Chùm thơ TRUNG THU (3)
4. Bài thơ QUAN SAN NGUYỆT :
關 山 月 QUAN SAN NGUYỆT
明月出天山, Minh nguyệt xuất Thiên San,
蒼茫雲海間。 Thương mang vân hải gian.
長風幾萬里, Trường phong kỷ vạn lý,
吹度玉門關。 Xuy độ Ngọc Môn Quan.
漢下白登道, Hán hạ Bạch Đăng đạo,
胡窺青海灣。 Hồ khuy Thanh Hải loan.
由來征戰地, Do lai chinh chiến địa,
不見有人還。 Bất kiến hữu nhân hoàn.
戍客望邊色, Thú khách vọng biên sắc,
思歸多苦顏。 Tư quy đa khổ nhan,
高樓當此夜, Cao lâu đương thử dạ,
歎息未應閒。 Thán tức vị ưng nhàn
李白 Lý Bạch.
* Chú Thích :
1.「天山」Thiên Sơn : Tức là Kỳ Liên Sơn, trong tỉnh Cam Túc ngày nay.
2.「白登」Bạch Đăng : Tên núi, ở phía đông Đại Đồng tỉnh Sơn Tây hiện nay. Xưa Hán Cao Tổ từng bị Hung Nô dây khổn ở đây.
3.「窺」Khuy : là dòm ngó.
4.「青海灣」Thanh Hải loan : Tức Hồ Thanh Hải, nằm trong tỉnh Thanh Hải hiện nay.
5.「高樓」Cao Lâu : Ở đây chỉ người vợ của kẻ chinh phu ở nhà. Một ý nữa : là Cái vọng gác cao của người lính thú.
* Nghĩa của Bài thơ :
TRĂNG LÊN ẢI NÚI.
Vầng trăng sáng vằng vặc đang mọc lên từ Kỳ Liên Sơn, nhẹ nhàng lẩn khuất trong rừng mây mờ mịt. Gió lốc thổi dài từng cơn suốt mấy vạn dặm, phủ lắp cả Ngọc Môn Quan là ải địa đầu. Cờ xí và Hán binh đóng rợp cả Bạch Đăng đạo, còn binh Hồ thì đang dòm dỏ Thanh Hải Loan. Từ xưa đến nay, những người ra đi chính chiến nơi chiến địa, chẳng thấy có mấy ai được về quê. Những người lính thú đang trấn giữ biên thùy, ai là không mặt ủ mày ê mơ ước ngày được về quê. Đêm nay, những nàng chinh phụ trên lầu cao mong nhớ chồng, chắc cũng đang thở vắn than dài khôn nguôi.
* DIỄN NÔM :
TRĂNG LÊN ẢI NÚI.
Trăng lên đỉnh Thiên San,
Bàng bạc núi mây ngàn.
Muôn dặm cơn gió lốc,
Thổi thốc Ngọc Môn Quan.
Hán xuống Bạch Đăng đạo,
Hồ dòm Thanh Hải Loan.
Vì chưng nơi chiến địa,
Có mấy ai khải hoàn ?
Lính thú sầu biên tái,
Mơ về dạ ngổn ngang.
Gác canh cao đêm vắng,
Buông dài tiếng thở than !
Lục bát :
Trăng lên đầu núi Thiên San,
Biển mây bàng bạc ngút ngàn trời cao.
Gió lùa muôn dặm rạt rào,
Ngọc Môn Quan đó ào ào gió qua.
Bạch thành Hán xuống dốc xa,
Hồ dòm Thanh Hải cũng đà mấy thâu.
Vì chưng chinh chiến địa đầu,
Sa trường túy ngọa còn đâu trở về.
Thương chàng lính thú sơn khê,
Nỗi buồn canh cánh não nề dung nhan.
Gác canh đêm vắng bàng hoàng,
Lầu cao trông ngóng thở than riêng mình !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
* Xin được lạm bàn về 2 câu chót của bài thơ là :
高樓當此夜, Cao lâu đương thử dạ,
嘆息未應閒。 Thán tức vị ưng nhàn.
1. Ý thứ nhất :
Cho người lính thú.
Cao lâu là cái Lầu cao, hay nói cho đúng là cái Vọng Gác cao để cho người lính thú gát giặc, nên câu thơ có nghĩa : Trong đêm nay trên vọng gác cao vẳng tiếng thở dài không còn nhàn nhã nữa !
Gác canh cao đêm vắng,
Buông dài tiếng thở than !
2. Ý thứ hai :
Cho người cô phụ ở nhà.
Câu thơ có nghĩa : Đêm nay, trên lầu cao để ngắm trăng, nàng cô phụ cũng thở dài vì nhớ thương chồng nơi quan ải, chớ không phải ngắm trăng với tâm tình nhàn nhã nữa !
và... Nếu theo ý thứ hai, thì 2 câu dịch cuối sẽ là :
Lầu cao nhìn trăng sáng,
Nàng cô phụ thở than !
Lục bát :
Lầu cao trăng sáng bàng hoàng,
Mõi mòn trông ngóng thở than riêng mình !
Làm ta lại nhớ đến 2 câu trong Chinh Phụ Ngâm Khúc :
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,
Dạ chàng xa ngoài cỏi Thiên San....
... và... 2 câu :
漢下白登道, 胡窺青海灣。
Hán há Bạch Đăng Đạo, Hồ Khuy Thanh Hải Loan.
Lại làm cho ta nhớ đến 2 câu cũng trong Chinh Phụ Ngâm Khúc :
Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.
Cho thấy là thơ của Thi Tiên có ảnh hưởng rất lớn đến văn học cổ của ta
biết chừng nào !
5. Bài thơ TĨNH DẠ TƯ của LÝ BẠCH :
Bài thơ TĨNH DẠ TƯ của Thi Tiên LÝ BẠCH với lời lẽ mộc mạc, giản dị, nhưng lại rất thực tế, nhân bản, dễ đi sâu vào lòng những người tha hương cô thân chiếc bóng, lòng nhớ quê luôn canh cánh khôn nguôi !
靜夜思 TĨNH DẠ TƯ
床前明月光, Sàng tiền minh nguyệt quang,
疑是地上霜。 Nghi thị địa thượng sương.
舉頭望明月, Cử đầu vọng minh nguyệt,
低頭思故鄉。 Đê đầu tư cố hương !
李白 LÝ BẠCH
CHÚ THÍCH :
Chữ 靜 được phát bằng 2 âm TỊNH và TĨNH, nhưng nghĩa thì lại như nhau. TĨNH DẠ 靜夜 : là Trong đêm thanh vắng. Đêm vắng lặng.
NGHI 疑 : là Nghi Ngờ. Ở đây có nghĩa là NGỠ là , Tưởng là.
CỬ ĐẦU : là ngước đầu, là ngẩn đầu lên.
ĐÊ ĐẦU : là Cúi đầu xuống.
NGHĨA BÀI THƠ :
NỖI NHỚ NHUNG TRONG ĐÊM VẮNG VẺ
Trước giừơng ta nằm, ánh trăng sáng vằng vặc đang chiếu rọi, ánh trăng huyền ảo mơ màng như có một làn sương mỏng phủ trùm cả đất trời. Trong đêm vắng lặng nầy, ta không sao chợp mắt được. Ngước đầu nhìn lên vầng trăng sáng như thuở nào, nên khi cúi đầu nhìn xuống lại tưởng nhớ đến quê hương !
Tình cảm mộc mạc mà chân thật biết bao, nên chi bài thơ với những từ ngữ rất giản dị lại cũng rất dễ đi vào lòng người suốt trên ngàn năm nay !
DIỄN NÔM :
TĨNH DẠ TƯ
Mông lung ngỡ sương đêm.
Ngữa trông vầng trăng bạc,
Cuối đầu nhớ quê thêm !
Lục bát :
Trước giừơng nhìn ánh trăng trong,
Mông lung cứ ngỡ sương lồng bóng mây.
Ngữa trông trăng sáng đêm nay,
Cúi đầu lòng những ai hoài nhớ quê.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Cử đầu vọng minh nguyệt , đê đầu tư cố hương
Hẹn bài viết tới :
NGUYỆT DẠ ỨC XÁ ĐỆ 月夜憶舍弟
của Thi Thánh Đỗ Phủ.
杜紹德
ĐỖ CHIÊU ĐỨC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét