Ảnh tác giả KHA TIỆM LY (bìa phải )
Ngày 14.11 âl vừa qua (26/12/2023), bài văn tế ngài Uy Viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ đã chính thức được chấp nhận, và được UBND huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh cho đọc trước đền thờ cụ qua giọng đọc của nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Trọng Tuấn, (người đã đọc Văn Tế Đại Thì Hào Nguyễn Du 3 năm trước)
***
VĂN TẾ UY VIỄN TƯỚNG CÔNG
1. Nôi địa linh luôn phát sinh người anh kiệt, bảo quốc an dân thanh sử rạng ngời,
Chốn hàn môn thường xuất hiện bậc cao hiền, múa bút khoa nghiên phương danh chói lọi.
2. Khí thiêng Lam Hồng cho ra đời Năng Văn nữ sĩ (1), nào thủy chung, nào hiền đức, vua ban “Trinh Tiết Khả Phong”, một chữ “HẠNH” vạn tải không mờ,
Đất linh Nghi Xuân hun đúc ngài Uy Viễn Tướng Công, là võ tướng, là văn quan, sắc phong “Lao Năng Khả Tướng”, một chữ “TÀI” thiên thu sáng chói.
3. Làng xuất khanh tướng, huyện xuất khanh tướng; làng có thanh quan, huyên có thanh quan, chuyện khó thấy nhưng trang sử dễ tìm,
Cha đoạt giải nguyên, con đoạt giải nguyên; cha thọ bát tuần, con thọ bát tuần, sự lý thú cổ kim khó gặp (2)
Nhớ Cố Lớn quê ta,
4. Nếp nho phong luôn nhường trên kính dưới, dùng văn chương, dùng lời biếm, đấng trượng phu hiên ngang với bạo lực cường quyền,
Tuổi thanh xuân muốn giúp nước phò vua, tự lập chí, tự lập thân, cội tùng bách ngất ngưởng cùng mây trời nước cõi.
5. Ba mươi năm cân đai áo mão, một tiếng thanh liêm,
Hết nửa đời cửa khuyết sân chầu, vạn lời ca ngợi.
6. Thương dân nghèo nên quai đê lấn biển, mở huyện Kim Sơn, mở huyện Tiền Hải ,… mở tới đâu, đời muôn người hạnh phúc ấm no,
Nhận lịnh vua liền dẹp loạn điều binh, dẹp Phan Bá Vành, dẹp Nông Văn Vân,…dẹp tới đâu, dân quân vui mừng hồ hởi.
7. Mũi Can -Tương (3) rạch ngang biên địa, phá loạn quân mang cuộc sống yên bình,
Bút Văn Khuê (4) xoẹt thẳng lưng trời, xé mây đen che vùng trời tăm tối.
8. Dâng vua mười thuật “Thái Bình Thập Sách”, là trí tuệ, là bản lĩnh, là tâm huyết, là niềm tin một lòng vì ích nước lợi dân,
Ngự ban bốn chữ “Lao Năng Khả Tướng”, là mồ hôi, là nước mắt, là xương máu, là công trạng cả đời cho gia an quốc thái.
9. Đời làm quan chịu bể dâu thăng giáng, công lao tỏa rạng mấy miền, mưa ân đức tràn trề dưới biển trên non,
Thân làm tướng luôn trên dưới nghiêm minh, đức độ lưu truyền bao thuở, gương liêm khiết sáng trưng trong triều ngoài nội.
10. Làm quan không vinh, làm lính không nhục, chất kiêu bạc oai hùng như ngọn núi một cõi nghinh mây,
Khinh phường siểm nịnh, khinh kẻ ngu trung, tính uy vũ hiên ngang tựa cội tùng bốn bề thách gió.
11. Bậc đại thần khinh tài trọng nghĩa, màng chi xuống thấp lên cao, một lời một tiếng, bề trên lớp dưới hân hoan,
Dòng Nho gia lãnh ấn tiên phong, dốc lòng đánh Nam dẹp Bắc, trăm trận thắng trăm, ba quân muôn nhà hồ hởi.
Nào ai hay?
12.Thời thư sinh bạch diện đã đành bữa đói bữa no,
Khi đắc lộ phong vân lại phải ba chìm bảy nổi!
13. Lúc còn thắp đèn đọc sách, trên bạn dưới bè đã tuyệt thế phong lưu,
Đâu chờ múa bút giương cung, ngoài quận trong triều mới hồng nhan đắm đuối?
14. Có những lúc thanh gươm yên ngựa, cũng không quên bên chén rượu cuộc cờ,
Dù bao phen nón dấu giáo dài (5), vẫn luôn nhớ thú ả đào hát nói!
15. Đường hoạn lộ bốn mươi năm trọng trách, dù võ dù văn, vẫn ngất ngưởng, tự tại, thong dong,
Cõi phù sinh hưởng tám chục tuổi trời, lúc vinh lúc nhục, luôn bản lĩnh, trung can, khí khái.
16. Chí nam nhi đã xong ý nguyện, miền tiêu dao thưởng quạt gió, đèn trăng, nghĩ công danh như sóng vỗ bập bềnh,
Chuyện quan trường gởi lại triều ca, thú điền viên nhấp rượu cúc, trà thông, buông thế sự mở miệng cười sảng khoái!
17. An nhiên cưỡi bò vàng lạc ngựa, lấy mo cau che “miệng thế gian”! (6)
Lếch thếch theo dăm đứa tiểu đồng, (7) buông thế sự vui đời khoáng dật.
Tướng công ta,
18. Tại giang hồ vốn là kỳ sĩ ngông nghênh,
Tra sử sách mới thấy công lao lồ lộ!
19. Giữa đồng liêu dở dở ương ương, đấng anh hùng tựa sao Tâm, sao Chấn (, rực rỡ cùng soi đêm trường tăm tối âm u,
Trước giông bão vùi vùi dập dập, đại trượng phu như cội bách cội tùng, sừng sững đứng cạnh non ngàn vút cao vòi vọi.
20. Sống làm tướng, thác làm thần, bao công trạng, muôn đời thanh sử đã ghi,
Thương cho nước, nghĩ cho dân, lắm nghĩa ân, thiên thu đá bia còn chói!
21. Ai công hầu? Ai khanh tướng? Đâu hùng binh? Đâu tuấn mã? Ngẫm mấy người được dựng miếu đình, dưới trên một dạ phụng thờ?
Ai cánh chuồn? Ai giáp trụ? Đâu đại công? Đâu thần chước, đếm bao vị được lập sinh từ, gần xa bốn mùa hương khói?
22. Dằn chén rượu, tuốt lưỡi gươm chính khí, xung phong ra trận tiền vào lúc tuổi tám mươi,
Thắng yên cương, phất cờ soái oai hùng, cương quyết diệt Lang sa dù còn vài hơi thở. (9)
23. Tướng công bình Nam phạt Bắc, để bốn phương cuộc sống yên bình, ơn so như biển như non,
Thành Hoàng lấn biển quai đê, cho vạn dân cơm no áo ấm, đức sánh bằng sông bằng suối.
24. Sử xanh đâu chỉ ba triều chép,
Cương thường tất cả ánh sao soi! (10)
Cố Lớn ôi!
25. Nhớ Dinh Điền Sứ đâu riêng Kim Sơn, Tiền Hải sụt sùi,
Khóc Đức Thành Hoàng nào chỉ Uy Viễn , Nghi Xuân nức nở!
26. Ý từ long phi phụng vũ, trác tuyệt văn chương, chúng hậu sinh nguyện chung tay năm tháng đắp bồi,
Vó ngựa đông chiến tây chinh, lẫy lừng võ nghiệp, phận cháu con thề góp sức cả đời vun xới.
27. Xa gần vọng bái, chốn đền thiêng nghi ngút khói trầm bay,
Nhỏ lớn khiêm cung, miền linh địa đớn đau dòng lệ nhỏ!
Nay kẻ hậu sinh chúng con,
28. Muôn kiếp không quên ân sâu bất tận, kính tiễn đấng hùng anh hổ bộ đăng trình,
Trăm họ khắc ghi đức lớn vô cùng, cầu xin đại tướng quân thần uy chiếu cố.
29. Một nén hương thơm tỏa thấu trời cao,
Vạn tấm lòng thành tưởng về Cố Lớn.
Ngài vốn hiển linh,
Niệm tình thụ bái!
KHA TIỆM LY phụng bút
Chú thích:
(1) Năng Văn nữ sĩ: Tên thật là Nguyễn Thị Muội, người chị cùng cha khác mẹ với cụ Nguyễn Công Trứ; Bà là người phụ nữ xinh đẹp, phẩm hạnh, chữ tốt văn hay. Chồng mất lúc bà mới 20 tuổi, bà thủ tiết ở vậy, sau đó bà đi tu. Bà được vua Minh Mạng ban cho bốn chữ “ Tiết Hạnh Khả Phong”.
(2) Đức Ngạn Hầu Nguyễn Công Tấn là thân sinh của cụ Nguyễn Công Trứ, đỗ Giải Nguyên trước Nguyễn Công Trứ 80 năm. Cả hai đều thọ 80 tuổi
(3).Can -Tương: Tên hai thanh gươm quý thời Đông Châu
(4).Văn Khuê: ngôi sao chủ về văn chương
(5). Nón dấu giáo dài: Chỉ người lính xưa
(6). “Che miệng thế gian”: Giai thoại kể rằng, khi về hưu, Nguyễn Công Trứ thường cưỡi bò vàng có đeo lạc ngựa, bên sau là dăm đứa tiểu đồng, ngao du sơn thủy. Thấy người, cụ liền lấy mo cau che trôn ngựa. Hỏi: “Cố Lớn làm gì đấy?” – “Ta che miệng thế gian”
(7) Trộm ý thơ Cố Lớn: “Dăm ba đứa tiểu đồng lếch thếch. Tiêu dao nơi cùng cốc thâm sơn”
(. Sao Tâm sao Chấn: Hai vì sao trong nhị thập bát tú
(9) Khi giặc Pháp tấn công Đà Nẵng, Cụ Nguyễn Công Trứ xin vua đi đánh Pháp. Cụ nói: “…Dù là chiếc lọng rách, dù chỉ còn vài hơi thở, ta cũng quyết dẹp giặc”
(10) Trộm ý câu: “Vạn cổ cương thường thiên địa đại/Cửu trùng luân bột nhựt tinh lâm” (Muôn thuở cương thường trời đất rộng/Chín tầng ơn sáng ánh sao soi)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét