Tô Đông Pha và Tô Tiểu Muội Đoàn Thị Điểm và Đoàn Viết Luân
GIAI THOẠI VĂN CHƯƠNG:
HAI ANH EM (3)
Văn học sử Trung Hoa có hai anh em là Tô Đông Pha 蘇東坡 và Tô Tiêu Muội 蘇小妹. Văn học sử Việt Nam ta cũng có hai anh em Đoàn Viết Luân 段曰輪 và Đoàn Thị Điểm 段氏點.
Xin kính nời Quý Vị nghe hai câu chuyện thú vị của "Hai Anh Em" như sau....
Văn học sử Trung Hoa có Đường Tống Bát Đại Gia, (tức là 8 người giỏi văn chương nhất đời Đường và Tống), thì cha con nhà họ TÔ đã chiếm hết 3 ghế rồi, đó là : Tô Lão Tuyền 蘇老泉 (cha), Tô Triệt 蘇轍 (em trai), và Tô Thức 蘇軾 (anh), tự là Đông Pha 東坡, nên người ta thường gọi là Tô Đông Pha. Tô Đông Pha còn một người em gái nữa tên là Tô Tiểu Muội. Tương truyền Tô Tiểu Muội trán vồ, mặt dài, xấu gái lắm. Nhưng văn tài lại rất giỏi, vì thế anh em thường xướng họa nhau. Tô Đông Pha làm thơ diễu em gái như sau :
Vị xuất đình trung tam ngũ bộ, 未 出 亭 中 三 五 步,
Ngạch đầu tiên đáo họa đường tiền. 额 頭 先 到 畫 堂 前.
Có nghĩa :
Chưa ra khỏi phòng năm ba bước, thì cái trán vồ đã nhô đến tận phòng khách rồi.
Để chế diễu ông anh mặt dài, Tiểu Muội đã làm 2 câu thơ như sau :
Khứ niên nhất trích tương tư lệ, 去 年 一 滴 相 思 淚,
Chí kim lưu bất đáo tai biên. 至 今 流 不 到 腮 邊.
Có nghĩa :
Một giọt nước mắt khóc tương tư hồi năm ngoái, đến nay còn chưa chảy tới dưới càm.
Ông anh cũng đâu có chịu thua, Tiểu Muội hai hố mắt hơi sâu, nên Tô Đông Pha lại diễu em gái bằng hai câu sau :
Kỷ hồi thức lệ thâm nan đáo, 幾 回 拭 淚 深 難 到,
Lưu đắc uông uông lưỡng đạo tuyền. 留 得 汪 汪 两 道 泉.
Có nghĩa :
Mấy lần lau nước mắt mà sâu quá lau không tới, để còn xót lại hai đường nước đầm đìa như hai dòng suối.
Ông anh nầy quả độc thiệt. Nhưng, Tô Tiểu Muội cũng đâu có vừa... Vì Tô Đông Pha râu rậm bó hàm, nên Tô Tiểu Muội nhạo lại rằng :
Khẩu giốc kỷ hồi vô mịch xứ, 口 角 幾 回 無 覓 處,
Hốt văn mao lý hữu thanh truyền. 忽 聞 毛 裡 有 聲 傳.
Có nghĩa :
Tìm mãi mà vẫn chẳng thấy miệng mồm ở đâu cả, bỗng dưng nghe trong đám lông có tiếng nói vọng ra.
Anh em đùa chơi diễu với nhau như thế đấy !
Tượng của Tô Đông Pha và Tô Tiểu Muội
Còn Văn học sử Việt Nam ta thì....
Bà Đoàn Thị Điểm diễn nôm tập thơ Chinh Phụ Ngâm Khúc hay như thế nào, ai cũng biết cả rồi. Bà có một ông anh tên là Đoàn Viết Luân cũng rất giỏi thơ văn. Theo truyền thuyết...
Khi lên 6 tuổi, một hôm, bà Đoàn Thị Điểm đang học Sử Ký 史記 Trung Hoa, thì ông anh đến lấy một câu trong Sử Ký ra câu đối như thế nầy :
Bạch xà đương đạo, Quý bạt kiếm nhi trảm chi.
白 蛇 當 道, 貴 拔 劍 而 斬 之.
Bà Điểm liền lấy một câu cũng trong Sử Ký đối lại rằng :
Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng Thiên nhi thán viết.
黄 龍 負 舟, 禹 仰 天 而 歎 曰.
Có nghĩa :
- Rắn trắng giữa đường, Ông Quý (Lưu Bang Hán Cao Tổ) tuốt gươm mà chém Đó...
- Rồng vàng đội thuyền, Ông Vũ (Hạ Vũ Vua Nhà HẠ) ngửa mặt lên Trời mà than Rằng...
Cái hay của đôi câu đối nầy là đều lấy trong Sử Ký và đều kết thúc bằng một Hư Tự : Chữ CHI ở đây là Phiếm chỉ Đại từ , còn chữ VIẾT là một Trợ Từ.
Họa ảnh của bà Đoàn Thị Điểm
Có lần, ông Đoàn Viết Luân từ ngoài đi vào nhà, thấy em gái đang ngồi bên rổ kim chỉ, liền đọc:
Huynh lai đường thượng tầm song nguyệt. 兄来堂上尋双月,
Có nghĩa :
- Anh lên nhà trên tìm 2 mặt trăng .
Song nguyệt là 2 mặt trăng, mà theo chữ Nho, 2 chữ Nguyệt 月 ghép lại là chữ Bằng 朋 là Bè bạn, bằng hữu, nên câu trên còn có nghĩa là: Anh lên nhà trên tìm BẠN, chứ không phải tìm 2 mặt trăng.
Bà Điểm liền đối lại rằng :
Muội đáo song tiền tróc bán phong. 妹到窗前捉半風.
Có nghĩa :
- Em đến trước cửa sổ bắt nửa làn gió .
Bán Phong 半風 là nửa làn gió, mà cũng có nghĩa là phân nửa ở bên phải của chữ Phong 風 tức là chữ Sắt 虱 có nghĩa là con Rận. Nên câu đối trên có nghĩa là : Em đến trước cửa sổ để bắt rận.
Khi hay tin chị dâu sanh được con gái đầu lòng trong đêm rộn rịp vui mừng, Bà Điểm đã đùa với anh rằng:
Bán dạ sinh hài, Hợi Tý nhị thời vị định.
半 夜 生 孩, 亥 子 二 時 未 定.
Có nghĩa :
- Nửa đêm sanh con, Hợi Tý 2 giờ chưa định, ý muốn nói không biết là giờ Tý hay giờ Hợi.
Đoàn Viết Luân liền đối lại:
Lưỡng tình tương phối, Kỷ Dậu song hợp nãi thành.
两 情 相 配, 己 酉 双 合 乃 成.
Có nghĩa :
- Hai tình phối hợp nhau, Tỵ Dậu 2 bên hợp nhau mà thành.
Với lối chơi chữ, 2 chữ Hợi 亥 và Tý 子 ghép lại thành chữ Hài 孩; chữ Tỵ 巳 và chữ Dậu 酉 ghép lại với nhau thành chữ Phối 配. Ta còn gọi đây là lối đối chiết tự. (Nói thêm : Đúng ra chữ PHỐI 配 được ghép bởi bộ DẬU 酉 và bộ KỶ 己. Nhưng trong phép Tử Vi thì TỴ DẬU SỬU là Tam Hạp, nên mới mượn âm TỴ 巳 mà đọc chữ KỶ 己 cho nó thành TỴ DẬU SONG HỢP mà thôi. Đây cũng là một cách CHƠI CHỮ của người xưa đó !).
Một hôm, cơm chiều và tắm rửa xong xuôi, bà đang xăm xoi trước gương thì ông anh đến, thấy cô em gái ngồi trước gương, ông anh bèn tức cảnh buộc miệng đọc ra 1 vế đối như sau :
Đối kính họa mi, nhất điểm khuyên thành lưỡng điểm
對 镜 画 眉, 一 点 圈 成 两 点,
Có nghĩa :
- Ngồi trước gương mà kẽ chân mày, thì chấm 1 chấm sẽ vòng thành 2 chấm.
Đối kính họa mi...
Xin nói thêm về câu đối nầy, có người viết chữ KHUYÊN thành chữ PHIÊN 翻 là Lật, lật( thuyền ), lật( trang nầy qua trang khác ). Phiên Dịch 翻譯 : là chuyển từ ngôn ngữ nầy qua ngôn ngữ khác.... Ý nghĩa không được chính xác bằng từ KHUYÊN 圈 là Vẽ vòng. Thành ngữ về trang điểm của các bà các cô có câu : KHUYÊN KHUYÊN ĐIỂM ĐIỂM 圈圈點點. Nghĩa đen là : khoanh khoanh chấm chấm, nghĩa bóng là động tác chấm phá trên khuôn mặt khi trang điểm. Nên thiết nghĩ : Chữ KHUYÊN 圈 đúng hơn chữ PHIÊN 翻 là vậy !
Vì bà tên là Điểm (chấm), nên cũng có nghĩa là ngồi trước gương thì 1 cô Điểm thành ra 2 cô Điểm. Câu đối khá hóc búa, nên bà không đối được ngay lúc đó, buồn lòng bà thả bộ ra bờ ao sen, thì thấy ông anh cũng đang đứng đó ngắm trăng. Xúc cảnh sinh tình, bà ứng khẩu đối ngay câu đối của ông anh như sau :
Lâm trì ngoạn nguyệt, độc luân chuyển tác song luân.
臨 池 玩 月, 獨 輪 轉 作 雙 輪。
Có nghĩa :
- Đứng bên bờ ao ngắm trăng, thì 1 vầng trăng đơn độc sẽ thành ra 2 vầng trăng.
Chữ LUÂN là Mạo từ (Article), Nhất Luân 一 輪, là một vầng, Độc Luân 獨輪 : là một vầng trăng đơn độc. mà cũng là tên của ông anh quý hóa của bà. Đứng ở bờ ao ngắm trăng thì một anh Luân sẽ thành 2 anh Luân, một anh trên bờ, 1 anh là cái bóng dưới ao. Thật xuất sắc !
Về vế đối nầy, cũng có bản ghi là :
Lâm trì ngoạn nguyệt, CHÍCH luân chuyển tác song luân.
Nhưng xét chữ CHÍCH 隻 : nghĩa là Chiếc : Nhất chích thuyền 一隻船 : là Một Chiếc thuyền. CHÍCH nghĩa là CON , vd : Nhất chích điểu 一隻鳥 : là Một Con chim, Nên CHÍCH cũng là Mạo từ (Article). Nếu là Hình Dung Từ thì CHÍCH có nghĩa là đơn lẻ, nhưng lại thường được dùng trong câu hơn là dùng để bổ nghĩa cho một từ đơn . Vd : Cô thân CHÍCH ảnh 孤身隻影 : là Cô thân CHIẾC bóng...
Lại xét chữ LUÂN 輪 cũng mang hai Từ loại khác nhau : Danh từ, LUÂN 輪 có nghĩa là cái Bánh xe (có bộ XA bên trái 車). Nếu là Mạo từ thì Nhất Luân Nguyệt 一輪月 là Một Vầng Trăng. Vì vậy, mà lấy chữ CHÍCH để bổ nghĩa cho chữ LUÂN , cùng là Mạo từ với nhau cả, nên xét thấy không được ổn, vì LUÂN ở đây là Mạo từ chớ không phải là Danh Từ (Bánh xe). Danh từ ở trong câu đối nầy là NGUYỆT (Mặt trăng). Hơn nữa ĐỘC 獨 mà chuyển thành SONG 雙 nghe vẫn xuôi tai hơn là CHÍCH 隻 với SONG 雙. Đây chỉ là ý kiến cá nhân của tôi, tôi chọn bản nào thấy hợp lý thì theo mà thôi !.
Hai anh em Tô Đông Pha thì người anh giỏi và nổi tiếng hơn người em gái. Còn...
Hai anh em bà Đoàn Thị Điểm thì bà là người có thành tích văn học và nổi tiếng hơn ông anh.
Nói thêm : Về tên của ông Đoàn Viết Luân 段曰輪, có bản ghi là Đoàn Doãn Luân 段尹輪, có thể do tự dạng của 2 chữ DOÃN 尹 và VIẾT 曰 hơi giống nhau, nếu là chữ viết tay, các nét của chữ DOÃN ngắn lại sẽ thành chữ VIẾT, và ngược lại , các nét của chữ VIẾT viết dôi ra sẽ dễ đọc nhằm thành chữ DOÃN. Nên có bản chỉ để tên ông là ĐOÀN LUÂN, chớ không có VIẾT, DOÃN gì cả !
Hẹn bài viết tới "NHỮNG CÂU ĐỐI THÚ VỊ (4) : Tô Tiểu Muội Tam Nan Tân Lang" (Nàng Tô Tiểu Muội ba lần làm khó chàng rể mới).
杜紹德
ĐỖ CHIÊU ĐỨC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét