CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Ba, 5 tháng 8, 2025

CON SÔNG BỒ ĐỀ - PHAN NI TẤN

 


CON SÔNG BỒ ĐỀ

(trích Chuyện Quê Nam)

Chuyện đời nhiều lúc kỳ cục, khó tin, nhưng sự thật vẫn là sự thật.
Tập hồi ký đánh máy của cha tôi dầy ngót ngàn trang, hoàn tất vào cuối năm 1940, trong đó chương cuối cùng cha tôi có kể về chuyện tình khá thơ mộng mà kỳ lạ của ông.
Chuyện kể rằng hồi trẻ cha tôi sớm có năng khiếu văn chương. Sinh ở Huế nhưng thơ văn ông được đăng tải trong một số tạp chí văn học Sài Gòn nhiều hơn báo địa phương. Mến mộ văn tài của cha tôi mẹ đã đến với ông. Tuy nhiên, hồi đó gia đình bên ngoại tôi thuộc dòng dõi danh gia vọng tộc không chấp nhận một anh sinh viên nghèo, không cha không mẹ nên họ dùng mọi cách ngăn cản không cho hai người gặp nhau. Nhưng với lòng đam mê văn chương nghệ thuật, sau một thời gian dài gian nan, khổ cực, cay đắng trăm bề, mẹ cũng quyết về với cha. Cuối cùng bên ngoại tôi đành buông xuôi theo nghĩa thuận vợ thuận chồng, song họ quyết định từ bỏ mẹ tôi.
Từ đó mẹ gạt nước mắt theo cha về Sài Gòn tìm kế sinh nhai, nhưng mà mẹ tôi vốn thuộc tiểu thơ đài các lúc chạm thực tế mẹ thật vụng về. Thương mẹ cha tôi vừa chạy xe đạp thồ vừa dạy học tư. Ba năm sau, mẹ tôi mới có thai song sinh. Tôi sinh ra trước, đến phiên em tôi đẻ ngược không may cả mẹ lẫn con đều chết trên bàn mổ. Cha tôi trở thành gà trống nuôi con, sống hẳn bằng nghề viết văn. Dù lương ba cọc ba đồng, chữ nghĩa của cha cũng nuôi tôi nên người. Ngày tôi có chồng ra nước ngoài, cha tôi vẫn ở vậy, một mình. Mãi đến năm 75 tuổi cha mới tục huyền. Âu cũng là duyên nợ từ kiếp nào.
Tóm lại, cha tôi có hai bà vợ. Bà chánh thất là người đẻ ra tôi. Mẹ và em mất, cha đi bước nữa.
Bà thứ thất tên Phan Lệ Hồng, gốc Hải Nàm, là bạn chung vách với cha tôi từ thuở nhỏ, sau này là mối tình đầu của hai người. Có điều người Tàu vốn kỵ cùng họ không được lấy nhau nên mộng đẹp kia sớm bị chia uyên rẽ thúy. Để tránh phiền phức, cha mẹ cô Hồng âm thầm đưa cô về Sài Gòn sống chung với ông bà ngoại ở miệt Bình Tây, Chợ Lớn.
Thời gian như nước chảy qua cầu rửa sạch mọi nhớ thương. Kỷ niệm về mối tình đầu của cha tôi và cô Hồng cùng những bài thơ ngây ngô thuở yêu thương cũng phai dần đi. Trước mắt cô nhận ra quá khứ mịt mù trở nên mơ hồ, hư ảo trước những điều thiết thực hơn. Cô Hồng có chồng Chợ Lớn, cùng chồng ra nước ngoài hăm hở đuổi theo công cuộc kinh doanh ngày một mở rộng. Không bao lâu cuộc sống giàu sang, sung túc như lụa lót dưới chân cô, bao bọc lấy gia đình cô. Với cô Hồng, lúc bấy giờ, gia đình và sự nghiệp là trên tất cả.
Nhưng mà cảnh đời không phải lúc nào cũng thuận lợi; niềm hạnh phúc, sự yên bình nào rồi cũng qua đi. Chồng cô Hồng bệnh mất đã vài năm, kinh doanh đi xuống, con cái có vợ có chồng lần lượt ra riêng, cô còn lại một mình. Ngôi nhà ngày ngày tràn niềm vui, rộn tiếng cười, một sớm một chiều bỗng trở nên vắng lặng, lạnh lẽo đến vô hồn. Từ lâu cô Hồng không khóc chợt nước mắt mặn môi khiến cô có linh cảm như mình đang trôi qua một dòng đời khác. Tự nhiên cô nghe tiếng gọi của quê nhà.
Khi trở về nước, cô Hồng đã bảy mươi tuổi đời. Cô không về Sài Gòn, Chợ Lớn mà bay thẳng ra Huế, dù chẳng còn người thân. Chìm giữa Huế trầm mặc, cổ kính, cô nhìn trời khô héo bằng đôi mắt u buồn để rồi nhận ra mình mang mang một niềm hoài cảm.
Đoạn hồi ký của cha tôi sau đó không nói lúc nào, làm sao cô Hồng về Sài Gòn tìm gặp được cha tôi. Dù ông không thổ lộ tôi cũng nhận ra họ đến với nhau bằng sự khao khát được nhìn thấy lại sự khởi đầu của tình yêu thương thiệt thòi sau một thời gian dài xa cách đến tóc cũng điểm sương. Lúc đó tình gia đình mới thấm thía làm sao. Giữa cha tôi và cô Hồng là một vạch thời gian dài ngót năm mươi lăm năm rồi còn gì.
Tôi thương cha tôi ở câu viết chân tình: "Đám cưới chỉ có hai người. Không hôn thơ, hôn thú. Không bạn bè, bà con thân thích, kể cả con gái tôi và đám con của Hồng. Âm thầm, lặng lẽ, hai người già chúng tôi rời bỏ chốn phồn hoa đô hội về sống hòa mình cùng sông nước miệt Hậu Giang hiền hòa. Tính tình bình dị, hiếu khách của người dân Xóm Thủ, Cà Mau vô tình giúp sức che mờ nhân dạng của chúng tôi."
Đọc những dòng tâm sự cuối cùng của cha tôi, tôi cố nén tiếng thở dài. Cầm tập hồi ký trên tay, bên tai tôi, như còn nghe lời dặn dò của cha biểu tôi muốn cất giữ hoặc đốt bỏ đi thì tùy. Dĩ nhiên, tôi không thể đốt bỏ tập hồi ký, di vật duy nhất của cha tôi để lại. Cha tôi, vì thủy chung với người vợ đã mất, đã bỏ cả một quãng đời dài của mình âm thầm chịu đựng nỗi cô đơn để nuôi con. Vậy mà khi lớn khôn, vì bận bịu với chồng con, với cuộc sống, nhiều khi tôi quên mất sự quạnh quẽ của cha tôi, của cô Hồng, nói chung của những người già cần được yêu thương, được cảm thông, chia sẻ.
Đã lâu rồi, có hơn chục năm tôi mới có dịp trở về thăm lại Xóm Thủ, nơi bây giờ trở thành phố chợ sầm uất hơn. Chẳng bù ngày trước gian nan lắm tôi mới tìm ra cái xóm đìu hiu hút gió của cha và cô Hồng của tôi mà tôi vẫn quen gọi bằng "cô" thay vì "dì".
Chiều mờ như sương chập chờn phủ trên cửa sông Bồ Đề. Con sông phát nguồn từ ngã ba Tam Giang đổ ra biển Nam Hải, nước chảy rất xiết. Ngã ba sông này nước luôn xoáy tròn thành nhiều lỗ trũng sâu nên ghe hàng chở khẳm thường bị đắm, gây nhiều thương vong. Nghe nói hôm cha tôi và cô Hồng chết đuối ở ngã ba sông này, trời mưa như trút. Người Xóm Thủ, không một ai biết nguyên nhân cái chết nhưng họ nói trời đất cũng biết khóc thương cho số phận của hai người.
Lần về thăm này tôi đứng lặng ở cửa sông Bồ Đề, dang rộng đôi tay tôi cũng có thể đón nhận được linh hồn của cha tôi và cô Hồng từ ngã ba Tam Giang trôi qua trước mặt tôi, trôi vào đời tôi rồi vĩnh viễn trôi ra biển rộng.


PHAN NI TẤN

Không có nhận xét nào: