CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 17 tháng 12, 2025

THƯƠNG CON SÁO HUẾ - PHAN NI TẤN





 THƯƠNG CON SÁO HUẾ

Cho tới bây giờ tôi vẫn không sao quên được con sáo Huế của chị Mành, chị họ của tôi. Con Sáo Huế là tên họ chị đặt cho nó khi chị thấy nó đang ngắc ngoải trong tổ đan trên cây trứng cá. Chị nghĩ chắc cha mẹ con sáo bị gì mà đành bỏ con, dù nó đang mọc lông cánh. Mang chim về nhà chị cẩn thận đặt tổ chim vô trong hộp cạt-tông lót thêm vài miếng vải vụn cho chim khỏi lạnh. Từ đó, ngày nào hai chị em tôi cũng ra đồng bắt cào cào, châu chấu về cho chim ăn. Khi chim lớn lên mới biết đó là chim sáo đá đầu trắng có khả năng bắt chước tiếng người. Mỗi lần đút mồi chị luôn miệng huýt sáo, kêu tên nó: "Con Sáo Huế ới ời…" Cái giọng Huế của chị sao mà ngọt xờ ngọt xợt chi lạ.
Không thể nói chị Mành của tôi không đẹp. Dù không sánh như chim sa cá lặn nhưng ở tuổi mười ba chị khác nào một bông hoa mặn mà, tươi thắm. Có điều, tính khí chị Mành cứ y như là con trai. Chị hay vật lộn với đám con gái lẫn con trai cùng trang lứa trong xóm Cầu Lòn (*) thuộc phường Phường Đúc, thành phố Huế của chị. Đi đâu chị cũng khệnh khạng như con trai, nói cười thì văng mạng. Tôi chậm lụt, rụt rè bao nhiêu thì chị thẳng thừng, bỗ bã bấy nhiêu.
Chị Mành là con gái rượu của bác Hai, anh của ba tôi. Hồi trước, hè nào tôi cũng theo ba mẹ từ Hương Cần về Cầu Lòn ở nhà bác Hai đổi gió, sau này ba mẹ tôi dọn luôn về Cầu Lòn cho gần anh gần em. Bác Hai và ba tôi là hai anh em sinh đôi, tuy ba tôi sinh sau bác Hai vài phút nhưng lớn lên ông lại có vợ trước bác Hai một tháng, ngược lại bác Hai gái sinh chị Mành trước tôi năm năm. Vậy mà éo le thay, mẹ tôi chết vì một trận cảm đột ngột, bác Hai gái thì trúng gió sau đó không lâu. Thành ngữ "Gà trống nuôi con" tôi nghe đã nhiều không ngờ lại vận vào gia đình bất hạnh của chúng tôi. Đời người vốn ngắn ngủi mà buồn thì nhiều.
Nhà bác Hai có nhiều sách, tôi thích đọc sách nhưng hầu như ngày nào cũng bị chị Mành không lôi đi câu cá thì cũng kéo tôi đi bắn chim sẻ về nướng ăn. Chị ăn ngấu ăn nghiến a thần phù một hơi ba con trong khi tôi ăn chưa xong một con. Chị Mành tôi thích nuôi chim sáo nhưng lại thích bắn chim sẻ để ăn. Ngược đời rứa nạ.
Ngày tháng trôi nhanh như nước chảy qua cầu. Chớp mắt, chị Mành đã là một thiếu nữ đương thì, tôi cũng nhổ giò cao vượt chị một cái đầu. Ngày tôi từ biệt Huế lên đường nhập ngũ, chị không còn ồn ào, năng động mà bình thản tiễn tôi đi. Riêng con sáo mồ côi suốt ngày nó hót líu lo và luôn miệng gọi "Mành ơi…" rất bài bản y lời chị dạy nó.
Nhưng đời tôi không như con sáo ở hoài một chỗ. Từ ngày ra trường đáo nhậm đơn vị ở miệt Đầm Dơi, Cà Mau tôi đi hành quân liên miên. Hết ngã ba biên giới lại sang Lào, Campuchia, lao mình vào những mặt trận ác liệt nhất. Sau những trận đánh trở về hậu cứ, chiều chiều nhìn đàn cò trắng bay là là trên sông Cửa Lớn tôi lại nhớ chị Mành, nhớ con sáo Huế của chị. Sau ba năm tôi giã từ Huế, được tin bác Hai mất đã đành, lúc ba tôi mất, tôi bị thương nặng nằm bệnh viện Cộng Hòa chữa trị. Chị Mành gởi thư thăm, cho biết con sáo Huế cũng đã chết vì trúng nước mưa, chị chôn nó dưới gốc cây Đề.
Từ ngày đi lính, ít khi tôi có dịp về thăm nhà. Phần vì đường xa cách trở, ngày phép lại ngắn, hơn nữa chiến tranh ngày càng leo thang khốc liệt. Cho tới một ngày tôi bị loại ra khỏi vòng chiến vì một tràng đạn địch cầy mất nửa bàn chân. Ngày tôi trở về Huế dưới hình thù của một người tàn phế, nhìn bước đi khập khiễng, nhất là nhìn thấy vết sẹo nổi cộm trên cổ tôi, chị Mành khóc. Giọt nước mắt lăn nhanh xuống gò má chị là nét động duy nhất như thấm vào vết thương trên cổ tôi, vết thương tạo bởi một viên đạn quái ác xẹt qua cổ trong một trận đánh ở rừng U Minh Hạ. Cái nét bệ vệ, oai phong của một anh lính chiến miền xuôi hoàn toàn chìm sâu trong nước mắt của chị. Tôi nhận ra chị Mành đã khác xưa nhiều rồi. Tóc chị đã pha sương. Ở tuổi này lẽ ra chị đã có một gia đình ổn định, vậy mà chị vẫn một mình. Bản tính, nhất là hình tướng con trai để tóc ngắn dữ dội một thời đã được chị thay bằng chiếc áo dài mang phong cách Huế và mái tóc thề buông nhẹ sau lưng, một mẫu mực muôn đời của người con gái Huế.
Ở Huế với chị Mành, thỉnh thoảng tôi thấy mình như trở lại ngọn nguồn của tuổi thơ, cái tuổi hoàn toàn vô tư ở Cầu Lòn cùng chị Mành mươi năm trước. Cầu Lòn thật chân chất, bình dị như người, như tên gọi.
Chị Mành đã mất mấy năm nay. Nhớ chị, chiều chiều tôi hay ra sau hè ngồi cạnh gốc cây Đề thả hồn theo mây gió. Cây Đề còn gọi là cây hoàng lan, chị em tôi trồng lúc nhỏ nay đã cao gần năm mét. Hoàng lan có cánh hoa dài, màu vàng cam, mùi thơm rất nồng, đầy quyến rũ và ma mị. Con sáo Huế của chị Mành thường đứng hót trên cành cây này, không những hót rất hay mà nó còn biết nói "Mành ơi!..." Tôi thương chị Mành cũng như thương con sáo Huế mồ côi của chị.



PHAN NI TẤN

(*)
Cầu Lòn là chiếc cầu có đường sắt ở trên và đường bộ trải nhựa nằm phía dưới cầu thì gọi là cầu Lòn. Người Huế mình thật khéo đặt tên.

Không có nhận xét nào: