CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 19 tháng 6, 2024

Thứ Ba, 18 tháng 6, 2024

XÓM CHIỀU - THƠ NHẬT QUANG





Tác phẩm XÓM CHIỀU

Tranh sơn dầu Nhật Quang 


XÓM CHIỀU

Hoàng hôn nhuộm tím xóm chiều
Chợ xa dáng mẹ liêu xiêu ngõ mòn
Cánh chim mỏi cánh đầu non
Bôn ba viễn xứ, lòng con nhớ về
Mơ chiều lưng tựa bến quê
Bên lòng mẹ những vỗ về thiết tha
Tình quê ấm áp chan hòa
Nghe chuông chiều vọng ngân xa cuối trời
Mơ chiều nắng nhạt nhẹ rơi
Hoàng hôn tím nhuộm đẹp ngời trăng thanh
Bao năm xuôi ngược thị thành
Xóm chiều đẹp mãi bức tranh yên bình.


NHẬT QUANG

Thứ Hai, 17 tháng 6, 2024

KỶ NIỆM VỀ MỘT CON ĐƯỜNG - TỪ KẾ TƯỜNG

 


KỶ NIỆM VỀ MỘT CON ĐƯỜNG

Tôi thường ngược xuôi trên QL1 (ngày xưa gọi là QL4) từ Sài Gòn-Mỹ Tho để qua Bến Tre và ngược lại suốt thời thơ ấu cho tới bây giờ. Ngày xưa không có đường cao tốc Sài gòn-Trung Lương nên các loại xe cộ đều ngược xuôi chung một đường quốc lộ. Nhưng hình ảnh xa mờ trong ký ức mà tôi vẫn nhớ như in là chiếc xe lửa dài ngoằng kéo những toa đen xỉn còn gọi là Ô tô Ray, tức xe chạy trên đường Rầy mà đầu tàu kéo bốc khói đen nghi ngút, tiếng máy chạy xình xịch xình xịch bởi động cơ hơi nước.
Nhớ ngày xưa đi học, nghỉ hè về quê tôi thích đi xe lửa rồi lại ngược xe lửa trở lên Sài Gòn để tựu trường. Xe lửa ngày xưa sơn màu đen, cũ sì như trong phim chạy xình xịch như đếm nhịp và chậm hơn xe đò. Nhưng tôi thích đi xe lửa để được... đếm những cây cột điện chạy lùi lại phía sau xe. Đếm một chập rồi quên và cho tới khi xe lửa không còn, đường ray bị xóa trong lau lách thời gian tôi vẫn không nhớ nổi Sài Gòn-Mỹ Tho có bao nhiêu cây cột điện.
Bây giờ mỗi lần phóng xe máy trên tuyến đường này tôi ước được nhìn thấy chiếc xe lửa với những toa nối dài, đen sì chạy song hành băng qua những cánh đồng ngút ngàn và hàng cột điện kéo dài như bất tận. Nhưng làm sao được, mọi thứ đã đổi thay theo tốc độ phát triển QL4 vắng vẻ ngày xưa bây giờ nhà cửa san sát, cầu Tân An, cầu Bến Lức xây hiện đại, chạy hai lằn xe xuôi ngược chứ không phải dừng lại để chờ qua cầu khi thấy tấm bảng hiệu màu trắng của người lính gác cầu xoay về bên này.
Đi xe lửa thì không dừng, nhưng đi xe đò thì phải dừng lại khá lâu và đứa trẻ con như tôi tha hồ nghe những người ăn xin hát rong ca vọng cổ hay ca tân nhạc, nhìn những bà bán hột vịt lộn vùi trứng trong thúng trấu nóng hâm hấp xề tới bên cửa chào mời. Những hình ảnh đầy ắp kỷ niệm ấy sao cứ sống mãi trong tôi như một cuốn phim quay chậm. Có ai còn nhớ những hình ảnh kỷ niệm ấy giống như tôi?


TỪ KẾ TƯỜNG

NGỦ ĐI EM - NHẠC KHÊ KINH KHA







NGỦ ĐI EM
NHẠC KHÊ KINH KHA
TRÌNH BÀY Ý LAN


Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2024

KÝ MỘNG - THƠ NGUYỄN DU, ĐỖ CHIÊU ĐỨC DIỄN NÔM

 



Góc Việt Thi : 
        Bài thơ KÝ MỘNG của cụ Nguyễn Du



     
           
      Đây là bài thơ cụ Nguyễn Du làm trong khoảng thời gian "Mười năm gió bụi (1786-1795)". Theo gia phả thì người vợ đầu của Nguyễn Du là con gái của ông Đoàn Nguyễn Thục, em gái của Đoàn Nguyễn Tuấn, đã mất ở Quỳnh Hải, Thái Bình. Lúc này Nguyễn Du đang ở Hà Tĩnh chiêm bao thấy vợ. Ông nghĩ lúc sống bà chưa biết đường làm sao tìm được ông trong giấc chiêm bao. Tỉnh ra nhớ đến giấc mộng mà nghĩ thương cho vợ đã không ngại hiễm nguy vất vả lặn lội đến thác mộng cho mình, nên làm bài thơ nầy để bày tỏ nỗi lòng của mình đối với người đầu ấp tay gối của những năm xưa.

              記夢              KÝ MỘNG
           逝水日夜流,    Thệ thuỷ nhật dạ lưu,
           遊子行未歸。    Du tử hành vị quy.
           經年不相見,    Kinh niên bất tương kiến,
           何以慰相思。    Hà dĩ uỷ tương ti (tư).
           夢中分明見,    Mộng trung phân minh kiến,
           尋我江之湄。    Tầm ngã giang chi mi.
           顏色是疇昔,    Nhan sắc thị trù tích,
           衣飭多參差。    Y sức đa sâm si.
           始言苦病患,    Thuỷ ngôn khổ bệnh hoạn,
           繼言久別離。    Kế ngôn khổ biệt ly.
           帶泣不終語,    Đới khấp bất chung ngữ,
           彷彿如隔帷。    Phảng phất như cách duy.
           平生不識路,    Bình sinh bất thức lộ,
           夢魂還是非。    Mộng hồn hoàn thị phi ?
           疊山多虎廌,    Điệp sơn đa hổ trĩ,
           藍水多蛟螭。    Lam thuỷ đa giao ly.
           道路險且惡,    Đạo lộ hiễm thả ác,
           弱質將何依。    Nhược chất tương hà y ?
           夢來孤燈清,    Mộng lai cô đăng thanh,
           夢去寒風吹。    Mộng khứ hàn phong xuy.
           美人不相見,    Mỹ nhân bất tương kiến,
           柔情亂如絲。    Nhu tình loạn như ty.
           空屋漏斜月,    Không ốc lậu tà nguyệt,
           照我單裳衣。    Chiếu ngã đơn thường y !
                       阮攸                          Nguyễn Du

          

* Chú thích :
    - 記夢 KÝ MỘNG : KÝ là Nhớ, là ghi. Nên KÝ MỘNG là "Nhớ Lại Giấc Mơ".
    - 逝水 Thệ Thủy : THỆ là Chết, là Đi không trở lại, nên THỆ THỦY là Dòng nước chảy đi mất hút không trở lại.
    - 經年 Kinh Niên : KINH là Đi qua, nên KINH NIÊN có nghĩa là Suốt cả năm. Đôi khi dùng để chỉ Nhiều năm qua, tương đương như từ Bao Năm.
    - 慰 Ủy : Thăm hỏi, như ỦY Lạo; Ở đây có nghĩa là An Ủy, An Ủi.
    - 江之湄 Giang Chi My : Bến của con sông; Bến nước.
    - 疇昔 Trù Tích : là Như ngày xưa; là Vẫn như ngày nào.
    - 衣飭 Y Sức : Y phục và Trang sức, chỉ sự ăn mặc.
    - 參差 Sâm Si : là So Le; ở đây chỉ Lôi thôi, xốc xếch.
    - 始言 Thủy Ngôn : Lời nói mở đầu; Lời nói trước tiên.
    - 繼言 Kế Ngôn : Lời nói kế đó; Lời nói tiếp theo.
    - 帶泣不終語 Đới khấp bất chung ngữ : Nghẹn ngào sùi sụt nói chẳng hết lời.
    - 虎廌 Hổ Trĩ hay Hổ Trãi : Chỉ các loại thú dữ như cọp như beo...
    - 蛟螭 Giao Ly : Thuồng luồng cá sấu, chỉ chung các loại thuỷ quái dưới sông.
    - 弱質 Nhược Chất : là Thể chất yếu đuối, thường dùng để chỉ cơ thể của phụ nữ.
    - 將何依 Tương Hà Y : Sẽ nương tựa vào cái gì; Biết trông cậy vào ai đây ?
    - 漏 Lậu là Dột, là rò rỉ; ở đây chỉ "Ánh trăng tà chiếu LỌT vào trong phòng vắng (Không ốc lậu tà nguyệt 空屋漏斜月).
    - 單裳衣 Đơn Thường Y : Chỉ Quần áo mỏng manh khi mặc để ngủ.

* Nghĩa bài thơ :
                         NHỚ LẠI GIẤC MƠ
        Như dòng nước cứ đêm ngày chảy đi rồi mất hút, cũng như người du tử đi xa mãi vẫn chưa về. Biết bao năm qua không gặp mặt nhau, lấy gì để an ủi cho lòng thương nhớ nhau đây ? Rõ ràng là gặp nhau ở trong mơ, nàng đến tìm ta ở bên bờ sông nước. Nhan sắc thì vẫn như thuở nào, nhưng sao áo quần trông xốc xếch thế kia. Mở lời bằng những lời thở than bệnh hoạn, kế đến là bày tỏ nỗi nhớ thương ly biệt lâu ngày. Sùi sụt trong tiếng nấc nghẹn ngào nên nói không cạn lời, mường tượng như là bị ngăn cách bởi một bức màn thưa. Bình sinh nàng vốn chẳng biết đường đi, nên mộng hồn chẳng rõ là thực hay là hư ? Núi Tam Điệp nhiều hổ báo cọp beo; Sông Lam Giang lại lắm thuồng luồng cá sấu. Đường đi thật hiễm ác vô cùng, với bản chất yếu đuối của phái nữ nàng sẽ nương tựa vào ai đây ?... Ta mơ màng trong ngọn đèn côi thanh vắng, khi tỉnh lại thì gió thổi lạnh lùng. Nào có gặp được người đẹp nào đâu, càng khiến cho mối tình cảm trong lòng rối tợ tơ vò. Nhìn bóng trăng nghiêng nghiêng chiếu lọt vào phòng vắng chiếu cả lên thân áo mỏng manh mà ta đang mặc ngủ...

         Tình cảm thật chân thành tha thiết, thê lương buồn thảm của một người chồng nhớ đến người vợ đã khuất bóng của mình; là mơ nhưng như thật "夢中分明見 Mộng trung phân minh kiến" : Thấy thật rõ ràng ở trong mơ; Tưởng thật nhưng lại là mơ "彷彿如隔帷 Phảng phất như cách duy : Chập chờn như là bị ngăn cách bởi một bức rèm the. Thấy lại hết trong mơ cái thể chất yếu đuối yêu kiều của người vợ cũ hay bệnh tật lại đa sầu đa cảm cho nỗi biệt ly, phải lặn lội đường xa xuyên qua núi sông hiễm ác  để đến báo mộng cho mình... Những hình ảnh thân thương của người vợ cũ ngày thường trong tâm tưởng đều hiễn hiện lại trong mơ. Nhưng khi giật mình tỉnh giấc thì chỉ thấy ánh trăng tà chiếu xuyên qua phòng vắng trong cơn gió lạnh lẽo đơn côi... Qủa là bi thương thê thiết cho một người thuộc "nòi tình" như là tác giả của Đoạn Trường Tân Thanh vậy !

* Diễn Nôm :



                               KÝ MỘNG

                 Dòng thệ thủy ngày đêm tuôn chảy,
                 Gót lãng du đi mãi chưa về.
                 Bao năm chẳng gặp não nề,
                 Lấy gì an ủi vỗ về tương tư.

                 Nay trong mộng rõ như gặp mặt,
                 Nàng tìm ta bến nước ven bờ.
                 Dung nhan tựa thuở bao giờ,
                 Áo xiêm xốc xếch ngẩn ngơ hàm tình.

                 Trước mở lời đinh ninh bệnh hoạn,
                 Sau hàn huyên khổ nạn biệt ly,
                 Nghẹn ngào chẳng nói nên chi,
                 Bên rèm thấp thoáng thấy gì dung nhan.

                 Bình sinh vốn chẳng am đường xá,
                 Mộng hồn kia tựa có tựa không.
                 Hổ lang Tam Điệp trùng trùng,
                 Lam Giang thủy quái thuồng luồng khắp nơi.

                 Đường hiễm ác lắm nơi đều vậy,
                 Thể chất kia biết cậy nhờ ai ?
                 Mơ màng đèn vắng đêm dài,
                 Tỉnh ra gió lạnh ai hoài một thân !

                 Người đâu tá tần ngần chẳng thấy,
                 Tình ngổn ngang lòng rối tựa tơ.
                 Phòng không lọt ánh trăng mờ,
                 Áo đơn lạnh lẽo bơ phờ nhớ ai !
                                                 Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm


       Hẹn bài dịch tới !

                                                杜紹德
                                               ĐỖ CHIÊU ĐỨC


Thứ Sáu, 14 tháng 6, 2024

MƯA ƯỚT ĐÊM DÀI. - THƠ HUỲNH TÂM HOÀI ,NHẠC NGUYỄN HỮU TÂN







MƯA ƯỚT ĐÊM DÀI
THƠ HUỲNH TÂM HOÀI
NHẠC NGUYỄN HỮU TÂN
HOÀ ÂM ĐẶNG VƯƠNG QUANG
TIẾNG HÁT TÂM THƯ


THÁC NIAGARA - THƠ MẶC PHƯƠNG TỬ





 THÁC NIAGARA
Tặng sư M. Chánh

Một sớm bên bờ nắng
Muôn chim hót bên trời
Lung linh ngàn hoa cỏ ,
Phiêu linh nhịp sống đời .
Ngàn năm mây trắng nổi
Ngàn năm tình muôn phương
Ngàn năm hương trời đất ,
Vũ điệu tòa khói sương .
NIAGARA hùng vĩ
Hồn vũ trụ uyen nguyên
Ngàn năm mây nước u Huyền
Ngàn năm mặc khách
còn nguyên vẹn tình .


New York, 7/6/2024

Thứ Tư, 12 tháng 6, 2024

MÙA CÁ CHỐT TRỨNG - TỪ KẾ TƯỜNG

 




MÙA CÁ CHỐT TRỨNG

Khi con sông quê tôi bắt đầu chuyển dòng, màu phù sa nhạt hơn để nước xanh trong và mưa đầu mùa lất phất bay là lúc vị mặn của nước biển đã vào sâu bờ bãi, ruộng đồng, kênh rạch. Lúc đó vào khoảng tháng tư - đầu tháng năm, cũng là lúc mùa cá chốt trứng dậy lên để theo mưa lên ruộng đẻ. Lúc này những chú cá chốt đực như teo tóp lại, nhỏ bằng ngón tay đeo nhẫn, nhưng những cô cá chốt cái mình mẩy lên, phổng phao, thân hình đẫy đà bụng mang đùm trứng già vàng rượm, ưỡn lên thành cái bọc to, láng mỡ sau lớp da màu trắng sáng óng ánh như tráng bạc. Những con cá chốt trứng vẩy vùng trong dòng nước váng màu mỡ gà đang bò lé đé mép bãi bùn con kênh Lớn, con kênh này dẫn từ ngã ba sông vào một vùng đồng đất rộng mênh mông gọi là cánh đồng bưng quê tôi, chạy tít tắp tới chân trời như bất tận.
Câu cá chốt trứng vào thời điểm này là một thú vui hấp dẫn trẻ con thôn quê. Một cây cần câu trúc đủ độ dài từ mép kênh ra giữa dòng nước, sợi cước nhỏ xỏ qua cục chì hình bầu dục như hạt đậu để giữ lưỡi câu móc mồi tép ươn phất phơ nhử những con cá háu đói. Một cái giỏ giảng mang bên mình, chịu khó đứng chôn chân trên bãi bùn và một chút kiên nhẫn là đứa trẻ lên 9 lên 10 tuổi ấy tha hồ mà giật cá chốt bỏ đầy giỏ. Tất nhiên cá chốt trứng được ưa chuộng hơn, nhưng cá chốt ăn câu thì làm sao phân biệt cá nào là cá đực, cá nào là cá cái, cứ thấy dây phao động đậy, bị gằng xuống mặt nước đang đổ vào ngã ba kênh Lớn là giật theo phản xạ thôi. Khi nước lớn đầy kênh cũng là lúc vác cần câu, mang chiếc giỏ nặng đầy cá chốt mang về. Vì lúc này cá chốt không còn ăn câu nữa.
Nhưng có một cách bắt cá chốt nhanh hơn. Đó là vào lúc mưa đầu mùa trút xuống buổi chiều, gặp con nước kênh Lớn dâng lên ào ạt đổ vào ruộng. Lúc này tôi và hai, ba đứa bạn thời trẻ con hợp thành một nhóm, dầm mưa, tay xách “lợp”, một dụng cụ bắt cá đan bằng tre tranh nhau tìm những “đường nước” từ kênh lên ruộng đặt “lợp” để “hứng” những bầy cá chốt trứng theo nhau kéo lên ruộng làm ổ đẻ con. Hồi đó cá chốt nhiều vô kể, gặp mấy cơn mưa đầu mùa như thế tha hồ mà vác “lợp” nặng trĩu cá về nhà. Tuy nhiên những cơn mưa đầu mùa thường mang theo sấm chớp và sét đánh bất ngờ, không hiếm trường hợp người đi đặt “lợp” đón cá chốt lên ruộng bị sét đánh chết nên tôi và đám bạn trẻ con thường bị người lớn trong gia đình ngăn cấm, không cho dầm mưa, liều lĩnh ra đồng bắt cá chốt lên ruộng ngoại trừ việc… lén trốn đi.
Một cách bắt cá chốt vào những cơn mưa đầu mùa khá hữu hiệu, rất hấp dẫn mà cũng rất vui đối với trẻ con và cả người lớn ở thôn quê là đi soi. Hồi đó chưa có sáng kiến đi soi bằng đèn chạy bình ắc-quy hay đèn pin đội đầu như bây giờ mà trẻ con đi soi bằng đèn khí đá tự làm. Dụng cụ soi cá chốt là đèn khí đá còn dụng cụ bắt cá chốt là một cái “nơm” nhỏ, đan bằng tre, một cái bao tay, hai cái giỏ giảng mang hai bên hông. Trời tối, sau mấy cơn mưa đầu mùa nước lên lấp xấp chân ruộng, cá chốt chạy từng bầy, phải nói là…đen đặc trong làn nước trong leo lẻo.
Người đi soi cá chốt cầm xách đèn khí đá, bước lần theo đường chạy của những bầy chốt mà úp nơm, bắt lia lịa. Nhờ có mang bao tay nên cá chốt không đâm vào tay được, ngạnh cá chốt rất bén lại có nọc độc, ai bị mấy vết đâm của cá chốt vào tay cũng cảm nhận được… nỗi nhức nhối khó chịu có khi phải bỏ cuộc. Nhưng không hiểu sao cơ địa tôi lại… chống được nọc độc cá chốt, nên thay vì mang bao tay bắt cá thì tốc độ bị chậm hơn người khác, mà không tranh thủ bắt nhanh thì nhiều người soi, lội đục nước sẽ không thấy cá chạy nữa nên tôi bắt bằng… tay không. Úp được một nơm cá đầy lúc nhúc, tôi chỉ việc quơ tay một vòng là hốt gọn mớ cá bỏ vào giỏ, gọn tưng.
Mùa cá chốt trứng cũng là mùa lá me non mới thay trên cành. Những chiếc lá me non xanh mướt tuốt về rửa sạch nấu canh chua với cá chốt trứng, nêm đủ vị vừa chua, cay, ngọt dịu thì mùi vị của nồi canh chua cá chốt trứng bốc lên thơm nức mũi từ khi còn trên bếp. Khi canh chua đã cho vào tô, những con cá chốt trứng vàng rượm, bóng mẫy, thưởng thức cặp trứng cá chốt, nhai ngồm ngoàm, thịt cá béo ngậy lẫn với vị lá me non chua chua, ngọt dịu, vị cay của ớt làm chảy nước mắt, sụt sịt mũi với bữa cơm quê nhà giữa trận mưa đầu mùa bay bay, gió lạnh se se, hây hẩy thổi, ai mà không nhớ… làng quê với mùa cá chốt trứng đến quay quắt, cháy lòng mới là chuyện lạ!


TỪ KẾ TƯỜNG

TRÚC PHƯƠNG ,VÀ ĐÊM VIỆT NAM - TRẦN HỮU NGƯ

 



TRÚC PHƯƠNG, VÀ “ĐÊM VIỆT NAM”
Nói thì phải nói cho hết, vì dù sao Trúc Phương cũng là Ông vua Boléro Việt Nam.
Tôi xin nói tiếp về nhạc sĩ Trúc Phương.
Bài viết có một vài chỗ “trùng nhau”, tôi xin lỗi bạn đọc, vì khi viết về âm nhạc (bài hát) có đôi khi biết mà vẫn phải viết vì “nó liên quan với nhau”.
Có một bạn đọc thiết tha muốn biết về nhạc sĩ Trúc Phương. Đăng bài này để đáp ứng nhu cầu của bạn đọc đó. Dù chỉ một người muốn biết, nhưng biết đâu trong một người này lại có hàng trăm người khác? Tôi quý trọng tất cả mọi người kể người “phản biện” bài viết của tôi với những lời lẽ “thiếu văn hóa”.
Còn vài ba bài viết về nhạc sĩ Trúc Phương nữa, trong số này có một bài tôi bỏ rất nhiều công sức để viết về Trúc Phương, nhưng bài này dành riêng cho báo giấy, khi nào báo giấy đăng, tôi sẽ đưa lên Fb sau, cũng không muộn.
***
Thú thật, tôi mê những bài hát Boléro từ hồi ở tỉnh Bình Tuy. Nghe Boléro của Trúc Phương (*) qua giọng ca của ca sĩ Thanh Thúy quả là một điều thú vị mỗi buổi sáng ngồi uống cà phê đen (cà phê kho đựng trong cái vợt “dợt” màu nâu ngâm trong cái ấm bắc trên bếp lúc nào cũng bốc khói) rót ra cái ly “xây chừng” nóng hổi, miệng ngận điếu thuốc Bastos xanh, bật quẹt Zippo cái tách, phà khói cuộn tròn, hớp chút cà phê, nghe ngọt đắng, mới thấy “đời có thế mà thôi”! Cái phong cách này cũng dễ làm mấy em xiêu lòng vì chứng tỏ là đàn ông đích thực, nghĩa là xăng super chớ không phải là xăng pha nhớt! Sau này tôi bỏ thuốc, nên không uống cà phê nữa, vì uống cà phê mà không hút thuốc thì thấy nó lạc giọng, sai ton, trật nhịp!
Thanh Thúy, một giọng ca liêu trai, với tiếng khàn, độc, lạ, rên mà không… rỉ, trong những bài tình ca của Trúc Phương, đã làm tôi quyết đi tìm mua một máy Cassette, và có bao nhiêu bài hát của nhạc sĩ Trúc Phương mà Thanh Thúy hát tôi tìm mua đủ. Và sau này có ca sĩ đàn em là Hoàng Oanh cũng hát nhạc Trúc Phương. Thanh Thúy “trong, khàn…”, Hoàng Oanh “leo lẻo, vút…”. Không thể so sánh hai ca sĩ này, vì gu nghe của mỗi người khác nhau.
Nhạc Trúc Phương thường sáng tác thường dùng nốt giáng (Bémol), ít dùng nốt thăng (Dièse) nên đàn Mandoline rất khó, và hình như những nốt nhạc Giáng là định mệnh của cuộc đời anh, nghĩa là không có lên mà chỉ có xuống. Vì thế nên nhạc anh, anh viết chỉ có CHIỀU và ĐÊM, mà không có NGÀY?
Cho nên cuộc đời nhạc sĩ Trúc Phương giống như những nốt Bémol mà không có Dièse. Điểm lại nhạc anh, như tìm một lời giải, nhưng khó mà giải được: Vì tại sao nhạc anh viết về CHIỀU và ĐÊM mà không có NGÀY?
Nhạc sĩ Trúc Phương sống ở tỉnh Bình Tuy khá lâu, anh đã mê vùng đất này, nên anh đã viết một nhạc phẩm được gọi là tuyệt tác: “Đường về Bình Tuy” và một số bài Boléro nổi tiếng khác. Bình Tuy một tỉnh sinh sau, đẻ muộn, một vùng đất rất nhỏ, được tách ra từ quận Hàm Tân của tỉnh Bình Thuận để thành lập Tỉnh Bình Tuy từ năm 1957. Người Tỉnh Trưởng đầu tiên là một “đứa con cưng của Ngô Đình Diệm”: Trung tá Lê Văn Bường. Phải công nhận rằng, ông Bường đã để lại một kỷ niệm là “Đập Dá dựng” và một khu dinh điền ở quận Tánh Linh-Hoài Đức thuộc tỉnh Bình Tuy. Khi nghe “Đường về Bình Tuy”, chính ông quan đầu tỉnh này cũng phải gật đầu khen hay và coi Trúc Phương như một đứa con sinh ra ở Bình Tuy! Dân chúng Bình Tuy lúc này cũng hãnh diện vì bài hát “Đường về Bình Tuy” như một thông điệp của một vùng đất đầy nắng gió, một bên là rừng, một bên là biển. Bình Tuy là vùng đất của những người con tứ xứ, kể cả người Thượng chọn vùng đất này để lập nghiệp. Trong câu kết của “Đường về Bình Tuy”, có một câu làm mát lòng người Thượng: “… Có những cánh tay Thượng Kinh nhặt hoa mầu đẹp đời người mai sau…”.
Nhạc Trúc Phương tôi không thiếu, nhưng tại sao tôi không có nhạc phẩm “Đêm Việt Nam” của Trúc Phương do anh xuất bản từ tháng 6.1967? Bìa sau bài hát này có in Logo của Trúc Phương và anh cũng đã giới thiệu THY-LIỄU-DUNG (**). Và bài hát này không có ai hát, kể cả Thanh Túy? (Tôi mượn “Đêm Việt Nam “ của người bạn).
Và TY-LIỄU-DUNG là ai, mà Nhạc sĩ Trúc Phương giới thiệu rất trang trọng:
“… Tiếng hát còn thơm mùi giấy học trò… Trong tương lai THY-LIỄU-DUNG sẽ lần lượt đến với quý bạn bằng tiếng hát nhẹ nhàng, da diết… Bằng dáng người nhỏ bé tuổi mười lăm-tuổi chưa tròn mộng-và bằng giọng nói miền cố thổ Thăng Long…”.
Và “Đêm Việt Nam”, Trúc Phương viết nhịp 2/4 trong Andante Gamme Đô Thứ, qua những móc đơn, móc đôi:
“… Máu đã thành người (ờ) đầu lời xin nói, hai mươi tuổi ngoài (ờ) lửa khói còn dài/ Mẹ già nua mắt nhòa tương lai, hơn bốn ngàn năm ngồi chép sử để đời/ Nay chợt buồn, buồn như chưa từng buồn/ Tay ôm mặt, tay vuốt mắt ma/ Máu của con ta cao ngất khỏi ngọn cờ/ Con vì ta, đau lòng ta/”…
“Đêm Việt nam” dù được hát hay không được hát bất cứ lý do nào, tôi xin bổ túc trong danh sách “Những bài hát của Trúc Phương đi qua tôi trong chiến tranh”:
-Tình thắm duyên quê, -Tình thương mái lá, -Buồn trong kỷ niệm, -Hai chuyến tàu đêm, -Nửa đêm ngoài phố, -Mưa nửa đêm, -Chiều cuối tuần, -Chuyện ngày xưa/ -Bình bóng cũ/ -Bông cỏ may, -Mắt em buồn, -Lay lất buồn xưa, -Những lời này cho em, -Chín dòng sông hò hẹn, -Chiều làng em, -Đò chiều, -Hai lối mộng, -Trả nhau ngày tháng cũ, -Mắt chân dung để lại, -Ai cho tôi tình yêu, -24 giờ phép/ -Bóng nhỏ đường chiều, -Thói đời, -Chuyện chúng mình, -Đêm gác trọ, -Tàu đêm năm cũ, -Đường về Bình Tuy, -Đêm Việt Nam…
Một nhạc phẩm cuối cùng của anh: -Xin cảm ơn.
-Nhạc sĩ Trúc Phương tên Nguyễn Thiện Lộc
-Sinh 1933
-Nơi sinh Mỹ Hòa, Cầu Ngang, Trà Vinh
-Qua đời 1995 tại Saigon.
-Sáng tác: 70 nhạc phẩm
-Nhạc phẩm tiêu biểu: Nửa đêm ngoài phố, Mưa nửa đêm, Hai chuyến tàu đêm, Tàu đêm năm cũ.
Xin đốt cho anh một nén nhang, để tưởng nhớ tác giả “Đường về Bình Tuy”, viết về quê hương tôi trong những ngày chiến tranh. Xin cảm ơn anh đã để lại những bài hát về ĐÊM nghe lại cảm thấy buồn… đến rã rời!


TRẦN HỮU NGƯ
(Những ngày cuối năm 2021, nhớ Bình Tuy)
(*) Ảnh vợ chồng nhạc sĩ Trúc Phương
(**) Ảnh Thy-Liễu-Dung và Logo nhạc sĩ Trúc Phương (đăng bìa sau bản nhạc Đêm Việt Nam.

Thứ Ba, 11 tháng 6, 2024

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH :THỪA,THƯỚC,THƯƠNG


 


THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 111 : 

                       THỪA, THƯỚC, THƯƠNG.


                                                                Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
                            Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên CỞI RỒNG.

      CỞI RỒNG chữ nho là THỪA LONG 乘龍 có xuất xứ từ thành ngữ THỪA LONG KHOÁI TẾ 乘龍快婿 chỉ có được chàng rể qúy hay có chồng qúy, theo tích sau đây :

      Theo Sách Liệt Tiên Truyện-Quyển thượng 列仙傳·卷上 : Thời Xuân Thu Chiến quốc, Tần Mục Công có cô con gái yêu là Lộng Ngọc 弄玉, thích âm nhạc, nhất là thổi tiêu. Một hôm nằm mộng thấy một thanh niên anh tuấn thổi tiêu rất giỏi. Tỉnh ra mới kể với Tần Mục Công, Công bèn cho người đi tìm thanh niên trong mơ của con gái. Tìm đến Minh Tinh Nhai dưới núi Hoa Sơn, quả nhiên gặp được một chàng trai tuấn tú, tiên phong đạo cốt, tên là Tiêu Sử 蕭史. Sứ giả mời về cung và được Tần Mục Công gả Công chúa Lộng Ngọc cho, lại cất cho một tòa lâu đài để vợ chồng cùng luyện tập thổi tiêu trên đó. Một đêm, vợ chồng đang thổi tiêu dưới ánh trăng, tiếng tiêu réo rắc đã làm cho một con Xích Long 赤龍 (Rồng màu đỏ) và một con Tử Phụng 紫鳳 (Phượng màu tím) bay đến. Vợ chồng cùng cởi xích long và tử phụng bay đi. Tần Mục Công cho người đuổi theo đến giữa núi Hoa Sơn thì mất dạng. Bèn cho lập miếu thờ ở Minh Tinh Nhai dưới chân núi Hoa Sơn mãi cho đến hiện nay.

        Tích trên đưa đến thành ngữ THỪA LONG KHOÁI TẾ 乘龍快婿 và THỪA LONG KHÓA PHỤNG 乘龍跨鳳 là Cởi Rồng Cởi Phụng, chỉ vợ chồng cùng lên tiên hay vợ chồng cùng xứng đôi với nhau. Trong Đại "Nam Quốc Sử Diễn Ca" của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái có câu :

                       Gần xa nức tiếng cung trang,
                 THỪA LONG ai kẻ Đông sàng sánh vai ?

     Còn khi Từ Hải chuộc Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh, cụ Nguyễn Du đã hạ câu :

                            Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
                 Phỉ nguyền SÁNH PHƯỢNG đẹp duyên CỞI RỒNG.


      THỪA CƠ 乘機 là Nhân cái cơ hội nào đó; là Sẵn dịp may nào đó... Như khi dấy binh khởi nghĩa, Từ Hải đã lập nên "Triều đình riêng một góc trời, gồm hai văn võ vạch đôi sơn hà" vì đã biết lợi dụng :

                      THỪA CƠ trúc chẻ ngói tan,
                  Binh uy từ ấy sấm vang trong ngoài.

      Còn khi gạt gẫm để dẫn dụ Thúy Kiều rơi vào bẫy của mình, Sở Khanh cũng đã lý luận với Thúy Kiều là :

                        THỪA CƠ lẻn bước ra đi,
                 Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn ?! 

      Muốn cứu vớt người đẹp mà không dám quang minh chính đại bỏ tiền ra để chuộc thân cho nàng mà lại rủ người ta lén bỏ trốn. Qủa là thủ đoạn của một gả Sở khanh có khác !

      THỪA HOAN 乘歡 là Nhân niềm vui, hay Nhân lúc đang vui vẻ... Như khi được Đường Minh Hoàng yêu mến, Dương Qúy Phi đã hết lòng hầu hạ nhà vua không mệt mỏi :

                    乘歡侍宴無閒暇  THỪA HOAN thị yến vô nhàn hạ,                  
Có nghĩa :
        - Sẵn niềm vui khi được vua yêu mà hầu hạ nhà vua hết yến tiệc nầy đến yến tiệc khác không có thời gian mào rảnh rổi cả...

      Trong truyện thơ Nôm khuyết danh bằng Thất ngôn Bát cú "Lâm Tuyền Kỳ Ngộ" (Bạch Viên Tôn Các) của ta có câu :

                         Một thơ giai lão lên lời chúc,
                         Một chữ THỪA HOAN mượn chén khuyên.



      THƯỚC KIỀU 鵲橋 : THƯỚC là tên chim có mầu đen, nên còn gọi là Ô Thước 烏鵲 mà ta hay dịch là Qụa Đen. Thực ra THƯỚC là con Chim Khách. Theo tích xưa khi nghe chim khách kêu là báo hiệu nhà sắp có khách phương xa đến hay là có người đi xa sắp trở về. Nên còn gọi là Khách Thước 客鵲 là Chim Khách. Còn theo thần thoại dân gian trong truyện Ngưu Lang Chức Nữ thì THƯỚC là con chim bắt cầu mỗi năm vào đêm mùng bảy tháng bảy Âm lịch cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau, nên còn gọi là HỈ THƯỚC 喜鵲 là con chim Thước mang tin Vui đến. Còn...
      KIỀU là Cầu, nên THƯỚC KIỀU là Cầu Ô Thước, cây cầu bắt qua sông Ngân Hà cho Ngưu Lang và Chức Nữ hội ngộ nhau trong đêm Thất Tịch. Sau dùng rộng ra cũng để chỉ vợ chồng lâu ngày hội ngộ nhau hoặc trai gái được nên duyên chồng vợ với nhau, như trong truyện thơ Nôm "Từ Thức Gặp Tiên" có câu :

                            Ba sinh phận đẹp cưỡi rồng,
                 THƯỚC KIỀU sẵn dịp, loan phòng sẵn duyên.

      THƯỚC KIỀU còn được gọi là CẦU Ô, như trong truyện thơ Nôm Phạm Tải -Ngọc Hoa (Phạm Công Cúc Hoa) có câu :

                        Đưa thơ tính đã nhiều lần,
                 CẦU Ô rắp bắt sông Ngân cùng nàng.

    ...hay còn gọi là CẦU THƯỚC như trong truyện Lâm Tuyền Kỳ Ngộ :

                   CẦU THƯỚC phen nầy thênh dịp bước,
                   Tấc gang riêng giữ nghĩa chung tình.



                    Cầu Ô THƯỚC theo truyền thuyết  và  cầu Ô THƯỚC hiện nay ở Tô Châu
        
       THƯƠNG CẨU 蒼狗 : THƯƠNG 蒼 có bộ THẢO 艹 trên đầu, nên là Màu xanh của cây cỏ. THƯƠNG CẨU là con chó màu xanh, có xuất xứ từ hai câu thơ trong bài Khả Thán Thi 可嘆詩 của Thi Thánh Đỗ Phủ :

                Thiên thượng phù vân như bạch y,   天上浮雲如白衣,
                Tư tu cải biến như thương cẩu .       斯須改變如蒼狗。
Có nghĩa :
                      Mây nổi trên trời như áo trắng,
                      Phút giây chợt tựa chó xanh lơ.

    ... để chỉ sự biến đổi mau lẹ và vô chừng của mọi sự việc trên đời nầy, như trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Trinh Thử" nàng chuột bạch đã kể lể về thân phận của mình như sau :

                          Thiếp nay ở mé đông lân,
               Vì cơ THƯƠNG CẨU lang quân tếch ngàn.
 
       Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều thì gọi là VÂN CẨU 雲狗 khi nàng cung phi thất sủng lý luận về cuộc đời :

                                 Lò cừ nung nấu sự đời,
                     Bức tranh VÂN CẨU vẽ người tang thương.


          
          TANG THƯƠNG hay THƯƠNG TANG hay THƯƠNG HẢI 滄海 là Biển(Bể) Xanh, đều là nói gọn lại của thành ngữ THƯƠNG HẢI TANG ĐIỀN 滄海桑田 chỉ cuộc đời biến đổi vô chừng ra ngoài sự ước đoán và suy nghĩ của con người. Thành ngữ nầy có xuất xứ như sau :

       Theo Thái Bình Quảng Ký 太平廣記, quyển 60 Thần Tiên Truyện 神仙傳 của Cát Hồng 葛洪 đời Tấn : Vào đời Hán Hiếu Hoàn Đế có hai tiên nhân, một người là Vương Viễn, tự là Phương Bình; một người là Ma Cô Tiên cô. Có một bận, Vương Phương Bình giáng lâm nhà bạn là Thái Kinh với một đoàn tuỳ tùng tiền hô hậu ủng thật rình rang và ngồi trên tiên xa do năm con rồng kéo đến. Nhưng khi vừa giáng xuống sân nhà thì tất cả tùy tùng đều biến mất, chỉ thấy Vương Viễn uy phong lẫm liệt như một vị tướng quân. Sau khi ra mắt người nhà Thái Kinh, Vương bèn ngẩn đầu lên không trung đưa tay ngoắt ra dấu cho người đi mời Ma Cô Tiên. Một lát sau, sứ giả từ không trung báo xuống : " Ma Cô Tiên Cô bảo rằng đã hơn năm trăm năm chưa gặp được tiên sinh, nhưng vì bận phải đi tuần du tiên đảo Bồng Lai, sẽ đến trong chốc lát". Vương khẻ gật đầu. Ngồi đợi trong giây lát, bỗng  nghe trên không trung tiếng nhạc vang lừng, Ma Cô từ không trung giáng xuống với y trang rực rỡ, tóc mây buông dài trông như cô gái mười tám đôi mươi của thế gian. Sau khi cùng nhau hành lễ, Vương cho người nhà bày tiệc khoản đãi. Chỉ thấy toàn là các loại cây trái qua qủa được bưng lên trong các mâm chậu thật đẹp, mùi hương của trái cây ngào ngạt khắp phòng.

     Trong buổi tiệc, Ma Cô nói với Vương Viễn rằng :"Kể từ ngày đắc đạo và nhận lấy thiên mệnh tuần tra đến nay, cũng đã ba lần thấy Đông hải biến thành ruộng dâu. Mới vừa đây, khi tuần tra đảo Bồng Lai, thấy nước biển ở đây đã cạn đi một nửa, chắc biển lại muốn biến thành đất liền nữa rồi !". 

      Vương Phương Bình Thở dài mà rằng :"Đúng vậy, các thánh nhân đều bảo, nước biển đang cạn dần, chắc không bao lâu nữa nơi ấy sẽ là nơi đầy rẫy cả bụi hồng trần !". Tiệc tan trong một ngày, nhưng ở thế gian đã là cả ngàn năm rồi, mới hay, không gian khác nhau thì thời gian cũng sẽ khác nhau. Trong mắt thần tiên chỉ một thoáng, nhưng ở thế gian thì bãi bể đã hoá nương dâu rồi .


 
     Điển tích TANG ĐIỀN THƯƠNG HẢI thường được nói gọn lại thành TANG THƯƠNG như trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu :

                      Phong trần đến cả sơn khê,
               TANG THƯƠNG đến cả hoa kia cỏ này.

    ...hay lấy chữ đầu và chữ cuối mà nói thành TANG HẢI, như trong Truyện Từ Thức gặp Tiên :

                        Nguồn cơn biết ngỏ ai hay,
                Giận cơ TANG HẢI trách ngày thiếu niên.
            
     ...lắm lúc lại chỉ sử dụng một vế THƯƠNG HẢI mà thôi, như trong truyện Lưu Nữ Tướng :

                            Kìa đâu ngàn Sở bãi Tần,
                 Tưởng cơ THƯƠNG HẢI xoay vần kíp sao !

       Thương Hải Tang Điền còn được dịch thẳng ra tiếng Nôm là BÃI BỂ NƯƠNG DÂU, cũng trong Cung Oán của Nguyễn Gia Thiều :

                    Khóc vì nỗi thiết tha sự thế,
                    Ai bày trò BÃI BỂ NƯƠNG DÂU ? 
      
       Còn trong Truyện Kiều thì cụ Nguyễn Du đã mở đầu bằng những câu :

                    Trăm năm trong cõi người ta,
                Chữ TÀI chữ MỆNH khéo là ghét nhau.
                    Trải qua một cuộc BỂ DÂU,
                Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

và cụ đã đão ngược lại thành DÂU BỂ, khi cho Thúy Vân hỏi Kiều một cách thật vô tư đến ... đáng trách là :

                       Cơ trời DÂU BỂ đa đoan,
                Một nhà để chị riêng oan một mình.
                      Cớ sao ngồi nhẫn tàn canh,
                Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây ?!


    Trong văn chương cận đại đã ít sử dụng điển tích văn học, nhưng  khi đọc đến bài thơ Sông Lấp của ông tú Vị Xuyên Trần Tế Xương, nghe như có cái gì đó nghèn nghẹn cho sự TANG THƯƠNG BIẾN ĐỔI khi dòng sông Vị Hoàng của quê ông bị lấp, ông đã làm bài thơ với đầy vẻ ưu thời mẫn thế như sau :

                   Sông kia rày đã nên đồng
               Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
                   Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
               Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò !
                                                                      TTX.



      Hẹn bài viết tới !

                                                                  杜紹德
                                                          ĐỖ CHIÊU ĐỨC



Thứ Hai, 10 tháng 6, 2024

ALBUM TÔN NỮ VÔ NAM - NHỮNG CA KHÚC PHỔ THƠ HUỲNH TÂM HOÀI






THƠ HUỲNH TÂM HOÀI
NHẠC NGUYỄN HỮU TÂN, HUỲNH MAI HOA,KIÊN THANH, NGUYỄN HỮU TÂN
& PHIÊU BỒNG
CA SỸ PHÚC DUY,THANH HOA,THUÝ HUYỀN,KIM KHÁNH,ĐÔNG NGUYỄN,BẢO NGUYÊN,ĐĂNG HIẾU,MINH ĐẠT,HỒNG NHẬT MINH,TÂM THƯ,THÁI HOÀ
THIẾT KẾ CD PHÚC DUY.



Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2024

KHI RỜI BOSTON - THƠ NGUYỄN AN BÌNH

 




KHI RỜI BOSTON


Đêm còn ở lại Boston

Ta đi quanh mấy con đường lá rơi

Mưa khuya làm buốt lòng người

Gió từ biển rộng hát lời hải âu.

Đại Tây Dương sóng rì rào

Ngồi trên bến cảng nơi nào quê hương

Bửa ăn cuối khi lên đường

Chìm trong tĩnh lặng nỗi buồn quạnh hiu.

Rồi trong nắng sớm mưa chiều

Con đường gởi lại ít nhiều dấu chân

Đời vui đếm được mấy lần

Bàn tay vẫy biệt ngại ngần trông theo.


NGUYỄN AN BÌNH


Thứ Bảy, 8 tháng 6, 2024

CÒN ĐÓ NGẬM NGÙI. - THƠ THY LỆ TRANG,NHẠC ĐOÀN DỰ







CÒN ĐÓ NGẬM NGÙI
THƠ THY LỆ TRANG
NHẠC ĐOÀN DỰ
TRÌNH BÀY NGỌC THANH
HOÀ ÂM LÝ DŨNG & HOÀNG HẢI
VIDEOCLIP HUỲNH TÂM HOÀI


Thứ Sáu, 7 tháng 6, 2024

CA KHÚC MÙA HÈ. - TRẦN HỮU NGƯ

 



KHÚC CA MÙA HÈ
Có rất nhiều ca khúc viết về mùa hè, một số bài hát hè đi qua một lần rồi trở thành bài hát của dĩ vãng và cũng có không ít ca khúc hè thân quen đã trở thành kỷ niệm mỗi khi hè đến khó quên.
Những ca khúc hè đã từng đi qua chúng ta một thời chiến tranh như: Mùa Hạ hồng (Phạm Duy), Kỷ niệm nào buồn (Hoài An), Mùa chia tay (Duy Khánh), Hè về (Hùng Lân) v.v… Nhưng có một bài hát rất đổi thân quen mà ngày xưa đám học trò mỗi năm đến Hè là hát vang trời, bài hát không thể thiếu của một thời cắp sách đến trường: Nỗi buồn hoa phượng.
Nhạc phẩm “Nỗi buồn hoa phượng” không phải của một mình nhạc sĩ Thanh Sơn, mà có cả nhạc sĩ Lê Dinh viết lời. Nhưng người nghe thật vô tình dẫn đến bất công, là chỉ biết Thanh Sơn mà thôi. Tại sao? Thật khó đi tìm nguồn gốc lý do của vấn đề này. Cho nên mỗi lần nhắc đến “Nỗi buồn hoa phượng” người ta nghĩ ngay đến Thanh Sơn và ngược lại!
Mùa Hè, tùy theo phong tục tập quán nghỉ hè của mỗi quốc gia. Riêng ở Việt Nam thì mùa hè thường dành để nói đến những người còn cắp sách đến trường. Học sinh mỗi năm trông đến hè. Ngồi trong lớp, nhìn qua cửa sổ thấy phượng nở hoa là biết hè về.
Mùa hè đã là mùa nóng bức, mưa bão, mùa của oi ả, hầm hập nóng đổ mồ hôi, mùa của những cơn mưa bất lình thình, bầu trời xám xịt những đụn mây đến rồi đi, mùa nóng làm vạn vật như ngừng thở, cỏ cây hoa lá úa màu… Nhưng mùa hè lại đem đến cho văn-nghệ-sĩ những cảm xúc để viết nên những tác phẩm khó quên, không phải chỉ trong lĩnh vực ca khúc mà còn có hội họa, thơ văn…
Có một bài hát viết về Hè lâu lắm. Nhạc phẩm này có tên là “Khúc ca mùa Hè” của nhạc sĩ Canh Thân. Một chút về lý lịch trích ngang của ông.
Canh Thân, là một nhạc sĩ tiền chiến, sinh năm 1920 tại Hải Phòng, mất năm 1970 tại Sài Gòn. Ông viết chừng 50 ca khúc. Trong số này có một nhạc phẩm nổi tiếng từ lúc mới ra đời năm 1947: Cô hàng Cà phê. Đây là một bài hát nói theo cách nói lúc ấy là bài “hit”, nhưng không biết tại làm sao bài hát này được hát vang trong thời kháng chiến, nhưng đến đình chiến 1954 thì không ai hát nữa?
“… Ở chợ Dầu có hàng cà phê
Có một cô nàng bé bé xinh xinh
Cô hay cười hồn xuân phơi phới
Cứ xem dáng người mới chừng đôi mươi
Làn thu ba cô liếc nghiêng thành
Mùi hương lan thơm ngát vương bên mình
Làm say mê bao gã thiếu niên đa tình
Mấy anh nho nhỏ thường hay đến ngồi cười với cô…”.
Nhắc một chút để thấy rằng nhạc sĩ Canh Thân là để biết ông là một nhạc sĩ tiền chiến “có nghề” vì chỉ từ lúc nền âm nhạc Việt Nam phôi thai từ năm 1938, mãi đến năm 1947, một thời khá dài, ông viết “Cô hàng Cà phê”, một bài hát đậm đà bản sắc dân tộc. (Thế mới biết sáng tác một bài hát không dễ, có đôi khi suốt cuộc đời, nhạc sĩ có viết được… một bài!).
Tiếp theo ông viết “Khúc ca mùa Hè”, một bài hát nổi tiếng của những năm trong chiến tranh, không riêng gì học sinh mà tất cả tất cả những ai quan tâm đến mùa Hè đều hát được. Tiếc rằng, “Khúc ca mùa Hè” là ca khúc quá hay, nhiều người biết, nhiều người thuộc, nhưng không biết vì lý do gì mà nó mất tích từ dạo “chiến tranh vừa kết thúc”.
Tôi xin là một công việc là nhắc nhớ lại một ca khúc Hè mà trong đó “Khúc ca mùa Hè” đã từng đi qua bao thế hệ học sinh:
“… Về đây ta lắng nghe muôn cung đàn
Đường tơ tha thiết vương hương nồng nàn
Về đây nghe bao câu hát du dương mơ màng
Và về đây tắm ánh sáng trăng huy hoàng
Khúc ca mùa hè
Lắng trong chiều về
Vang trong đêm êm đềm thánh thoát
Ngân nga tiếng ai ca
Khúc ca mùa hè
Gió xa dồn về
Lướt, lướt qua bên hè
Nghe như ru như gợi tình thơ
Nghe như thấy lâng lâng bừng một trời mơ
Những cánh bướm khoe màu thắm
Bay lao xao trong ngàn hoa
Lữ khách đứng thẩn thờ ngắm
Cuộc đời vui tươi như nơi thiên đàng
Nhịp đàn hòa theo khúc ca mùa Hè/…
Ta lắng lắng nghe
Nhạc đón yêu thương về
Một mùa đầy hoa ngát hương…”.
Nghe lại trong những âm thanh rộn ràng, những tiếng ca đầy sắc màu trong Ban hợp ca Văn Phụng tấu lên khúc hát “Khúc ca mùa Hè” ta thấy bài hát được viết từ một thời rất xưa, nhưng lời ca tiếng nhạc nghe rất gần, gần như mỗi năm chúng ta có một một mùa Hè.
“Khúc ca mùa Hè” phải được nằm trong danh sách những ca khúc hè đẹp nhất Việt Nam.
TRẦN HỮU NGƯ