giờ rồi…
Du rụng rời, nói không thành tiếng, vội nắm áo nàng, nhưng như nắm vào mây khói. Nàng vút mình lên, hình hài tan biến theo hư không!
Vị Nghĩa Đường bàn nhau lập miếu thờ. Kính là “Ân Đức Tiên Nương”
Lúc Đại Phú hai mươi tuổi, nhớ lời vợ, Du giao việc nhà cho con rồi ngao du về hướng tây. Từ đó không nghe tin gì nữa!
Một lần Càn Long du Giang Nam, có ghé Du gia trang, nghe kể chuyện lạ, bèn tự tay ban cho bốn chữ “Hiếu Nghĩa Nương Nương” thay cho “Ân Đức Tiên Nương”. Ban cho Du gia trang là “Giang Nam Kỳ Trang”, ban cho Du công tử (Đại Phúc) là “Tiểu Mạnh Thường”.
Những năm liệt cường xâu xé Trung Hoa, trong dòng người chạy loạn, có người nương nhờ tại “Giang Nam Kỳ Trang”, kể rằng; dù chung quanh bom đạn tơi bời, nhưng “Hiếu Nghĩa Nương Nương miếu” không vướng một mảnh đạn, ngày đêm vẫn nghi ngút khói hương./.


KHA TIỆM LY