Chieu Duc
06:38, Th 4, 14 thg 10 (1 ngày trước)
Giai Thoại Văn Chương :
SƠ ĐƯỜNG TỨ KIỆT (3)
Người đứng thứ ba trong Tứ Kiệt : LƯ CHIẾU LÂN
LƯ CHIẾU LÂN 盧照鄰 (634-689), tự là Thăng Chi 升之, hiệu là U Ưu Tử 幽憂子, người đất U Châu huyện Phạm Dương (tỉnh Hà bắc ngày nay). Ông là thi, văn sĩ đời Đường, xuất thân con nhà gia thế, học rộng biết nhiều, sự nghiệp bắt đầu từ chức Điển Thiêm ở phủ của Đặng Vương Lý Nguyên Dũ, sau chuyển làm Huyện Úy huyện Tân Đô thuộc Ích Châu. Sau khi từ chức thì lân la ở đất Thục, uống rượu làm thơ, viết văn. Sau vì mắc bệnh phong cùi hành hạ vật vã đến không chịu đựng nỗi, nên nhảy xuống dòng sông Dĩnh tự trầm.
LƯ CHIẾU LÂN cùng với Vương Bột, Dương Quýnh và Lạc Tân Vương 王勃、楊炯、駱賓王 được người đương thời tôn xưng là SƠ ĐƯỜNG TỨ KIỆT 初唐四傑. Ông giỏi cả thơ và biền văn, thơ của ông phần nhiều thuộc thể Ca Hành có thể phổ nhạc được. Tác phẩm gồm có Lư Chiếu Lân Tập 盧照鄰集 (20 quyển) và U Ưu Tử Tập 幽憂子集 (10 quyển).
Inline image
SƠ ĐƯỜNG TỨ KIỆT: Vương Bột, Dương Quýnh, Lư Chiếu lân, Lạc Tân Vương
Lư Chiếu Lân từ nhỏ đã học thi thư, 10 tuổi lại được đưa đến Giang Nam học tập với các đại nho như Tào Hiến, Vương Nghĩa Phương để dùi mài kinh sử. Lớn lên, ông nổi tiếng giỏi văn chương, đến Trường An để cầu công danh, nương nhờ vào trọng thần Lai Tế 來濟. Lai Tế thương tài ông bèn giới thiệu ông với mọi người, nhờ vào văn tài xuất chúng, tiếng tăm của ông nổi như cồn. Nhưng công danh thì vẫn còn mờ mịt như bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt KHÚC TRÌ HÀ 曲池荷 (Hoa sen ở ao Khúc Trì) của ông làm sau đây :
浮香繞曲岸, Phù hương nhiễu khúc ngạn,
圓影覆華池。 Viên ảnh phúc hoa trì.
常恐秋風早, Thường khủng thu phong tảo,
凋零君不知。 Điêu linh quân bất tri.
Có nghĩa :
Mùi hương ngào ngạt toả quanh bờ ao uốn khúc, cái bóng tròn trịa in hình dưới nước ao đẹp đẽ. Nhưng... luôn luôn lo sợ gió thu hiu hắt sớm thổi đến, làm cho lá hoa tàn tạ và không còn người biết tới nữa !
Khéo lo sợ vẩn vơ, Lư Chiếu Lân ví mình như hoa sen đẹp đẽ thơm ngát nở vào mùa hạ, nếu không có người biết đến để thưởng thức thì khi gió thu heo may thổi đến sẽ tàn tạ một cach oan uổng !...
Hương thơm ngào ngạt quanh ao,
Bóng tròn đẹp đẽ tươi màu nước trong.
Những e thu sớm gió lồng,
Lá hoa tàn tạ hết mong người nhìn !
Inline image
Biết Lư Chiêu Lân nóng lòng vì công danh, nên Lai Tế mới tiến cử ông cho chú của Đường Cao Tông là Đặng Vương Lý Nguyên Dũ 鄧王李元裕. Đặng Vương đã nghe tiếng Lư Chiếu Lân từ lâu nên tiếp ông bằng lễ tiếp đãi của một thượng khách và cho giữ chức Điển Thiêm. Đặng Vương cũng thường nói với các quan viên và thuộc hạ rằng :"Lư Chiếu Lân chính là Tư Mã Tương Như của ta đó !". Đây là khoảng thời gian đắc ý nhất của ông. Trong vương phủ lại có một kho sách rất qúy giá, cho nên mười năm làm việc trong vương phủ Lư Chiếu Lân đã đọc hết kho sách đó để phong phú thêm kiến thức của mình. Năm Long Sóc thứ ba 龍朔三年(663) ông lại được điều đi nhậm chức Đô Úy ở Tân Đô thuộc Ích Châu. Ba năm mãn hạn, nhưng ông vẫn ở lại đất Thục thưởng ngoạn danh thắng, uống rượu làm thơ.
Đời vua Đường Cao Tông vì là thời buổi sơ Đường, nên ông vua trẻ Lý Trị thường phát động những cuộc chiến tranh biên giới để bình định các nước Hung Nô, Đột Quyết, Thổ Phồn, Cao Ly...Các binh tướng luôn phải chiến đấu một cách kiêu hùng vất vả, nên Tứ Kiệt đều có làm thơ biên tái, Lư Chiếu Lân cũng không ngoại lệ. Sau đây là bài thơ CHIẾN THÀNH NAM 戰城南 cùng chủ đề trong Hán Nhạc Phủ với bài thơ của Dương Quýnh, nhưng mỗi người mỗi vẻ :
將軍出紫塞, Tướng quân xuất Tử tái,
冒頓在烏貪。 Mạo Đôn tại Ô Tham.
笳喧雁門北, Già huyên Nhạn Môn bắc,
陣翼龍城南。 Trận dực Long Thành nam.
雕弓夜宛轉, Điêu cung dạ uyển chuyển,
鐵騎曉參驔。 Thiết kỵ hiểu tham đàm.
應須駐白日, Ưng tu trú bạch nhật,
爲待戰方酣。 Vị đãi chiến phương hàm.
Có nghĩa :
Tướng quân cởi ngựa xông ra khỏi Tử Tái của Vạn Lý Trường Thành, đánh nhau với Mạo Đôn là chúa của Hung Nô tại Ô Tham. Tiếng tù và vang rền ở phía bắc của Nhạn Môn Quan và thế trận được bày ra làm hai cánh ở phía nam của Long Thành, tiếng cung giương và tiếng tên bay vun vút suốt đêm, cùng với tiếng vó câu của những con ngựa sắt đến trời sáng vẫn còn rầm rập.(Chiến trận vẫn đang tiếp diễn) Phải làm sao như Lỗ Dương thời chiến Quốc của nước Sở hươu ngọn dáo để đẩy lui mặt nhựt cho trời đừng mau tối, vì chiến trận còn đang tiếp diễn một cách say sưa !
Đánh giết nhau hăng máu đến thế là cùng !
Diễn Nôm :
Inline image
Tướng quân xông khỏi Trường Thành,
Mạo Đôn giao chiến cùng dành Ô Tham.
Tù và ải bắc vang vang,
Thành Nam chiến trận lại càng xôn xao.
Cung giương tên bắn rào rào,
rầm rầm thiết kỵ ồn ào suốt đêm.
Phải dừng mặt nhựt đừng thêm,
Vì chưng chiến địa khắp miền đang say.
Trong khi đó ở nơi phồn hoa đô hội, đám vương tôn quý tộc còn ăn chơi đàng điếm ra vào lầu xanh đã được Lư Chiếu Lân diễn tả trong bài CHIẾT DƯƠNG LIỄU 折楊柳 sau đây :
倡樓啟曙扉, Xướng lâu khải thự phi,
園柳正依依。 Viên liễu chánh y y.
鳥鳴知歲隔, Điểu minh tri tuế cách,
條變識春歸。 Điều biến thức xuân quy.
露葉疑啼臉, Lộ diệp nghi đề kiểm,
風花亂舞衣。 Phong hoa loạn vũ y.
攀折聊將寄, Phàn chiết liêu tương ký,
軍中書信稀。 Quân trung thư tín hi !
Có nghĩa :
Cánh cửa của lầu xanh vừa mở ra trong buổi sáng sớm mai, thì những cây liễu trong vườn như cũng lưu luyến không nở rời xa. Tiếng chim hót líu lo biết là năm đã hết, cành liễu chuyển màu xanh hơn nên biết là xuân đã về. Những giọt sương đọng trên lá liễu như là những giọt lệ trên mặt người đẹp, gió thổi làm cho những hoa liễu bay loạn lên như những mảnh vũ y. Bẻ nhành liễu gởi đi để tỏ chút lòng người hậu phương, vì trong quân doanh rất hiếm khi nhận được thư tín bên ngoài.
Diễn Nôm :
Inline image
Lầu xanh sáng mở cửa rào,
Trong vườn dương liễu luyến lưu hàm tình.
Năm tàn chim hót bên mành,
Cành xanh trổ nụ đành rành xuân sang.
Sương gieo như lệ mặt nàng,
Gió đưa hoa liễu rụng tràn vũ y.
Bẻ cành dương liễu gởi đi,
Trong quân thư tín hiếm khi gởi vào.
Vì sống trong thời chinh chiến còn chưa yên, nên khi tả cảnh mai hoa nở trong tuyết trắng cuối năm để báo hiệu mùa xuân sắp đến, Lư Chiếu Lân cũng liên tưởng đến những người lính trận xa xôi ở tận xứ Hung Nô cách xa mấy vạn dặm đường ngày đêm chiến đấu bên cái chết cận kề còn biết gì là Xuân về Mai nở, hãy đọc bài MAI HOA LẠC 梅花落 dưới đây sẽ rõ :
梅嶺花初發, Mai Lĩnh hoa sơ phát,
天山雪未開。 Thiên Sơn tuyết vị khai.
雪處疑花滿, Tuyết xứ nghi hoa mãn,
花邊似雪回。 Hoa biên tự tuyết hồi.
因風入舞袖, Nhân phong nhập vũ tụ,
雜粉向妝台。 Tạp phấn hướng trang đài.
匈奴幾萬里, Hung Nô kỷ vạn lý,
春至不知來。 Xuân chí bất tri lai !
Có nghĩa :
Khi hoa mai trên Mai Lĩnh ở miền nam bắt đầu nở, thì tuyết ở vùng Thiên Sơn phía tây bắc còn chưa bắt đầu rơi. Nơi mà tuyết rơi thì cứ ngỡ là hoa mai trắng đã nở đầy cả, còn bên cạnh hoa mai trắng rơi thì lại như có thêm một lớp tuyết phủ đầy. Qua một trận gió thổi thì từng cánh mai trắng bay lọt vào cả các tay áo rộng của những nàng đang ca múa vương lấy mùi phấn son mà rơi cả tận đến nơi trang đài. Chỉ tội cho những người lính trận ở tận đất Hung Nô xa xôi mấy vạn dặm đường trong trời đông tuyết giá, khi xuân đến thì có ai biết là mùa xuân đã đến đâu !
Diễn Nôm :
Inline image
Mai Lĩnh hoa đã nở rồi,
Thiên Sơn xa tít chưa rơi tuyết mà...
Tuyết rơi trắng xóa tựa hoa
Bên hoa tuyết trắng ngỡ là hoa bay.
Hoa rơi tay áo gió lay,
Cánh hoa theo phấn trang đài vấn vương.
Hung Nô mấy vạn dặm đường,
Nàng xuân đã đến tỏ tường ai hay !?
Một lý do nữa khiến cho Lư Chiếu Lân sau khi mãn hạn quan còn ở lại đất Thục thêm hai năm nữa là vì ông quen với một người con gái họ Quách. Hai người đã yêu nhau đắm đuối. Trong cuộc tình nầy Lư Chiếu Lân đã để lại hai câu thơ bất hủ trong bài "Trường An Cổ Ý 長安古意" là :
得成比目何辞死, Bất thành tỉ mục hà từ tử,
愿作鸳鸯不羡仙。 Nguyện tác uyên ương bất tiện tiên.
Có nghĩa :
Chưa được sánh đôi chưa đành chết,
Chỉ cầu chắp cánh chẳng cầu tiên !
Inline image
Nhưng khi hay tin Quách Thị có mang hai tháng thì, không biết vì lý do gì, Lư Chiêu Lân lại nói lời giả biệt để về thăm nhà, nên đành quyến luyến chia tay với Quách Thị và hẹn sẽ nhanh chóng trở lại gặp nàng. Nhưng lại nhưng, sau chuyến đi đó Lư Chiếu Lân đã không bao giờ trở lại nữa, để cho Quách Thị cứ chờ đợi mõi mòn, đau khổ, vật vả đến hư cả thai nhi. Người thứ tư trong Tứ Kiệt là LẠC TÂN VƯƠNG 駱賓王 đã bất mãn thay cho nàng, nổi lòng hào hiệp mà thay nàng viết nên bài thơ nhớ thương nổi tiếng để gởi cho Lư Chiếu Lân là "Diễm Tình Đại Quách Thị Đáp Lư Chiếu Lân 艷情代郭氏答盧照鄰". Có nghĩa : "Bài thơ diễm tình thay cho Quách Thị đáp lại Lư Chiếu Lân" sẽ đề cập ở bài sau khi nói về LẠC TÂN VƯƠNG.
Trở lại với Lư Chiếu Lân sau khi rời đất Thục, thì ngụ cư ở Lạc Dương. Và cũng trong bài thơ thất ngôn trường thiên dạng Nhạc phủ là TRƯỜNG AN CỔ Ý 長安古意 nầy, đã mang đến cho ông phải vướng vào vòng lao lý, vì trong đó lại có hai câu như sau :
梁家畫閣中天起, Lương gia họa các trung thiên khởi,
漢帝金莖雲外直. Hán đế kim hành vân ngoại trực.
Có nghĩa :
Lâu đài đẹp đẽ của nhà họ Lương mọc lên ở giữa trời,
Cây cột vàng của Hán đế cao vút đến mây xanh.
LƯƠNG GIA 梁家 : Nhà họ Lương chỉ một ngoại thích của Hán Thuận Đế là Lương Ký (anh của Lương Hoàng Hậu) đã cậy thế lực và tiền tài của em gái mà xây dựng lâu đài nguy nga tráng lệ ở thành Lạc Dương. Còn Võ Tam Tư 武三思 là cháu kêu Võ Hậu bằng cô, được phong là LƯƠNG VƯƠNG 梁王, cũng cậy quyền thế của cô mà xây dựng lâu đài ở Lạc Dương. Nên Võ Tam Tư cho là Lư Chiếu Lân dùng tích xưa để châm biếm mình, bèn nổi giận, bắt Lư Chiếu Lân bỏ tù. Sau nhờ có bạn giúp đỡ lãnh ra, nhưng chẳng bao lâu sau lại mắc phải bịnh phong, ông bèn đến núi Thái Bạch ở ngoại ô Trường An để dưỡng bênh. Trong khoảng thời gian nầy ông lại gặp được Dược Vương Tôn Tư Mạc. Mạc rất coi trọng tài ông, vì cả hai cùng theo đạo Lão Trang nên rất tâm đầu ý hơp. Khoảng thời gian nầy ông viết bài BỆNH LÊ THỌ PHÚ 病梨树赋 rất nổi tiếng. Không lâu sau Tôn Tư Mạc phải phò Đường Cao Tông đến Cửu Thành Cung để tránh hè nghỉ mát. Lư Chiếu Lân vì muốn trị bệnh phong nên uống cả Huyền Minh Cao do các đạo sĩ bào chế, vừa đúng lúc hay tin cha mất, ông khóc cha đến nỗi mửa cả thuốc ra ngoài, nên bệnh càng trở nặng. Sau lại nhờ bạn bè chu cấp chuyển đến Long Môn Sơn dưỡng bệnh, nhưng bệnh lại ngày càng nặng hơn, đến nỗi một chân không duỗi thẳng được và liệt luôn một cánh tay. Ông lại mua một miếng đất ở bên bờ sông Dĩnh Thủy, xây sẵn cho mình ngôi mộ rồi ăn ngủ luôn trong đó. Trong khoảng thời gian nầy, ông viết hai bài tản văn nổi tiếng là THÍCH TẬT VĂN 釋疾文 và NGŨ BI VĂN 五悲文. Bệnh tình ngày càng hành hạ, nhức nhối thấu xương. Sau mười năm chịu đựng, cuối cùng, ông giả biệt thân nhân rồi nhảy xuống dòng sông Dĩnh tự trầm.
Inline image
Lư Chiếu Lân trước và sau khi mắc bệnh phong cùi.
Cuối bài "Thích Tật Văn 釋疾文" có bài ca u ẩn như những lời vĩnh biệt như sau :
歲將暮兮歡不再, Tuế tương mộ hề hoan bất tái,
時已晚兮憂來多。 Thời dĩ vãn hề ưu lai đa.
東郊絕此麒麟筆, Đông giao tuyệt thử kỳ lân bút,
西山祕此鳳凰柯。 Tây sơn bí thử phụng hoàng kha.
死去死去今如此, Tử khứ tử khứ kim như thử,
生兮生兮奈汝何。 Sanh hề sanh hề nại nhữ hà.
歲去憂來兮東流水, Tuế khứ ưu lai hề đông lưu thủy,
地久天長兮人共死。 Địa cửu thiên trường hề nhân cộng tử.
Có nghĩa :
Năm sắp tàn ngày vui không trở lại,
Thời đã qua ái ngại lắm ưu phiền.
Phía đông giao kỳ lân bút đã yên,
Tây sơn nọ phụng hoàng cành cũng vắng.
Chết thì chết như nay đà vẩy chết,
Sống lất lây sống hết được gì nào ?
Năm sầu nước cũng chảy mau...
Trời cao đất rộng thoáng mau đời người !
Qủa là cảm khái với tâm tư buông bỏ của những người sắp chết. Vào những đêm trăng sáng có lẽ bệnh phong cùi hành hạ, nên Lư Chiếu Lân cũng có những câu than vãn về trăng như sau :
相思在萬里, Tương tư tại vạn lý,
明月正孤懸。 Minh nguyệt chính cô huyền !
Có nghĩa :
Nhớ nhau muôn dặm trời xanh,
Trăng treo lơ lửng trên cành đơn côi !
.... làm cho ta nhớ đến Hàn Mặc Tử với :
Ai mua trăng tôi bán trăng cho...
Trăng nằm yên trên cành liễu đợi chờ !...
Inline image
Hẹn bài viết tới :
SƠ ĐƯỜNG TỨ KIỆT (4) : LẠC TÂN VƯƠNG.
杜紹德
ĐỖ CHIÊU ĐỨC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét