Thứ Ba, 31 tháng 12, 2024
NĂM MỚI - THƠ CHU TRẦM NGUYÊN MINH-Nhạc: PHAN NI TẤN
Chủ Nhật, 29 tháng 12, 2024
TÊN ĐƯỜNG TÊN CÂY - PHẠM CÔNG LUẬN
Thứ Bảy, 28 tháng 12, 2024
ÚT DIỄM - TỪ KẾ TƯỜNG
Thứ Sáu, 27 tháng 12, 2024
DÂNG HIẾN - THƠ KHÊ KINH KHA
DÂNG HIẾN
em yêu,
Nếu một ngày nào đó giấc mơ của anh và em là một
Anh sẽ bước đi bên em khi mặt trời lặn ở cuối chân trời
và ngắm nhìn những tia nắng muôn màu
trên đôi môi hồng của em mà anh mơ mộng mỗi đêm
Nếu một ngày nào đó anh có thể nắm bàn tay mềm mại và ấm áp của em
Anh sẽ đứng bên em vào một ngày đầy gió
để những giấc mơ yêu thương của anh quấn lấy mái tóc mượt mà của em
trên đôi vai em và cả trong tâm hồn anh
Nếu một ngày nào đó đời anh gắn liền đời em
Anh sẽ ngồi và nắm lấy bàn tay cánh sen của em
để tình yêu ấm áp của đôi ta quyện vào nhau
và cả đời anh ấm áp chìm đắm trong tình yêu em cả trăm ngàn năm
Nếu một ngày nào đó đôi ta chung bước trên đường đời
Anh sẽ vòng tay ôm em, dìu em qua trăm năm
anh sẽ sống những khoảnh khắc hân hoan nồng cháy
trong đam mê với tháng ngày đầy hương tình em
Nếu một ngày nào đó cuộc sống đôi ta là một
anh sẽ mãi nồng nàn hôn đôi môi ngọt lịm của em
ôi nụ hôn dài hơn hơi thở của chúng ta
mà đôi ta khao khát trong tim bao tháng năm
Nếu một ngày nào đó em ngự giữa đời anh
hoa hạnh phúc sẽ nở khắp vườn đời anh
ôi khao khát một cuộc sống viên mãn
Dù có chết, anh vẫn hân hoan dâng hiến
bởi đời này anh đã trao tất cả cho em
bởi đời này anh dâng hiền trọn cho cưng
KHÊ KINH KHA
TA NGOẢNH LẠI , NẾU MAI NÀY - THƠ MẶC PHƯƠNG TỬ
Thứ Tư, 25 tháng 12, 2024
TIẾNG CHUÔNG THIÊN MỤ - NGUYỄN THỊ HẢI HÀ
TIẾNG CHUÔNG THIÊN MỤ
Dù bạn chưa từng đến Huế, nhưng hẳn đã từng nghe tiếng địa danh này qua hai câu hò quen thuộc:
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
Tiếng chuông Thiên Mụ được gióng lên từ cái đại hồng chung đúc bằng đồng vào năm 1710 của chúa Nguyễn Phúc Chu (1675–1725) tặng cho chùa. Chuông nặng gần 2000 kg, cao hai mét rưỡi, và được công nhận là bảo vật của quốc gia từ năm 2013. Thật ra chùa Thiên Mụ có đến hai cái đại hồng chung. Cái thứ nhì nhỏ hơn, nặng 400kg được vua Gia Long tặng.
Chùa Thiên Mụ được chúa Nguyễn Hoàng (1525– 1613) cho lệnh xây cất từ năm 1601. Vua Tự Đức (1828-1883) có rất nhiều vợ nhưng không con nối dõi. Năm 1862 đang lúc cầu tự, e ngại chữ thiên (nghĩa là trời) chạm đến các bậc thiêng liêng, vua cho đổi tên chùa thành Linh Mụ.
Lần đầu tiên có tiếng chuông Thiên Mụ chắc là phải sau năm 1710. Không biết câu hò “tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương” được ai viết ra và từ bao giờ, nhưng rất có thể, vị vua đầu tiên nhắc đến tiếng chuông Thiên Mụ là vua Thiệu Trị; bởi vì bài thơ “Thiên Mụ Chung Thanh” của vua Thiệu Trị được khắc trên bia đá và bia này được dựng lên từ năm 1846 hiện nay vẫn còn ở trong khuôn viên chùa.
Bài thơ Tiếng Chuông Thiên Mụ trên Wikipedia tiếng Việt có những câu như sau:
[…]
Bách bát hồng thanh tiêu bách kết
Tam thiên thế giới tỉnh tam duyên
Tăng hoằng ngọ nhật u minh cảm
Liêu lượng dần tiêu đạo vị huyền
[…]
Dịch là:
[…]
Tiếng ngân trăm tám tan trăm oán
Thế giới ba ngàn giải nợ ba
Chuông động giữa trưa miền tối ám
Kinh gieo canh sớm đạo tăng gia
[…]
Dựa vào bài thơ của vua Thiệu Trị, chuông được gióng lên 108 tiếng vào giữa trưa để giải tỏa 108 tội lỗi của con người. Tôi đến xem chùa Thiên Mụ và tháp Phước Duyên, ở không đủ lâu, hoặc là không đủ duyên lành, không được nghe hồi chuông gióng giả.
Chùa Thiên Mụ tọa lạc trên ngọn đồi cao tên Hà Khê. Tương truyền, sau khi cha của chúa Nguyễn Hoàng là Nguyễn Kim bị quan nhà Trịnh dùng thuốc độc ám hại và anh ruột (Nguyễn Uông) bị Trịnh Kiểm giết chết, chúa Nguyễn biết là chúa Trịnh sẽ không để ông yên nên vấn kế Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm xin tìm cách giúp thoát thân. Ông được Trạng Trình tặng cho câu sấm “Hoành Sơn nhất đới, vạn đại dung thân” có nghĩa là một dãy núi nằm ngang có thể làm chỗ nương thân muôn đời. Nguyễn Hoàng dẫn quân lấy cớ đi đánh giặc vượt Hoành sơn vào Thuận Hóa rồi bắt đầu xây dựng cơ đồ. Khi đi ngang đồi Hà Khê bên cạnh dòng sông Hương uốn khúc, nhìn giống như con rồng đang ngoảnh đầu ra phía sau, phong cảnh vừa hữu tình vừa hợp phong thủy bèn chọn vùng đất này để xây thành dựng nước. Kinh đô Huế chỉ cách chùa Thiên Mụ chừng 5 km.
Năm 1844, vua Thiệu Trị cho xây tháp Phước Duyên để mừng lễ “bát thọ” của Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu (vợ vua Gia Long, bà nội vua Thiệu Trị). Tháp Phước Duyên có bảy tầng, cao 21 mét, được đặt trên khoảng sân rộng hình thang. Tương truyền mỗi tầng đều có tượng Phật, và đặt trên tầng cao nhất là tượng Phật bằng vàng nặng 12 kg. Ngày nay cửa vào tháp được khóa kín không biết bên trong có còn tượng Phật cổ nào hay không. Riêng tượng Phật bằng vàng tương truyền đã bị mất trộm vào tay một tên quan cầm quyền người Pháp.
Huế có nhiều chùa, nhiểu lăng tẩm không thua gì Kyoto của Nhật Bản. Nổi tiếng đẹp nhất Huế (và có lẽ nhất miền Nam lúc bấy giờ) là chùa Thiên Mụ. Chùa của vua xây, được nhiều vị vua đến tham quan, và đề thơ ca ngợi, không đẹp sao được. Ngoài tấm bia khắc bài thơ của Thiệu Trị, còn bia khắc bài văn của chúa Nguyễn Phúc Chu, và một bài thơ của vua Khải Định vẫn còn ở chùa Thiên Mụ. Sau Thiên Mụ, chúa Nguyễn Hoàng còn cho xây thêm bốn ngôi chùa nữa. Chúa dụng tâm dùng đạo Phật để trị an thiên hạ. Có lẽ không ngoa khi bảo rằng vào triều đại nhà Nguyễn, Huế là cái nôi phát triển Phật giáo.
Có chùa thì phải có chuông và trống. Đó là lễ nhạc của Phật giáo. Tiếng chuông chùa, đặc biệt là tiếng đại hồng chung, rất trầm ấm ngân nga, luôn gây cảm xúc trong lòng các nhà thơ từ xưa đến nay.
Tôi bỗng có cái cảm giác tôi đã từng gặp cảnh này ở đâu đó, vào một kiếp nào đó, rất xa xưa. Năm 2005 tôi đã từng đến nơi này. Một tấm ảnh cũ gần hai mươi năm trước có tôi tóc dài chấm ngang hông, bước dọc theo ven bờ sông Hương, bên trên là chùa Thiên Mụ. Nhưng cái cảm giác déjà vu không phải từ chuyến đi vội vã ấy. Lúc ấy tôi không kịp xem chùa và tháp đã phải vội vã xuống thuyền đi dọc sông Hương đến xem lăng của một vị vua nào đó. Cái cảm giác déjà vu này cũng giống như lúc tôi ngẩn ngơ đứng bên cạnh dòng kênh ở thành phố Uji của Nhật. Rồi tôi nhận ra cái cảm giác quen thuộc từ kiếp nào đó nằm trong mấy câu thơ.
Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền. (của Trương Kế)
Hình ảnh những chiếc thuyền rồng đưa khách trên sông Hương vào đêm trăng sáng với những câu hò mái đẩy và những bài ca Huế, cùng với tiếng chuông chùa lả lướt trên sông, quả là một hình ảnh đầy chất thơ dù tôi vẫn biết tiếng chuông Thiên Mụ được gióng lên vào buổi trưa chứ không phải nửa đêm như tiếng chuông chùa Hàn San ở bên ngoài thành Cô Tô.
Basho tự hỏi. Tiếng chuông chùa có hay không có thật.
The temple bell stops—
but the sound keeps coming
out of the flowers.
Tiếng chuông chùa đã ngừng
Nhưng âm thanh vang mãi
Từ trong những đóa hoa
Trong khi thơ của Basho có chút bâng khuâng giữa cái thật và ảo tưởng, người đọc không cảm thấy nỗi buồn tiếng chuông chùa gợi lên như trong bài hát Việt.
Chiều tàn đêm buông xuống
Tiếng chuông chùa vang não nùng
Đâu tiếng Mẹ ru con
Chìm lắng êm bên rèm thưa.[3]
Hoặc gợi nhớ nhung một mối tình không còn nữa.
Tên ai còn tha thiết
Trong tiếng chuông chiều đưa[4]
Trở lại với tiếng chuông Thiên Mụ, tôi không khỏi tự hỏi vì sao nhà thơ khuyết danh nào đó đã viết câu thơ “tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.” Câu thơ được dùng để đánh dấu thời gian, 108 tiếng chuông từ giữa ngọ ở chủa Thiên Mụ, và tiếng gà gáy sang canh ở làng Thọ Xương[5] ở bên kia sông?
Hay vì một lý do nào khác? Ai biết?
NGUYỄN THỊ HẢI HÀ
Ngày 26 tháng 11 năm 2024
[1] Nhạc Minh Kỳ, thơ Tôn Nữ Hỷ Khương
[2] Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu
[3] Dạ Tương Sầu –
[4] Vết Chim Bay – Phạm Thiên Thư
[5] Làng Long Thọ (còn gọi là Long Thọ Cương)
Thứ Ba, 24 tháng 12, 2024
MẮC NỢ - THƠ LÊ KIM THƯỢNG
MẮC NỢ 1 - 2
1.
Người đi mắc nợ…”Ngày Xưa”
Người đi mắc nợ nắng mưa… “Quê Nghèo”
Sông buồn tím ngắt cánh bèo
Lời ru xa vắng, gió reo, sóng tràn
Ngân Hà – Chức Nữ - Ngưu Lang
Quạt mo đổi chác, nghênh ngang Thằng Bờm
Được mùa lúa chín vàng ươm
Được mùa, canh cá, bát cơm tràn đầy
Cánh cò bay lạc tầng mây
Đàn trâu nhai cỏ, nằm đầy gốc me
Lành yên những buổi trưa hè
Sông dài in bóng lũy tre gió lồng
Hai sương, một nắng trên đồng
Dù cho mưa nắng vẫn không quản gì
Đất phèn theo bước Cha đi
Chân bùn, tay lấm không gì thở than
Ruộng đồng đâu quản gian nan
Đông về giá rét, chang chang nắng Hè
Tình quê ấm mái tranh che
Nép mình dưới bóng lũy tre xanh ngần…
2.
Trăm năm Con Tạo xoay vần
Một đời hạnh phúc cũng ngần ấy thôi
Thơ rơi chén đắng rượu mời
Gió trăng còn đó, cuộc chơi vội tàn
Đọt tre đọng bóng trăng ngàn
Rạ rơm, sương khói quyện tràn âu lo…
Bến sông vọng tiếng gọi đò
Để cho câu hát câu hò mênh mông
Còn tôi đứng với dòng sông
Nhìn câu thơ cũ lạc dòng lênh đênh
Chảy qua bao thác, bao ghềnh
Chỉ là trôi nổi bồng bềnh buông xuôi
Bãi sông của tuổi lên mười
Cho tôi ngụp lặn, nụ cười thân yêu…
Bóng quê… Bóng Mẹ xế chiều
Nhớ quê… Nhớ Mẹ, nhớ nhiều Mẹ ơi!
Con còn nỗi nhớ mù khơi
Mái tranh nghiêng cả một thời trở trăn
Chỉ là hoài niệm băn khoăn
Mắt xưa ghim vết dấu hằn chân chim…
Nha Trang, tháng 12. 2024