CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2025

Thứ Bảy, 30 tháng 8, 2025

Thứ Sáu, 29 tháng 8, 2025

UỐNG RƯỢU DƯỚI TRĂNG - THƠ HUY VỤ

 



UỐNG RƯỢU DƯỚI TRĂNG

Heo may lạnh lẽo thổi lưng trời
Xào xạc bên đường lá rớt rơi
Đất nước vươn mình đang khởi sắc
Non sông cất cánh phải chờ thôi
Văn thơ chẳng ích gì cho lắm
Chí khí còn đâu để đắp bồi
Lực bất tòng tâm đành chấp nhận
Buồn lòng dốc cạn mấy ly bôi

Ly bôi thiếu vắng bạn tâm giao
Hỏi chốn Bồng Lai ở hướng nào
Lối thoát bờ mê đầy khấp khểnh
Đường về bến giác lắm chênh chao
Sẻ chia với gió vần thơ nhạt
Đối ẩm cùng trăng chén rượu đào
Mây tím dìu thu vào cõi tục
Cho lòng cô lữ lại nôn nao.



HUY VỤ
29/08/2025

Thứ Năm, 28 tháng 8, 2025

TỪ GIÃ HOÀNG HÔN TRONG MẮT EM - TRẦN HỮU NGƯ




 “TỪ GIÃ HOÀNG-HÔN

TRONG MẮT EM”
Tôi xin mượn câu hát trong bài “Mái tóc dạ hương”, thơ Đinh-Hùng, Nguyễn- Hiền phổ nhạc, để làm tựa trong bài viết này.
Tôi đã từng mê tập thơ “Đường vào tình sử” của Đinh-Hùng, nhưng những ngày chạy giặc, bỏ mất. Tôi nhớ tập thơ khổ lớn, giấy croqui in đẹp và sang trọng. Trang đầu, trước khi bước vào “Đường vào tình sử”, Đinh-Hùng đã giới thiệu:
“ Những cánh hoa này rất mỏng manh
Ngày mai gió cuốn lá xa cành
Và ngày mai nữa em đi dạo
Sẽ gặp hồn anh trên cỏ xanh…”.
Tôi mê “Đường vào tình sử”, mê “Những cánh hoa mỏng manh” và thuộc bốn câu thơ từ những năm tháng Chiến-tranh, và không làm sao quên câu thơ ‘Từ giã hoàng hôn trong mắt em” trong bài thơ MÁI TÓC DẠ HƯƠNG đã được nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ nhạc.
Bây giờ trong cơn lốc “cơm áo, gạo tiền”, người thôn quê, cả người thành thị đã quên hoàng-hôn? Thành thị thì quên đã đành, vì nhà cao tầng che kín chân trời, còn ở nông thôn cũng quên luôn, vì bây giờ thôn thôn cũng đã đổi mới, cũng cao tầng, kín cổng, ai đâu còn lãng-mạn mà ngắm hoàng hôn? Trong cuộc sống tất bật, làm việc, ăn ngủ còn không có thì giờ, đâu ai còn đầu óc mà nghĩ đến ngắm hoàng-hôn ?
Nếu chẳng may một buổi chiều nào đó, có ai đó đứng ngắm hoàng-hôn, tức thì có người hỏi: Nhìn cái gì đó? Hâm hả? Ngáo đá hả? Chập mạch hả? Không khéo ngắm hoàng-hôn, người ta tưởng dở hơi, “thần kinh phân liệt” đem vào nhà thương Biên Hòa thì… thúi đời!
Tôi xa quê, xa biển lâu rồi, nghe nhạc hoàng-hôn, tôi bỗng nhớ, và hình dung rồi vẽ lại trong đầu cái thời, mặc quần xà lỏn, ở trần leo lên động cát biển, ngồi xuống làm “Văn nghệ sĩ” mà ngắm hoàng-hôn, nhìn ông mặt trời tròn như hòn bi đỏ hỏn, rất hiền từ, từ-từ, chầm-chậm đi xuống… đi xuống biển, rồi lặn mất phía xa đường chân trời, cứ tưởng mặt trời đuối nước, ngộp thở!
Hoàng-hôn đẹp yêu kiều, đẹp lộng lẫy, đẹp dịu-dàng, đẹp như không có gì để so sánh. Hoa hậu mà đem so với hoàng-hôn thì hoa hậu chạy rớt váy!
Học trò ngày nay nếu mà bắt tả hoàng-hôn, thì bảo đảm rằng sẽ cắn bút, có em không biết hoàng-hôn là gì? Nhưng hỏi “Hôn môi xa” là gì, thì biết ngay!
Nhạc viết về hoàng-hôn cũng không có nhiều, trên dưới một chục nhạc phẩm gì đó. Nhưng nhạc sĩ viết được bài hoàng-hôn nào là bài đó mà hay, được người nghe nhớ dai, bài hát đó đi theo họ suốt đời.
“Nay hoàng hôn đã, lại mai hôn hoàng”(Kiều).
Trong những nhạc phẩm viết về hoàng-hôn, thì bài hát “Tiếng xưa” của Dương- Thiệu-Tước là khó hát nhất. Ca sĩ “lơ-tơ-mơ” chưa “sạch nước cản” mà hát bài này thì chỉ làm “Tiếng xưa” sẽ thành “Tiếng nay” thôi :
“… Hoàng hôn lá reo bên thềm
Hoàng hôn tơi bời lá thu
Sương mờ ngậm ngùi xuân xanh
Bâng khuâng phím loan vương tình…”
Lại một hoàng-hôn nữa, một nhạc phẩm tiễn nhau trong Chiến-tranh “Chuyến tàu hoàng hôn” của Minh-Kỳ - Hoài-Linh, đã một thời làm biết bao lòng người “sầu tê tái” mỗi khi tiễn người yêu ra chiến tuyến:
“… Chiều nao tiễn nhau đi khi bóng ngả xế tà
Hoàng hôn đến đâu đây
Màu tím dâng trong hồn ta
Muốn không gian đừng tan
Níu đôi chân thời gian
Ngừng trôi cho giây phút chia ly này kéo dài…”
Mấy năm gần đây, có một ca sĩ “gạo nàng hương” đã yêu Boléro, đã hát Boléro, đã “thách thức” Boléro, đã hát “Chuyến tàu hoàng hôn” chỉ sai một chữ đã làm chuyến tàu bể bánh, trật đường rầy:
“Xe lăn trong ĐÊM khuất xa rồi biết đâu tìm…”.
-Đúng, xe lăn trong ĐÊM, nhưng như vậy thì tầm thường quá, phải là “Xe lăn trong TIM khuất xa rồi biết đâu tìm…”, mới đúng ý của tác giả và đúng bài hát khi mới ra đời.(Chữ TIM ở đây là diễn tả nỗi đau)
Tôi, ngày đó, một thằng con nít sống ở biển, xếp vào loại dân Pa-de-ghe, xổ mũi quanh năm, quẹt nước mũi bằng hai tay áo bà ba, hình như cả tháng trời, áo mới được giặt một lần, hai tay áo cứng đơ như có ai trét hồ, chờ áo khô mặc tiếp vì “nhứt y nhứt quởn” mà! Chờ Tết mới có bộ đồ mới. Vậy mà tôi có máu “văn nghệ”, mê “Tôi đi giữa hoàng hôn” của Văn-Phụng:
“Tôi đi giữa hoàng hôn
Khi ánh chiều buông
Khi nắng còn vương
Một mình tôi ngắm cánh chim lạc loài
Mà lòng mình thấy u hoài…”
Đến năm 60, tôi bỏ lại sau lưng những con còng biển, con dã tràng xe cát, bỏ tiếng sóng xô bờ, bỏ mái nhà lắc tư như răng bà già sắp rụng, bỏ người mẹ gánh cá mướn cùng đứa em nhỏ dại… Tôi đi học xa nhà. Rồi tôi biết yêu, biết chạnh lòng trước đôi mắt đẹp, biết nhung nhớ mông lung, biết vấn-vương mái tóc thề:
“…Từ giã hoàng hôn trong mắt em
Tôi đi tìm những phố không đèn
Gió mùa thu sớm bao dư vị
Của chút ân tình hương tóc quen
Từng bước lần theo trăng viễn khơi
Trong đêm còn mơ dáng ai cười
Tiếng cười như cõi thiên thu lại
Tiền kiếp xưa nào em hé môi…”
(Nhạc phẩm “Mái tóc dạ hương” Nguyễn-Hiền phổ thơ Đinh-Hùng)
Ôi, bài thơ đẹp, những nốt nhạc cũng tươi. Bài thơ mang “triết lý nhân sinh”, một mái tóc dạ hương thoáng mùi trong màu sắc hư ảo của đêm.
Từng ngày, từng tháng, từng năm đi qua. Tất cả đều là dĩ-vãng. Dĩ-vãng có buồn, có vui, huy-hoàng hay tàn-tạ…
Nhớ lại để tiếc thương và dằn vặt một dĩ vãng:
-“Dĩ vãng nào xanh hơn mắt em?”
Và tôi đã “Từ giã hoàng hôn trong mắt em” vào những năm tháng xưa thật là xưa.
Bây giờ tôi chỉ còn “Hoàng hôn trong mắt tôi!” gần thật là gần.


TRẦN-HỮU-NGƯ

Thứ Tư, 27 tháng 8, 2025

CÒN TẬN TÂM HỒN- THƠ MẶC PHƯƠNG TỬ



 CÒN TẬN TÂM HỒN


Ta dạo mãi một cung đàn chưa dứt
Nên ta còn theo miết nhịp thời gian
Phương mây trắng vẫn thênh thang đếm bước
Dù biết mai kia sẽ chuyển cung đàn.

Ta vẫn biết đường chiều hoang dấu cũ
Nên có loài thú dữ thả rong chơi
Ta vẫn biết giữa nghìn trùng mưa lũ
Nên gió mây cuồn nộ thoáng đen trời.

Ta nghe tiếng dế bên bờ lá ủ
Hắt hiu từng cơn gió lạnh canh thâu
Tiếng cú vọng vang bên trời vô chủ
Cánh vạc đêm sương lạc giọng giang đầu.

Ta vẫn biết phương đông trời sẽ mọc
Đường mây về chim hót rạng từng không
Hoa lá cỏ sẽ tắm hồn mưa móc
Cung đàn xưa sẽ chuyển nhịp phương hồng.

Đêm uể oải đã tàn trên bến cũ
Ánh trăng khuya lồng lộng gió lên ngàn
Tình hạt bụi cùng cỏ hoa hội tụ
Thức bình minh từng nhịp ý xuân sang.

Đường nhân thế muôn trùng hoa lá cỏ
Và lắm điều đá sỏi chạm chân son
Nhưng hoa lá vẫn tươi màu lối nhỏ
Và cỏ xanh vẫn thơm tận tâm hồn.


Louisianna, New Orleans, tháng 9. 2014.
MẶC PHƯƠNG TỬ

Thứ Hai, 25 tháng 8, 2025

CÂU CHUYỆN CUỘC SỐNG : Ý NGỦ VÀ Ý THỨC

 


CÂU CHUYỆN CUỘC SỐNG:
“Ý NGỦ” VÀ “Ý THỨC”
Xã hội văn minh luôn là mục đích hướng tới của mọi người. Ngoài việc chi phối của pháp luật để điều chỉnh hành vi thì ý thức của mỗi người tuân thủ những quy định là cực kỳ quan trọng. Do đó việc “kích hoạt” chủ đề trọng tâm: “Văn hóa giao thông vì sự an toàn của cộng đồng và trật tự văn minh đô thị” luôn đòi hỏi mỗi người không được xao lãng mỗi khi ra đường, tham gia vào sinh hoạt xã hội.
Nạn kẹt xe ở nhiều thành phố lớn hiện nay vẫn còn triền miên, tai nạn giao thông và mức độ nghiêm trọng vẫn không hề giảm. Có nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân ngày càng lộ rõ đó là tình trạng người điều khiển phương tiện tiện giao thông, việc chấp hành những quy định về giao thông quá kém, trong số đó lại có “một bộ phận” gần như không có ý thức văn hóa giao thông. Chuyện uống rượu say điều khiển phương tiện giao thông bất chấp, hoặc ngay như người tỉnh táo cũng vẫn không tuân thủ luật lệ giao thông có thể thấy ở những chốt đèn tín hiệu giao thông không có cảnh sát đứng gác.
Có thể nhận thấy điều này thể hiện rõ trên đường phố mọi lúc, mọi nơi. Ở nhiều giao lộ, có chốt đèn tín hiệu giao thông, nhưng nếu không có cảnh sát giao thông hoặc thanh niên xung phong túc trực thì hình ảnh người vượt đèn đỏ không phải là cá biệt. Điều này không chỉ gây khó chịu cho người cùng lưu thông, mà còn gây nguy hiểm cho người lưu thông ở hướng ngược lại. Thậm chí bây giờ khi tới giao lộ, đèn đỏ đã bật lên, người chấp hành nghiêm túc luật giao thông muốn dừng lại cũng phải ngó trước, ngó sau để “ né” cái anh vượt đèn đỏ. Nếu lỡ xảy ra va quẹt, thay vì nhận lỗi về phần mình, kẻ vượt đèn đỏ còn sửng cồ, chửi bới, dọa nạt người đi đúng luật, hoặc văng tục một cách mất dạy, vì kẻ này không từ một ai, dù người đó lớn tuổi, đáng mặt cha, chú của mình.
Do đường chật, xe đông, nên ô tô hoặc xe máy thường chạy lấn tuyến lẫn nhau là cảnh tượng cũng thường thấy. Nhất là những phương tiện giao thông công cộng như xe buýt, xe taxi. Xe buýt thì ỷ mình được nhiều quyền ưu tiên nên chạy càn, lướt, ép xe máy không nương tay. Khi tới trạm dừng đỗ, rước khách không đúng quy định trong vạch sơn dành cho mình mà ngang nhiên đậu giữa phần đường dành cho xe máy.
Còn xe taxi đúng là hình ảnh của những con ngựa bất kham, chạy loạn cào cào, muốn cua chữ u lúc nào thì cua, bất chấp an toàn giao thông và đây là sự cố ý không chấp hành luật giao thông mà mối nguy cho xã hội tăng cao vì họ là những người lái xe, điều khiển phương tiện giao thông công cộng đối tượng đang được khuyến khích trong giải pháp kéo giảm phương tiện giao thông cá nhân.
Có nhiều tuyến đường cấm xe thô sơ như xích lô, ba gác…nhưng ngay trong giờ cao điểm những loại xe này vẫn cứ chạy ngờ ngờ giữa dòng xe cộ đông nghịt mà cảnh sát giao thông vờ như không thấy, hoặc thấy cũng không có thái độ gì. Thậm chí có chiếc xe ba gác chở ngất trời mây loại sắt thép xây dựng, cây nào cây nấy dài sọc mà chỉ lơ đễnh một chút xíu thôi những cây sắt nhọn này có thể đâm vào lưng bất cứ ai đang chạy xe phía trước. Ở trước các trường học trong giờ cao điểm đưa, rước con em, phụ huynh học sinh dừng xe dưới lòng đường một cách vô tư, không biết rằng bản thân mình đã không chấp hành luật giao thông mà còn cản trở sự lưu thông của người khác.
Không bàn chuyện lô cốt, đường bị đào lên lấp xuống vô tội vạ, nạn lấn chiếm vỉa hè, các phương tiện kinh doanh, buôn bán tràn ra mặt đường cũng là một trong những nguyên nhân cản trở giao thông. Chỉ khoanh lại ở con người tham gia giao thông và xin kêu gọi mọi người hãy vì bộ mặt văn minh đô thị mà ứng xử có văn hóa khi tham gia giao thông mọi lúc, mọi nơi. Đây là vấn đề ý thức bản thân của người có văn hóa ở một thành phố văn minh chứ không cần phải có mặt lực lượng CSGT mới “điều chỉnh” được hành vi này. Nhưng buồn thay, chuyện cũ chẳng có gì mới, mà cứ nói hoài vẫn thấy tình trạng “ý ngủ” nhiều hơn “ý thức”, thay vì phải ngược lại.


TỪ KẾ TƯỜNG

Thứ Sáu, 22 tháng 8, 2025

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH : ÔNG TƠ BÀ NGUYỆT - ĐỖ CHIÊU ĐỨC

 


THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH :

ÔNG TƠ BÀ NGUYỆT




               
      ÔNG TƠ BÀ NGUYỆT : ÔNG TƠ là ÔNG già se TƠ ở dưới ánh trăng, chữ Nho gọi là NGUYỆT HẠ LÃO NHÂN 月下老人, gọi cho gọn lại là NGUYỆT LÃO 月老, và "Bà xã" của Nguyệt Lão là BÀ NGUYỆT. Điển tích "ÔNG TƠ BÀ NGUYỆT" có xuất xứ từ "Tục Huyền Quái Lục của Văn học gia Lý Phục Ngôn đời nhà Đường 唐朝文學家李復言所著的《續玄怪錄》, nhưng đến đời nhà Tống vì kỵ húy của Tống Thánh Tông là Triệu HUYỀN Lãng 趙玄朗, nên "Tục Huyền Quái Lục" được đổi thành "TỤC U QUÁI LỤC 續幽怪錄" với tích Định Hôn Điếm 定婚店 (Cái quán định đoạt hôn nhân), Xích Thằng Hệ Túc 赤繩繫足 (dây đỏ buộc chân) hay NGUYỆT HẠ LÃO NHÂN (Ông lão dưới trăng) như sau đây : 
          Inline image
 
      Vào năm Đường Nguyên Hòa thứ hai (807), đất Đỗ Lăng có thư sinh Vi Cố 韋固, con nhà thế gia vọng tộc. Cha mẹ mất sơm, nên Cố đi du học bốn phương, vừa để học tập cầu tiến vừa để tìm kiếm hôn nhân. Khi đến Tống Thành, có người mai mối cho Vi Cố cưới con gái của quan tiền nhiệm huyện Thanh Hà là Tư Mã Phan làm vợ. Hẹn rằng sáng sớm hôm rằm sẽ gặp người mai mối ở trước cửa chùa Long Hưng Tự ở Nam Điếm để nói chuyện.
      Đến hẹn, Vi Cố vì nóng lòng với chuyện hôn nhân nên đêm đó không ngủ được. Trời chưa sáng mà đã lần mò đến trước cửa chùa. Bỗng chàng trông thấy một ông lão râu tóc bạc phơ, tiên phong đạo cốt ngồi trên bậc tam cấp trước cửa chùa đang giở xem một quyển sách. Hiếu kỳ chàng bèn đi tới ghé mắt nhìn vào, thì ngạc nhiên làm sao, trên sách là loại chữ rất đặc biệt không sao đọc được. Chàng bèn khẩn khoản hỏi thăm ông lão, thì được ông lão cho biết đó không phải là chữ của nhân gian, và bản thân ông cũng không phải là người của nhân gian nữa. Hiếu kỳ và thích thú, Vi Cố hỏi trong sách ghi chép những gì, thì ông lão cho biết đó là sách ghi chép tất cả những cuộc hôn nhân của trai gái trên đời nầy. Đoạn ông lấy ra một cuộn chỉ đỏ và giải thích rằng, khi ông đã buộc chỉ đỏ nầy vào chân của cặp trai gái nào rồi, thì dù cho có quan san cách trở hay thù oán lẫn nhau gì gì đi nữa, thì rốt cuộc cũng sẽ thành vợ thành chồng với nhau mà thôi. 

Inline image

     Trong lúc đang tìm kiếm hôn nhân, Vi Cố bèn hỏi ông lão xem có biết mình chừng nào kết hôn và vị hôn thê của mình là ai không ? Ông lão bèn lật sách ra xem rồi nói rằng : Vợ của Vi Cố năm nay mới có ba tuổi và phải mười bốn năm sau thì hai người mới kết hôn được. Đang lúc nóng lòng muốn cưới vợ, nghe ông lão nói thế, Vi Cố nản qúa bèn hỏi tới rằng : “Vậy chớ bây giờ vợ tôi đang ở đâu ?”. Ông lão đáp là :“Vợ của cậu đang ở tại đây, ở phía bắc của Nam Điếm nầy, đang do một người đàn bà bán cải trông nom. Cậu đừng nóng ruột, trời sáng thì sẽ gặp mặt thôi!”
  
Inline image
                     
     Khi trời đã sáng hẵn rồi, mà người mai mối ước hẹn với Vi Cố cũng không thấy tới. Ông lão ngồi dưới trăng cũng cất sách vào bọc. Đoạn đứng dậy bảo Vi Cố đi theo ông ta vào chợ. Khi đến hàng cải, thấy có người đàn bà một mắt tay đang ẵm một đứa bé mũi dãi thò lò, đang mua cải. Ông lão bèn chỉ vào cô bé gái bảo : “Đây là vợ cậu đó !”. Vi Cố nghe xong cả giận nói : “Nếu lời nói của ông không sai, thì tôi sẽ giết con bé nầy !”. Ông lão cười bảo : “Đây là mạng số đã an bày, e rằng cậu sẽ không giết nổi cô ấy đâu !”. Nói đoạn, ông lão quay lưng bỏ đi mất.

Inline image

      Vi Cố là con nhà thế gia vọng tộc, cho là ông lão cố ý làm nhục mình, nên khi về đến nhà trọ, bèn đưa một con dao nhỏ cho một gia đồng, bảo ra chợ đâm chết con bé gái của người đàn bà một mắt. Trong thời buổi phong kiến, thì việc con nhà quyền thế, cậy quyền cậy thế để giết hại người nghèo cũng là chuyện thường tình, còn các đầy tớ do chủ nuôi thì cứ sai đâu đánh đó, nhắm mắt làm càng. Tuy nhiên, mạng người hệ trọng, giữa chợ giữa búa lại là lúc ban ngày ban mặt mà dám giết người giữa chợ thì cũng không phải là chuyện tầm thường. Nên khi ra đến chợ, tên gia đồng lừa thế đâm đứa bé một nhát rồi bỏ chạy trối chết. Khi về đến nhà trọ Vu Hựu hỏi kết qủa thế nào. Tên gia đồng bảo là vì có người đàn bà che chở, nhưng vẫn đâm trúng một nhát vào đứa bé, còn sống chết ra sao thì chưa biết !
      Sau vụ om sòm ngoài chợ, Vu Hựu cũng hối hận cho sự nóng giận bồng bột của mình, nên bỏ đi nơi khác. Những năm sau đó chàng tiếp tục tìm người hôn phối khắp nơi để cầu hôn, nhưng đều thất bại, cộng thêm mấy lần thi rớt, công danh không thành, hôn phối không xong, gia cảnh ngày một khốn khó. Cuối cùng, chàng đành phải dẹp lòng tự ái tự trọng để xin một chức phụ ấm của cha để lại : làm Tham Quân cho xứ Tương Châu. Lúc bấy giờ chàng đã ngoài ba mươi tuổi và vẫn còn độc thân trơ trọi có một mình.
      Thứ sử Tương Châu là Vương Thái thấy chàng tướng mạo đoan trang, lại có văn tài, giao cho chàng kiêm nhiệm luôn về tư pháp ty của địa phương, chàng đều hoàn thành thật xuất sắc. Thấy chàng đã ngoài ba mươi mà chưa thành gia lập thất, nên Vương bèn gả con gái út cho chàng làm vợ. Cầu hôn suốt mười mấy năm trời đều thất bại, bỗng dưng được vợ, lại là con gái cưng của thượng cấp, Vi Cố vui mừng quá đổi. 
              
Inline image
            
      Đêm động phòng hoa chúc, thấy cô dâu Vương Thị chỉ khoảng mười bảy mười tám tuổi, xinh đẹp vô cùng, lại theo thời trang đính một hoa vàng ở giữa đôi mày trông càng xinh xắn kiểu dáng vô cùng. Vi Cố rất thỏa mãn và hạnh phúc với cô vợ trẻ đẹp này. Nhưng không biết vì sao đóa hoa vàng làm dáng ở giữa mày, cả khi đi ngủ đi tắm nàng cũng không chịu mở ra, khiến Vi Cố vô cùng thắc mắc. 
      Một hôm, khi vợ chồng đang trò chuyện thân mật với nhau, chàng mới thừa cơ hỏi rõ nguyên do. Nàng bèn cười mà đáp rằng : “Đó chẳng qua là tính thích làm đẹp của phái nữ, muốn giữ cho đẹp mà thôi !” Đoạn kể cho chàng nghe về lai lịch của mình. Thì ra, nàng không phải là con ruột của Vương Thứ Sử, chỉ là cháu gọi bằng chú mà thôi. Lúc nhỏ vì trên đường đi làm quan xa, cha nàng bị bệnh mất sớm, chẳng bao lâu mẹ cũng buồn rầu mà mất theo. Lúc đó nàng chỉ mới ba tuổi, phải sống nương nhờ vào bà vú nuôi, trồng cải ở mảnh đất sau nhà, nên mỗi ngày phải ra chợ bán cải cho bạn hàng. Một hôm không biết vì cớ gì có một kẻ côn đồ cầm dao định đâm nàng chết, may mà bà vú nhanh mắt tránh sang một bên, nên chỉ sướt qua giữa chân mày, vì thế mà nàng phải đính một đóa hoa vàng để che đi cái thẹo còn để lại. Sau đó chú nàng là Vương Thái tìm đến đem nàng về nuôi nấng và nhận làm con nuôi.

Inline image

      Vi Cố nghe xong cả kinh, mồ hôi ra ướt cả mình, hỏi lại rằng : “Có phải bà vú của nàng là người đàn bà chỉ có một mắt hay không ?” Vương Thị cũng rất ngạc nhiên mà hỏi lại rằng : “Sao chàng lại biết ?!”. Đến nước nầy, Vi Cố bèn kể lại chuyện Nguyệt Lão là Ông gìa dưới trăng đã định sẵn hôn nhân của hai vợ chồng cho nàng nghe. Vương Thị cũng vô cùng cảm khái cho cuộc hôn nhân tiền định nầy, vì thế mà vợ chồng càng yêu thương khắn khít nhau hơn là những cặp vợ chồng thường khác.
      Vi Cố vì hưởng phụ ấm mà được chức quan nhỏ, nhưng nhờ gia đình bên vợ nâng đở, nên đường hoạn lộ cũng hanh thông. Sau nhờ con trai trưởng là Vi Cổn bình loạn có công, được phong làm Thái Thú Nhạn Môn Quan, lại được vua ban hàm Tướng Quân, mẹ là Vương Thị cũng được phong hàm Thái Nguyên Quận Thái Phu Nhân. Vì thế, mà câu chuyện Nguyệt Lão ở Nam Điếm của Tống thành ngày xưa được nhân gian truyền tụng và nhắc nhở. Huyện lệnh Tống Thành bèn đổi Nam Điếm thành Định Hôn Điếm 定婚店là nơi Định đoạt Hôn Nhân của người thế gian, đồng thời cũng cho xây miếu để thờ phượng Ông Già Dưới Trăng, gọi là Nguyệt Lão Miếu 月老廟.

Inline image

       Trong văn học cổ Việt nam Nguyệt Hạ Lão Nhân được nhắc đến với các tên gọi : Ông Già Dưới Trăng, Ông Tơ, Nguyệt Sứ, Nguyệt Lão... Như trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn như Hầu Nguyễn Gia Thiều nàng cung phi đã gọi một cách lẫy hờn và nghi ngờ rằng :

                     Tay NGUYỆT LÃO chẳng xe thì chớ,
                     Xe thế nầy có dở dang không ?

      Còn trong truyện thơ Nôm Khuyết danh "Từ Thức Gặp Tiên" thì gọi là Nguyệt Sứ với câu :

                         Lọ là NGUYỆT SỨ băng môi,
                     Phận này duyên ấy ắt thời trong tay.

      Còn trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Nữ Tú Tài" thì gọi là Ông Nguyệt :

                        Toại lòng hương lửa tưng bừng,
                Tạm quyền ÔNG NGUYỆT, Xích Thằng xe dây.
     
      Vì chuyên se tơ cho trai gái lấy nhau, nên ÔNG NGUYỆT còn được gọi là ÔNG TƠ, như khi Kim Trọng đến từ biệt Thúy Kiều để đi Liêu Dương hộ tang chú, thì Thúy Kiều cũng đã oán trách :

                        ÔNG TƠ ghét bỏ chi nhau,
                    Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi.

      Hay khi bị Hồ Tôn Hiến ép gã cho Thổ quan, Thúy Kiều lại một lần nữa lên tiếng oán trách :

                        ÔNG TƠ sao khéo đa đoan,
                     Se tơ sao lại vơ quàng vơ xiên ?!
 
      Sợi TƠ mà Ông Tơ dùng để se là một sợi chỉ màu hồng, nên còn được gọi là CHỈ HỒNG. Như khi nghe Kim Trọng tỏ tình, Thúy Kiều đã trả lời một cách rất khéo léo và khôn ngoan rằng :

                        Dù khi lá thắm CHỈ HỒNG,
                   Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.

      Chỉ Hồng còn được nói trại đi thành CHỈ THẮM, như trong Tây Sương Ký :

                        Nhân duyên sao khéo hẹn hò,
                    Rắp đem CHỈ THẮM se cho Trịnh Hằng.

      Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, Chỉ Hồng không gọi là Chỉ Thắm mà còn được gọi là DÂY THẮM như :

                     Ý cũng rắp ra ngoài đào chú,
                     Quyết lộn vòng phu phụ cho cam.
                     Ai ngờ trời chẳng cho làm
                     Nở đem DÂY THẮM mà giam bông đào.

       Nhưng Dây Thắm, Chỉ Thắm hay Chỉ Hồng gì đều cùng một gốc chữ Nho là XÍCH THẰNG 赤繩 (là sợi dây màu đỏ) mà ra cả. Như lời Thúy Kiều đã nói với Kim Trọng trong lần đầu Kim Kiều hội ngộ :

                      Nàng rằng hồng diệp XÍCH THẰNG,
                      Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri.
                      Đừng điều nguyệt nọ hoa kia,
                      Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai ?!

    ... hay như lời Mã Giám Sinh đã thề và hứa với Vương Viên Ngoại khi sắp lên đường ở “Bề ngoài mười dặm trường đình “  là :

                          Cạn lời khách mới thưa rằng :
                  Buộc chân thôi cũng XÍCH THẰNG nhiệm trao.
                          Sau dù sinh sự thế nào,
                  Kìa gươm nhật nguyệt nọ dao qủy thần !

    ... hoặc như nàng cung nữ của trong Cung Oán đã than van oán trách :

                      Ngẫm nhân sự cớ chi ra thế,    
                      Sợi XÍCH THẮNG chi để vướng chân
 
      Nói tóm lại, các Điển tích : Chỉ Hồng, Chỉ Thắm, Dây Thắm, Xích Thằng,  Nguyệt Lão hay Ông Tơ... đều do cùng một điển tích NGUYỆT HẠ LÃO NHÂN 月下老人 trong Tục U Quái Lục của Lý Phục Ngôn mà ra cả. Và vì có liên quan đến hôn nhân và nhân duyên của trai gái, nên mãi cho đến...           

Inline image

    ... Ngày nay, ở khắp nơi trên thế giới, hễ nơi nào có người Hoa là nơi đó đều có miếu thờ Nguyệt Lão cả, nếu không, thì cũng có bàn thờ Nguyệt Lão được thờ chung với các vị thần khác ở tất cả các miếu. Riêng ở Trung Hoa thì miếu thờ Nguyệt Lão có ở khắp nơi trong nước, nhưng nổi tiếng nhất là Nguyệt Lão Miếu ở Hàng Châu, không phải vì nó đẹp và linh thiêng hơn các nơi khác mà vì nó có nét cổ kính và nhất là đôi câu đối bất hủ ở hai bên cổng miếu không biết do danh sĩ nào đã làm ra :

             Nguyện thiên hạ hữu tình nhân chung thành liễu quyến thuộc,
              願    天   下  有   情   人   终     成    了   眷     屬,
             Thị tam sinh chú định sự mạc thác qúa lương duyên !
              是    三   生   註   定    事   莫   錯     過   良    緣。
Có nghĩa :
           Mong cho tất cả tình nhân trong thiên hạ, đều được nên gia thất,
           Là chuyện tiền định từ ba kiếp trước, đừng để lở mất duyên lành !

      Rất bình dân, rất nên thơ mà cũng rất thực tế, rất thiệt tình và hợp với tình người !                 
      Còn một chuyện rất mỉa mai đến buồn cười là : Nguyệt Lão ở Trung Hoa là Ông Gíà Dưới Trăng lẻ loi đơn độc có một mình. Mặc dù chuyên xe tơ kết tóc cho người đời nên duyên chồng vợ với nhau, nhưng sang qua Việt Nam, có thể dân ta thấy tội nghiệp cho ông suốt đời chỉ mai mối cho người khác còn mình thì vẫn lẻ loi, và theo quan niệm của người Việt Nam ta, có “Ông” thì phải có “Bà”, nên mới “cưới” cho ông một “Bà Nguyệt“ nữa, thành một cặp “Ông Tơ Bà Nguyệt”, và thành ngữ “ÔNG TƠ BÀ NGUYỆT” chỉ có trong ngôn ngữ và văn chương Việt Nam ta mà thôi, chớ ở bên Trung Hoa thì “Ông Tơ” là Nguyệt Lão vẫn chỉ trơ trọi có một mình, không biết chuyện trai gái yêu đương là gì cả, nên mới bị nàng Cung phi của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều bỡn cợt :

                          Tay NGUYỆT LÃO KHỜ sao có một
                          Bỗng tơ tình vướng gót cung phi.
                          Cái đêm hôm ấy đêm gì?    
                          Bóng gương lồng bóng đồ mi trập trùng !

                                                         

      Hẹn bài viết tới !

                                                     杜紹德
                                            ĐỖ CHIÊU ĐỨC

Thứ Tư, 20 tháng 8, 2025

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH : Y ,Ỷ,YẾN,YÊU. - ĐỖ CHIÊU ĐỨC

 


THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 125 : 

Y,Ỷ,YẾN,YÊU




      Y DOÃN 伊尹(?~1550 TCN)tên thực là Chí 挚; DOÃN là chức quan; là người nước Hữu Sằn (Sơn Đông ngày nay), sống ở cuối đời Hạ và đầu đời Thương. Ông là nhà chính trị, nhà quân sự, nhà tư tưởng... và là công thần giúp gầy dựng nên nhà Thương.
      Từ nhỏ Y DOÃN đã bị bán vào nước Hữu Sằn làm nô lệ canh nông; Ông cày ruộng ở đây và nhiều lần được Thành Thang đến mời gọi về làm việc cho bộ tộc người Thương. Sau dòng họ Hữu Sằn và bộ tộc người Thương liên hôn cưới gả nhau, nên ông mới chính thức về phục vụ cho bộ tộc người Thương. Vì tinh thông về đạo trị quốc nên được Thành Thang trọng dụng giao cho việc quốc chính. Dưới sự phò tá của Y DOÃN bộ tộc Thương đứng lên tiêu diệt vua Kiệt vô đạo của nhà Hạ và thành lập nên triều đại nhà Thương. Khi vua nhà Thương là Trọng Nhâm (Con của Thành Thang) băng hà, Y DOÃN bèn lập Thái Giáp (cháu của Thành Thang) lên thay. Thái Giáp ở ngôi ba năm, không chăm lo việc triều chính lại hoang dâm vô độ, bại hoại đạo đức triều cương. Y DOÃN bèn đày Thái Giáp ở Đồng Cung, rồi tự mình chấp chánh. Ba năm sau khi thấy Thái Giáp đã tu tĩnh ăn năn lại trả lại quyền hành cho Thái Giáp. Ông bệnh mất năm Ốc Đinh thứ tám, thọ 100 tuổi.

     Trong văn học cổ, Y DOÃN được nhắc đến như một tôi trung hết lòng giúp chúa dựng nước an dân. Trong "Thiên Nam Ngữ Lục", một tác phẩm sử thơ ở cuối đời Lê Trịnh có câu :

                      Lòng vàng tiết đá chẳng quên,
                  Y DOÃN lo tuyền Thái Giáp tiểu sinh.
 
      Đến đời vua thứ 22 của nhà Thương là Võ Đinh 武丁(?-1192 TCN)xưng hiệu là Ân Võ, vì từ nhỏ đã lưu lạc trong dân gian, cùng lao động canh tác với dân chúng, nên rất biết giá trị của sự lao động và sự qúy giá của nông phẩm. Sau khi tức vị lại cất nhắc cho PHÓ DUYỆT 傅說 là một nhân tài mà nhà vua biết được trong thời gian sống ở dân gian. Phó Duyệt lại đưa ra áp dụng các chính sách lợi quốc an dân, tạo nên thời kỳ "Võ Đinh Thịnh Thế 武丁盛世" là thời kỳ trung hưng của nhà Thương nên PHÓ DUYỆT được xưng tụng là Thánh Nhân đầu tiên từ ngày có sử sách; và Y-PHÓ (tức Y DOÃN và PHÓ DUYỆT) thường  được  dùng để chỉ các bề tôi giỏi phò vua giúp nước. 
      Trong tác phẩm thơ Nôm "Mai Đình Mộng Ký 梅亭夢記" của Nguyễn Huy Hổ thời Nguyễn sơ có câu :
 
                     Điện Thương cùng nếm vạc mai,
                Cũng trong Y PHÓ, cũng ngoài Tôn Ngô. 
 

                         PHÓ DUYỆT 傅說                      Y DOÃN 伊尹

      Trong bài "Tài Tử Đa Cùng Phú" của Cao Bá Quát, ông tự ví mình có tài như Y Doãn và Phó Duyệt nhưng vì chưa gặp thời với các câu :

                ... Chòm tóc xanh vừa chấm ngang vai, 
                    lời khí khái thì thầm Y, PHÓ.

      Còn trong bài hát nói "Kẻ Sĩ" của cụ Nguyễn Công Trứ thì ông lại tự ví mình có tài như Lã Vọng và Y Doãn với các câu :

                    Lúc vị ngộ, hối tàng nơi bồng tất,
                    Hiêu hiêu nhiên ĐIẾU VỊ CANH SẰN,

      CANH SẰN 耕莘 là Canh tác ở đất Hữu Sằn, chỉ ông Y Doãn lúc chưa gặp thời. Còn...
      ĐIẾU VỊ 釣渭 là Câu cá trên dòng sông Vị, chỉ Lã Vọng hay Lữ Vọng lúc chưa gặp thời. Theo tích sau đây :
      LÃ VỌNG 呂望(?-1015 or 1036)họ KHƯƠNG 姜, thuộc thị tộc LỮ 吕 (LÃ), tên THƯỢNG hay VỌNG; tự là TỬ NHA, nên thường được gọi với các tên : Khương Thượng, Khương Tử Nha, Lữ Vọng, Lã Vọng, Khương Thái Công, Thái Công Vọng... Ông là nhà Thao lược, nhà Chính trị, nhà Quân sự... và là công thần giúp khai sáng nhà Tây Chu (Châu). Khương Tử Nha 姜子牙 bác học đa năng, thông hiểu thiên văn địa lý, am tường việc an bang trị quốc. Nhằm lúc vua Trụ của nhà Thương bạo ngược, hoang dâm vô độ. Châu Văn Vương tìm gặp Lã Vọng đang ngồi câu bên bờ sông Vị, nên mời về bái làm "Sư Thượng Phụ". Lã Vọng đã giúp cho Văn Vương và Võ Vương nhà Chu đất Tây kỳ tiêu diệt nhà Thương bạo ngược của Trụ Vương mà thành lập nên nhà Tây Chu. Nên...
      Y, LÃ Thường dùng để chỉ bề tôi giỏi và các từ như "Điếu Vị Canh Sằn" chỉ những người tài giỏi lúc chưa gặp thời còn đang ở ẩn. Trong tác phẫm thơ Nôm khuyết danh "Lưu Nữ Tướng" có câu :

                       Đời xưa Y, LÃ... Vị, Sằn,
                 Công ra trí chúa, trạch dân ai bằng !

                
                               Lã Vọng 呂望  câu trên dòng sông Vị     

       Sau khi Khương Thượng giúp Chu Văn Vương và Chu Võ Vương lật đổ nhà Thương lập nên nhà Tây Chu, và sau khi Chu Võ Vương là Cơ Phát mất, thì người em thứ tư là Cơ Đán nhiếp chính phò tá Thành Vương lên ngôi. CƠ ĐÁN chẳng những là khai quốc công thần mà còn là nhà chính trị, quân sự, tư tưởng, giáo dục kiệt xuất; vì được phong ở thái ấp Chu 周 (Châu), nên thường được gọi là CHU CÔNG 周公. Và vì Thành Vương còn nhỏ nên các chú bác của Thành Vương là Quản Thúc, Thái Thúc và Hoắc Thúc không phục liên hệ với các quý tộc khác làm phản. Chu Công phải đem binh đông chinh, bình định phản loạn; xong lại phải ổn định và phân chia lại các chư hầu, định lại lễ nhạc, phân định lại triều cương, lấy lễ để trị quốc, mở ra thời kỳ “Thành Khang Chi Trị 成康之治”. Mặc dù rất trung thành với nhà vua còn nhỏ tuổi, nhưng Chu Công vẫn mang tiếng là tiếm quyền nhà vua mà quyết định tất cả việc triều chính.           
      Trong tác phẩm "SÃI VÃI" của cụ Nguyễn Cư Trinh ở đàng trong, khi cho ông Sãi luận về chữ "Thương" đã viết như sau :

               Thương ông CHU CÔNG trung đã nên trung còn mang tiếng dèm pha;
               Thương Đức Khổng Tử thánh đà nên thánh hãy ghe phen bị nạn...

      Còn trong "Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh" của cụ Nguyễn Du thì có câu :

                     Kinh luân găm một túi đầy, 
                  Đã đêm Quản Cát lại ngày Y CHU.
  
  

                                         PHÓ DUYỆT 傅說  CHU CÔNG 周公   

      Ỷ MÔN 倚門 là Tựa Cửa, là nói gọn lại của thành ngữ "Ỷ MÔN Ỷ LƯ 倚門倚閭" Có nghĩa "Đứng tựa vào cửa, vào cổng làng". Có xuất xứ từ "Chiến Quốc Sách.Tề Sách Lục 戰國策. 齊策六" của Lưu Hướng 劉向 đời Tây Hán, như sau :
      Trong thời Chiến Quốc, Giả vương tôn của nước Tề mới 15 tuổi đã được Tề Mẫn Vương cho vào cung làm Thị thần hầu cận. Bà mẹ rất thương con, nên mỗi ngày khi Giả vương tôn vào chầu vua đều căn dặn hễ tan chầu là phải về nhà sớm, và mỗi ngày bà đều đứng tựa vào cửa nhà để trông ngóng con về; Hôm nào con về muộn  thì bà ra đứng tựa vào cổng làng để chờ con... Nên Ỷ MÔN hay TỰA CỬA đều chỉ tình mẹ thương yêu, lo lắng và nhớ mong con mình.
      Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã cho Thúy Kiều nhớ về cha mẹ khi ở lầu Ngưng Bích như sau :
                    Xót người TỰA CỬA hôm mai,
                 Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ.

      Còn trong truyện thơ luật khuyết danh "Lâm Tuyền Kỳ Ngộ"(Bạch Viên Tôn Các) thì sử dụng từ Ỷ MÔN như sau :

                    Muôn việc kíp bây thêm dở nỗi,
                    Ỷ MÔN đòi đoạn hạt châu sa !

      YẾN ANH 燕鸚 Chim Én và chim Anh vũ. Đúng ra phải là YẾN OANH 燕鶯 là chim Én và chim Hoàng oanh cùng bay lượn và cùng hót líu lo trong mùa xuân vui tươi ấm áp; vừa là biểu tượng của mùa xuân, vừa chỉ tình yêu vui tươi bồng bột của nam nữ đang ở lứa tuổi xuân thì. Ta hãy nghe cụ Nguyễn Du diễn tả cảnh mùa xuân trong tiết Thanh Minh :

                      Gần xa nô nức YẾN ANH,
                 Chị em sắm sửa bộ hành du xuân.

    ...và sự nhàm chán giữa tư thông nam nữ giao tiếp một cách phóng túng thường xuyên :

                        Mây mưa đánh đổ đá vàng,
                Qúa chiều nên đã chán chường YẾN ANH.


                   
                                    Yến Anh... Oanh Yến
          
       YẾN CHU 宴周 là Yến tiệc đời nhà Chu. Căn cứ theo sách《Chu Lễ 周禮》thì “Lễ chung nãi yến 禮终乃宴” Có nghĩa : Làm lễ xong rồi mới dự yến tiêc dùng để tiếp đãi các Chư hầu quan viên lớn nhỏ và tùy theo công lao cao thấp mà chỗ ngồi cao thấp khác nhau. Như Thiên tử thì chiếu trải 5 lớp, Chư hầu thì 3 lớp, Đại phu thì 2 lớp... theo như câu "Thiên tử chi tịch ngũ trùng, chư hầu tam trùng, đại phu tái trùng ...天子之席五重,诸侯之席三重,大夫再重...".
       Trong truyện thơ Nôm "Hoa Tiên Truyện" của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện có câu :

                             Rồng mây một hội nghìn thu,
                        Gác Đường vẽ mặt, YẾN CHU tả lòng.


                                 Yến tiệc đời nhà Chu
        
       YẾN TƯỚC 燕雀 là Chim én và chim sẻ. Chỉ những con chim có hình dáng nhỏ nhoi, có xuất xứ từ "Điểu thú loại trong Quyển thứ tư của Ấu Học Quỳnh Lâm"《幼學瓊林.卷四.鳥獸類》:「Yến Tước an tri hồng hộc chí 燕雀安知鴻鵠志」Có nghĩa : Chim én chim sẻ làm sao biết được chí lớn của chim Hồng chim Hộc. Ý muốn nói : Kẻ tiểu nhân làm sao biết được chí lớn của người quân tử. Nên...
       Trong văn học cổ YẾN TƯỚC dùng để chỉ chí khí tầm thường của những người tầm thường thấp kém. Như trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Bích Câu Kỳ Ngộ" có câu :

                            Đói no cơm giỏ nước bầu,
                Những phường YẾN TƯỚC biết đâu chí Hồng !?



                              Yến Tước an tri hồng hộc chí

      YÊU ĐÀO 夭桃 là Cành đào non. Chỉ các cô gái mới lớn lên trổ mả xinh đẹp như một cành đào non rực rỡ. Có xuất xứ từ bài "Đào yêu chương Chu Nam trong Kinh Thi" 詩經.周南·桃夭 như sau :

                  桃之夭夭,   Đào chi yêu yêu,
                  灼灼其華。   Chước chước kỳ hoa.
                  之子于歸,   Chi tử vu quy,
                  宜其室家。   Nghi kỳ thất gia.
        Có nghĩa :
                     Đào non mơn mởn trên cành,
                 Hoa đào rực rỡ xuân xanh tuổi hồng.
                     Cô con gái về nhà chồng,
                  Yên bề gia thất yên lòng mẹ cha.

       Trong văn học cổ thường dùng các từ Đào Non, Đào Tơ, Thơ Đào, Đào Yêu, Yêu Đào...để chỉ người con gái mới lớn, đến tuổi lấy chồng hoặc chờ đợi lấy chồng. Như  lời Thúy Kiều đã nói với Kim Trọng :

                         Vẻ chi một đóa YÊU ĐÀO,
                 Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.

    ... Và lời của Thúy Kiều than van với mẹ khi "Một nhà Huyện với một Kiều ở trong" trước khi lên đường theo Mã Giám Sinh rằng :

                      Hổ sinh ra phận THƠ ĐÀO,
                Công cha, nghĩa mẹ kiếp nào trả xong?

     ... Rồi lời của Vương Viên Ngoại gởi gắm Thúy Kiều cho Mã Giám Sinh :

                      Chút thân liễu yếu THƠ ĐÀO,
                  Dớp nhà đến đỗi giấn vào tôi ngươi.


                                桃之夭夭,   Đào chi yêu yêu, 

      Hay như lời mụ Tú Bà đã khuyên dụ Thúy Kiều sau khi cô quyên sinh nhưng... không chết :
      
                          Lỡ chân trót đã vào đây...
                  Khóa buồng xuân để đợi ngày ĐÀO NON.

     ... đợi ngày ĐÀO NON là "đợi ngày lên kiệu hoa về nhà chồng đó"Trong buổi tiệc đoàn viên khi Kim Kiều tái hợp, Thuý Vân với lòng tốt muốn tác hợp cho Thúy Kiều và Kim Trọng (trước mắt là chồng của mình), nên lại nói như lẫy rằng :

                    ... Quả mai ba bảy đương vừa,
                     ĐÀO NON sớm liệu xe tơ kịp thì. 

      Sau mười lăm năm lưu lạc, chìm nổi chốn lầu xanh thì "Đào đà phai thắm" và "Liễu đà kém xanh" rồi, còn đâu mà "ĐÀO NON sớm liệu xe tơ kịp thì" nữa !

               
      Hẹn bài viết tới !


                                                      杜紹德
                                                  ĐỖ CHIÊU ĐỨC

Thứ Ba, 19 tháng 8, 2025

''THU , CÓ NGƯỜI ÔM ĐÀN KHÓC MÙA THU TẦN NHÌN LÁ ÚA'' - TRẦN HỮU NGƯ

 


“THU, CÓ NGƯỜI ÔM ĐÀN
KHÓC MÙA THU TÀN
NHÌN LÁ ÚA...”

(Bài đã được trích đăng trong báo Thanh Niên ngày Thứ Ba 10.2.2004 với tựa đề: Gặp gỡ Nhạc sĩ Phó GS, NS Hoàng Dương: ĐA SẦU ĐA CẢM, MƠ MỘNG ƯU TƯ…)
Nay mùa Thu lại về…
Một bài viết cũ từ ngày nhạc sĩ Hoàng Dương mất năm 2017, và tôi cũng đã “Phỏng vấn qua thư” vì yêu mến các nhạc sĩ Hanoi lúc còn sống, có những bài tình ca bất hủ của nhạc sĩ Hoàng Giác, Dzoãn Mẫn, Nguyễn Thiện Tơ, Việt Lang, Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Văn Tý, Tô vũ…
Có lần thấy trên VTV1 có nhắc nhạc sĩ Hoàng Dương với ca khúc “Hướng về Hà Nội” tôi đăng lại bài này để nhớ anh. Xin đốt một nén nhang thắp cho anh, cũng như thắp lại những nỗi nhớ khôn cùng!
***
Phó GS Nhạc sĩ Hoàng Dương qua đời ngày 30.01.2017 nhằm Mùng 3 Tết Đinh Dậu tại Hà Nội. Đến tối Mùng 4 Tết tôi mới hay tin , qua một người bạn ở Lagi báo cho biết. Lúc bấy giờ tôi đang vui chơi Tết ở Ngảnh Tam Tân và tôi bị choáng khi hay tin này.
Ngày 10.2.2004, báo Thanh Niên đã đăng bài phỏng vấn của tôi viết về anh, và cũng từ đó tôi và anh quen nhau, mỗi lần vào Saigon anh đều điện thoại cho tôi. Nhà tôi, anh cũng đã đến vài lần, hai anh em nói chuyện âm nhạc bên chén trà ấm tình âm nhạc.
Tháng 9.2008, anh nhận lời viết lời giới thiệu cuốn tùy bút của tôi “Những bài ca đi qua tôi trong chiến tranh”…
Tết Nhâm Thìn năm 2012 từ Hanoi vào Saigon, anh mang theo quyển sách “Âm nhạc Giao hưởng Phương tây-Tác giả -Tác phẩm”, sách rất dày khổ lớn 891 trang khá nặng, do anh Biên soạn, do Nhà Xuất bản Dân Trí xuất bản, anh mang đến nhà tặng tôi. Nhận sách, tôi cảm động và cảm ơn anh.
Anh đã ra đi từ lâu…, tôi đăng lại bài báo này như một kỷ niệm khó quên giữa tôi và anh.
Thành kính chưa buồn cùng tang quyến và cầu chúc hương hồn anh sớm siêu thoát. Một đứa em vô cùng thương tiếc một người anh, người nhạc sĩ đa sầu đa cảm, mơ mộng ưu tư (lời của nhạc sĩ Hoàng Dương đã nói trong một bài phỏng vấn).
Thời gian đi qua… một mùa thu nữa lại về! Nhắc đến mùa thu, người nghe nhớ những nhạc phẩm viết về thu, và đó là những nhạc phẩm đứng được với thời gian:
-Mùa thu không trở lại
-Thu ca
-Thu sầu
-Mùa thu chết
-Thu vàng
-Thu hát cho người,
-Thu quyến rũ
-Nhìn những mùa thu đi
- Giọt mưa thu
Có đến tám mươi phần trăm nhạc sĩ viết về thu, riêng còn hai mươi phần trăm không viết nhạc thu, có lẽ họ nghĩ, có viết thêm cũng vô ích, vì không thể nào hay hơn những nhạc phẩm đã viết về thu mà người nghe đã thuộc nằm lòng?
Nhắc đến nhạc sĩ Hoàng Dương, người nghe nhớ ngay ca khúc “Hướng về Hà Nội”, đây là nhạc phẩm làm nên tên tuổi anh, nhưng có một nhạc phẩm nữa cũng để đời không thua gì Hướng về Hà Nội, đó là “Tiếc thu”, nhưng nó đã mất tích từ lâu.
Bỗng một ngày vào thu, tình cờ tìm thấy nhạc phẩm “Tiếc thu” trong một CD cũ với giọng hát Lệ Thu, giai điệu Tango:
“… Chiều tàn mây thu man mác buồn vương
Vật vờ chim kia lướt cánh ngoài sương
Heo hút làn mây bên đường…”
Bài nhạc buồn và người nhạc sĩ ngày ấy - bây giờ thổ lộ đôi điều về Tiếc thu…
Gặp anh trong những ngày anh rong chơi tại Sài Gòn, và hỏi anh về nhạc phẩm “Tiếc thu”. Anh, với đôi mắt xa xăm nói vừa đủ nghe:
-Cái thời mười chín đôi mươi đã qua, nhưng bây giờ nghe lại “Tiếc thu” và “Hướng về Hà Nội” tôi vẫn thấy mình dằn vặt bởi những kỷ niệm buồn vui vô cớ…
-Nhạc phẩm Tiếc thu ngày ấy, và tác giả Hoàng Dương bây giờ?
-Nhạc sĩ Hoàng Dương:
“… Đó là một câu chuyện về cả cuộc đời… (Im lặng!)
Ngày ấy, khoảng mùa Thu năm 1945 tôi cùng với hai người bạn Thái Hằng và Thái Thanh (tôi và ca sĩ Thái Thanh cùng học trường nhạc) đi chơi thăm chùa Thị Cấm (nay thuộc xã Xuân Hương, Từ Liêm Hà Nội) gặp một cơn mưa gió bão bùng, mịt mờ trời đất. Cả ba chúng tôi trú dưới hiên chùa…cùng nhau hát bài “Giọt mưa thu” của Đặng Thế Phong. Những kỷ miện ấy đã đeo đẳng theo tôi suốt 9 năm trời, để sau cùng “Tiếc thu” ra đời…”
-Còn Hoàng Dương bây giờ…
-Nhạc sĩ Hoàng Dương (ngừng một phút):
“… Nói về mình thật là điều thiếu tế nhị, nhưng để trả lời anh, tôi cũng mạnh dạn bộc lộ đôi điều, là từ sau những ca khúc thuở ấy, tôi ngày càng đi sâu và cảm thấy âm nhạc thật mênh mông vô tận.
Có một thời gian dài, tôi ít viết bài hát, nhưng trong những thập niên gần đây, cùng với khí nhạc, tôi trở lại với tình ca, và nói chung cái chất của tôi vẫn là nhất quán: Đa sầu đa cảm, mơ mộng ưu tư.
Những tác phẩm của tôi, như có bạn đồng nghiệp nhận xét: Trong khí nhạc có chất thanh nhạc và trong thanh nhạc có chất khí nhạc - riêng tôi cũng cảm thấy như vậy, chẳng biết đó là ưu hay là khuyết. Tôi là người chơi đàn Violoncelle nên dĩ nhiên thường được sống với thế giới âm thanh cụ thể của các bậc thầy, bởi vậy cũng ít nhiều có điều kiện biết được điều hay lẽ dở để có thể sửa mình và quan sát xung quanh, chỉ có điều nói ra hay không mà thôi…”
-Còn nhạc phẩm Hướng về Hà Nội, bài nào được anh viết trước?
-Hoàng Dương:
“… Nhạc phẩm “Tiếc Thu” cùng với “Cô đơn” (An Phú xuất bản), “Tiếng mưa rơi”… được viết năm 1952 – 1953, còn “Hướng về Hà Nội” viết năm 1954 – ngay sau “Hướng về Hà Nội” là bài “Quân về Hà Nội” – một hành khúc hùng tráng được sinh viên học sinh Hà Nội hát vang trên các đường phố trong ngày tiếp quản thủ đô 10.10.1954…”
-Có lẽ mùa thu là mùa đẹp nhất trong bốn mùa, một chiếc lá vàng rơi, một cụm mây cuối chân trời, một giọt mưa… cũng đủ làm nên một mùa thu đẹp lộng lẫy, nhưng tại sao “Tiếc thu” lại làm người nghe “buồn đứt ruột” đến vậy?
-Nhạc sĩ Hoàng Dương:
“… Mùa Thu vừa đẹp lại vừa buồn nữa chứ! Tôi vốn là con của nhà văn Trúc Khê Ngô Văn Triện, chịu ảnh hưởng rất sớm văn thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Mạnh Hạo Nhiên cho đến Verlaine, Lamartine, Baudelaire cũng như của Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Lưu Trọng Lư…, và nhất là những nhạc phẩm bất hủ về mùa thu của Đặng Thế Phong luôn vò xé tâm hồn tôi mãi cho đến bây giờ. Và tiếc Thu là sự chưng cất vô thức những nỗi niềm tâm trạng của tuổi 19 sầu mộng của tôi mà chẳng thể lý giải, nhưng có cần lý giải không nhỉ? Nếu như anh - qua nhạc phẩm - cũng thấy thấp thoáng một điều gì đó man mác cảm hoài?...”
-Trong nhạc phẩm Hướng về Hà Nội (do NXB Tinh Hoa ấn hành năm 1954) có đề: “Riêng tặng Hoàng Trọng, bạn thân yêu, gửi đây niềm thương nhớ một mùa chia phôi…”, anh và cố nhạc sĩ Hoàng Trọng chắc có nhiều kỷ niệm và họ hàng với nhau?
-Nhạc sĩ Hoàng Dương:
“… Hoàng Trọng là người bạn vong niên đáng kính của tôi. Tôi đã cộng tác với anh trong nhiều bài hát với phần ca từ được anh rất thích, trong đó có bài “Nhạc sầu tương tư” cũng được mọi người yêu chuộng. Anh Trọng chính là người cùng ban nhạc của mình đã giới thiệu và danh ca Kim Tước hát đầu tiên bài “Tiếc thu và “Hướng về Hà Nội” của tôi trên làn sóng Radio Hà Nội, và sau đó mang bản thảo theo anh để xuất bản ở Tinh Hoa và phổ biến khắp nơi. Sau ngày giải phóng miền Nam, tôi có dịp vào Sài Gòn và gặp lại anh, xiết bao mừng tủi… Tôi không có quan hệ họ hàng với anh bởi lẽ tôi họ Ngô còn anh họ Hoàng…”
-“… Thu! Có người ôm đàn khóc mùa thu tàn nhìn lá úa, ngừng rơi đậu ngoài hiên song…”. “Người ôm đàn” ấy trong Tiếc thu có phải là anh không?
-Nhạc sĩ Hoàng Dương:
“… Có thể là như vậy. Tôi vốn chơi đàn Guitare, lúc sáng tác bài hát, thường ôm cây đàn này, chìm đắm với nó trong cảm xúc của mình…”
-Nhạc phẩm “Hướng về Hà Nội” đã làm nên tên tuổi anh, anh là dân Hà Nội, vậy thì ngày đó anh “đứng ở đâu” mà lại “Hướng về Hà Nội”?
-Nhạc sĩ Hoàng Dương:
“… Câu này thú vị đấy! (cười). Khi nhạc phẩm “Hướng về Hà Nội” nổi tiếng, người ta đồn rằng tôi đi vào Nam, điều này cũng dễ hiểu vì ở Hà Nội mà hướng về… Hà Nội! Lúc bấy giờ tôi đang ở ngoại thành Hà Nội, còn người yêu thì ở trong nội thành, nhớ người yêu quá mà không làm sao vào nội thành được, nên tôi mới viết “Hướng về Hà Nội” để đỡ nhớ người yêu! Tôi hoạt động trong tổ chức thanh niên, vận động văn nghệ sĩ trí thức ở lại không di cư vào Nam. Viết vì nhớ người yêu, trong giây phút thăng hoa nó trở thành yêu… Hà Nội!...”
-Ca khúc mới nhiều như nấm sau cơn mưa, nhưng khó hát, khó thuộc, hình như chỉ để dành riêng cho ca sĩ hát! Còn nhạc cũ dễ ca dễ thuộc, ai cũng có thể ngâm nga được. Riêng cá nhân anh, xin lý giải một chút về vấn đề này?
-Nhạc sĩ Hoàng Dương:
“… Bàn về vấn đề này thật khó và rộng, nhưng dù sao cũng xin nói đôi cảm nghĩ riêng của cá nhân: Tôi rất tâm đắc với ý tưởng của anh khi nói là “Trong âm nhạc không có từ “nhạc cũ, nhạc mới” mà chỉ có nhạc hay hoặc dở”. Nếu mở rộng khái niệm này thì “nhạc cũ” có thể bao gồm âm nhạc từ thời Baroque, cổ điển, lãng mạn, ấn tượng… với những vĩ nhân tiêu biểu như Palestrina, Bach, Mozart, Beethoven, Shubert, Shuman, Tchaikovski… Những “nhạc cũ” này đến nay vẫn đang tiếp tục gây xúc động cho cả triệu trái tim con người trên khắp thế giới. Vì vậy nó thậm chí còn “đương đại” hơn cả những loại “nhạc mới”, “nhạc trẻ”… của những người đang sống cùng chúng ta!
Nhạc hay hoặc dở là do tự trái tim, từ cảm xúc có chân thành hay không, điều đó thật có ý nghĩa quyết định, dù chỉ trong việc viết một ca khúc nhỏ nhắn, khiêm tốn chứ chưa nói gì đến những công trình nghệ thuật âm nhạc quy mô cả về thanh nhạc và khí nhạc (thực ra càng nhỏ càng cần sự kết tủa, thăng hoa!). Có một nhà nghệ thuật đã nói: “Tôi chỉ viết khi cảm thấy nếu không viết, mình sẽ chết mất”. Giờ đây có hiện tượng về bài hát như anh nêu ra thì theo tôi, cũng chỉ là xoay quanh sự chân thành hay giả tạo mà thôi (ngoài ra, có lẽ cũng cần có thêm một chút học vấn) và cũng chỉ dám lạm bàn đến thế!...”
Xin trân trọng cám ơn nhạc sĩ Hoàng Dương, và kính chúc anh được nhiều sức khoẻ, toại nguyện những ngày vui ở Saigon!


TRẦN HỮU NGƯ
(Saigon-Giadinh, năm 2016)