CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Chủ Nhật, 30 tháng 11, 2025

SAIGON ,MỘT KHÚC XUÂN - THƠ NGUYỄN AN BÌNH

 



SÀI GÒN, MỘT KHÚC XUÂN


Sài gòn mùa xuân điểm mấy nụ hoa vàng

Không cái rét đầu đông, không mưa phùn rả rích

Chỉ có nắng hồng xuyến xao in trên góc phố

Mùa sẽ đi qua tình nghĩa lại vun đầy.


Bản giao hưởng đất trời cho lá xanh cây

Khúc khích đùa vui tiếng cười rất trẻ

Anh nhìn em – Thấy bao điều mới mẻ

Dòng người tan tầm - Xuôi ngược ngược xuôi.


Ngày cuối năm chừng rất lạ em ơi

Ngọn đèn đường cũng trở nên ấm áp 

Tiếng chuông nhà thờ âm vang ngây ngất

Hàng me xanh bắt nhịp khúc tình ca.


Ăn tết Sài Gòn đâu chỉ có riêng ta

Ngời lên cả từng sắc hoa tấm áo

Màu áo xanh điệu đàng em bước dạo

Làm người dưng chưa kịp nói lời yêu.


Nét duyên ngầm khẻ nhắc nói hơi nhiều

Anh chỉ muốn gởi cho em chút nắng

Giấu tiếng cười sau làn môi trinh trắng

Để cuối ngày thành ngọn gió bay đi.



NGUYỄN AN BÌNH


Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2025

ĐÔNG LÀ HƯƠNG ĐÔNG -PHIẾM LUẬN CỦA ĐÕ CHIÊU ĐỨC



 

 Tạp Ghi và Phiếm Luận :      
                    ĐÔNG là HƯỚNG ĐÔNG
                                 
   
          ĐÔNG 東 là Hướng Đông, là Phương Đông, là Phía Đông, tức là hướng của Mặt trời mọc. Ngược với hướng TÂY là hướng của Mặt trời lặn. ĐÔNG là chữ viết được ghép bởi Hội Ý theo Tượng Hình, có diễn tiến chữ viết như sau :

                       Giáp Cốt Văn  Đại Triện  Tiểu Triện   Lệ Thư    Khải Thư

                         Ta thấy :
          Từ Giáp Cốt Văn đến Đại Triện Tiểu Triện, chữ ĐÔNG 東 là hình tượng của chữ MỘC 木 là Cây, ở giữa chữ MỘC có chữ NHẬT 日 là Mặt Trời, với HỘI Ý là "Nơi mà Mặt trời vừa mới mọc ở lưng chừng cây". Nên ĐÔNG là hướng của Mặt Trời Mọc là vì thế.  Dưới đây là hình ảnh minh họa diễn tiến Tượng Hình của chữ ĐÔNG 東 :

           
       Theo Âm dương Ngũ hành thì ĐÔNG PHƯƠNG Thiên can là Giáp Ất, thuộc Mộc chủ màu Xanh của cây cỏ, là mùa Xuân trong năm, mùa của hoa lá cỏ cây đâm chồi nẩy lộc bắt đầu cho một cuộc sống mới vươn lên. Nên Chúa Xuân còn được gọi là ĐÔNG QUÂN 東君 theo như ba xuất xứ sau đây :

         1. Theo sách Sử Ký, Phong Thiền Thư 史記•封禪書 của Tư Mã Thiên thì : ĐÔNG QUÂN là thần mặt trời ở hướng Đông, với hình tượng của một nam nhân mặt đỏ, tay cầm cung tên, áo xanh quần trắng. Nghĩa phát sinh trong văn học cổ thường dùng để chỉ nhà vua, như trong "Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca" của Lê Ngô Cát & Phạm Đình Toái có câu :
 
                    Chủ trương mừng thấy ĐÔNG QUÂN,
                   Thái bình cây cỏ được nhuần hơi mưa.

        2. Theo truyền thuyết dân gian cổ Trung Hoa thì ĐÔNG QUÂN là Chúa Xuân, như thơ của Vương Sơ 王初 đời Đường trong bài "Lập Xuân Hậu Tác 立春后作" là : 

                東君珂佩響珊珊,   Đông Quân kha bội hưởng san san,       
                青馭多時下九關。   Thanh ngự đa thì há cửu quan.          
                方信玉霄千万里,   Phương tín ngọc tiêu thiên vạn lý,         
                春風猶未到人間".   Xuân phong do vị đáo nhân gian.           
       Có nghĩa :
                    ĐÔNG QUÂN đeo ngọc bước đing -đang,
                    Cởi ngựa xuống trần qúa cửu quan,
                    Mới biết trời cao muôn vạn dặm,
                    Gió xuân chưa thổi đến nhân gian.

         Chúa Xuân cũng như là mùa Xuân đến với nhân gian một cách khoan thai nhàn nhã, đem lại sinh khí cho muôn loài muôn vật một cách chậm rãi nhưng chắc chắn với một sức sống mạnh mẽ mãnh liệt.



       Trong "Tứ Thời Khúc Vịnh" của một danh sĩ đời Mạc là Hoàng Sĩ Khải cũng có câu :

                      Đâu đâu chịu lệnh ĐÔNG QUÂN,
                  Cửu giao lừng lẫy đón xuân rước về !

        3. ĐÔNG QUÂN còn dùng để chỉ người đàn ông, người chồng trong gia đình ngày xưa với năm thê bảy thiếp, làm chủ trong nhà như Chúa Xuân mang đến ân huệ cho tất cả thê thiếp trong gia đình, như trong Hoa Tiên Ký của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện :

                          Vẻ chi một mảnh hồng quần,
                   Chúa hoa đành đã ĐÔNG QUÂN đây rồi !


                                      Đông Quân  và  Thanh Đế

        Nên ĐÔNG QUÂN là Chúa Xuân, là Vua, là người đàn ông đầy quyền lực trong gia đình, nên nếu không khéo xử sự thì sẽ rất dễ tạo nên những hờn oán cho các phi tần hay thê thiếp vì :

                       Muôn hồng nghìn tía đua tươi,
                  CHÚA XUÂN nhìn hái một hai bông gần !

      Rồi... để đến nỗi buông lời oán trách như nàng cung phi trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu :

                                ĐÔNG QUÂN sao khéo bất tình, 
                        Cành hoa tàn nguyệt bực mình hoài xuân..

      Sau ĐÔNG QUÂN 東君 ta có ĐÔNG CUNG 東宮, là Cung điện được xây dựng ở phía đông cung vua, là chỗ ở của Hoàng Thái Tử, người sẽ kế vị ngôi vua sau nầy, nên còn được gọi là ĐÔNG CUNG THÁI TỬ 東宮太子. Như trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái :

                           ĐÔNG CUNG đã lập Duy Tường,
                       Bỗng không lại đổi Duy Phường cớ sao ?

       ĐÔNG CUNG 東宮 còn chỉ chỗ ở của Hoàng Hậu là mẹ của Hoàng Thái Tử. Vào đời Hán, hoàng hậu ở cung Trường Lạc nằm ở phía đông của cung Vị Ương là cung của vua ở, nên Hoàng Hậu còn được gọi là ĐÔNG CUNG HOÀNH HẬU 東宮皇后, khác với Tây Cung là chỗ ở của Thứ Phi, Qúy Phi... Như trong truyện Nôm khuyết danh Phạm Tải Ngọc Hoa (dân gian thường gọi là Phạm Công Cúc Hoa) của ta :

                         Thương chồng chẳng quản xấu xa,
                   Phong làm hoàng hậu chính toà ĐÔNG CUNG.

       Còn ĐÔNG PHONG 東風 là "Gió từ Hướng Đông" chớ không phải là "Gió của Mùa Đông". Gió của hướng Đông là gió Xuân. Theo chương Nguyệt Lệnh trong sách Lễ Ký 礼记•月令 như sau : Mạnh xuân chi nguyệt, đông phong giải đống 孟春之月,東風解凍. Có nghĩa : Tháng giêng của mùa xuân, gió đông thổi tan băng giá. Nên hai câu thơ cuối trong bài "Đề Tích Sở Kiến Xứ 題昔所見處" (Còn có tựa là Đề Đô Thành Nam Trang 題都城南莊) là : 

                     人面不知何處去,   Nhân diện bất tri hà xứ khứ,           
                     桃花依舊笑東風.    Đào hoa y cựu tiếu ĐÔNG PHONG   
... còn được viết là : 
                     人面不知何處去,   Nhân diện bất tri hà xứ khứ,           
                     桃花依舊笑春風。   Đào hoa y cựu tiếu XUÂN PHONG   
 

                        
        Cụ Nguyễn Du đã mượn ý của hai câu thơ trên để tả lúc Kim Trọng trở lại Vườn Thúy tìm Thúy Kiều với hai câu lục bát rất hay là :

                            Trước sau nào thấy mặt người,
                      Hoa đào năm ngoái còn cười GÍO ĐÔNG.                  
                            
      GIÓ ĐÔNG ở đây chính là GIÓ XUÂN đó. Trong truyện Nôm "Hoa Tiên ký" của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện đã tả nàng Dương Dao Tiên với hai câu thật gợi cảm :

                           GIÓ ĐÔNG gờn gợn sóng tình,
                       Dưới hoa lộng lẫy một cành mẫu đơn.

       Còn trong Cung Oán Ngâm Khúc thì Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã mượn GÍO ĐÔNG để chỉ sự mơn trớn của nhà vua với nàng cung phi khi mới được yêu :

                           Cành xuân hoa chúm chím chào,
                        GÍO ĐÔNG thôi đã cợt đào ghẹo mai.

     ... và khi thất sủng, thì nàng cung phi cũng nhắm vào ĐÔNG PHONG mà trách móc một cách bóng gió :

                           Thù nhau ru hỡi ĐÔNG PHONG,
                        Góc vườn đãi nắng cầm bông hoa đào.

       Còn cụ Nguyễn Trãi trong Quốc Âm Thi Tập : "Đào Hoa Thi bài một" thì viết như sau :

                           Một đóa đào hoa khá tốt tươi,
                           Cách xuân mơn mởn thấy xuân cười.
                           ĐÔNG PHONG ắt có tình hay nữa,
                           Kín tịn mùi hương dễ động người. 

                              
             
           ĐÔNG PHONG còn là ngọn gió chướng của tháng 10 thổi từ hướng Đông đã giúp cho Đô Đốc Đông Ngô là Chu Du dùng thế hỏa công đốt tiêu và đánh tan 83 vạn quân của Tào Tháo trên dòng sông Xích Bích. Truyện kể...
          NĂm Kiến An thứ 15 thời Tam Quốc (210), sau khi chiến thắng Viên Thiệu, bình định phương bắc, Tào Tháo cho xây Đồng Tước Đài để ghi lại công tích của mình. Con thứ là Tào Thực làm bài ĐĂNG ĐÀI PHÚ 登臺賦 trong đó có 2 câu như sau :

                攬二橋于東南兮,   Lãm nhị kiều vu đông nam hề,
                樂朝夕之與共。     Lạc triêu tịch chi dữ cộng.
      Có nghĩa :
                 Hai cây cầu ôm ấp ở phía Đông nam... hề... 
                 Cùng nhau mà vui vầy sớm tối !

          Thì ra, Đền Đồng Tước gồm có ba tòa lầu cao, phía trên được nối bằng HAI CÂY CẦU (Nhị kiều 二橋) ôm ấp lấy 3 tòa lầu, để có thể tự do qua lại vui chơi sáng chiều gì cũng được ! Khổng Minh Gia Cát Lượng đã sửa NHỊ KIỀU 二橋 là 2 Cây Cầu thành NHỊ KIỀU 二喬 là 2 Nàng Kiều để làm kế khích tướng, kích Chu Du đánh Tào Tháo. Vì 2 Nàng Kiều nổi tiếng đẹp nhất Giang Nam lúc bấy giờ, thì Đại Kiều là vợ của Tôn Sách (Chúa Đông Ngô đã mất), còn Tiểu Kiều là vợ của Chu Du, Đô Đốc thống lĩnh tam quân của Đông Ngô. Nên hai câu phú trên khi được Khổng Minh sửa lại thì có nghĩa :"Ôm ấp hai nàng Kiều ở phía Đông nam... hề... để cùng vui vầy sớm tối!". Khiến cho Chu Du nổi trận lôi đình mà quyết tâm đánh quân Tào Tháo đến cùng. Khi "Vạn sự cụ bị, chỉ khiếm ĐÔNG PHONG 萬事俱備,祇欠東風" là kế hoạch dụng hỏa công đã chuẩn bị đâu ra đó xong xuôi cả rồi, chỉ còn thiếu có GIÓ ĐÔNG mà thôi, thì Khổng Minh xem thiên văn và hứa mượn cho Chu Du ba ngày gió Đông, khiến cho 83 vạn quân của Tào Tháo bị đốt xất bất xang bang và hơn một nửa đã vùi thây sau trận hỏa công dưới dòng sông Xích Bích, để cho mãi gần 500 năm sau, khi nhà thơ Đỗ Mục đời Đường đi ngang qua đây còn nương theo ý đó mà viết nên hai câu tuyệt cú rất hay là :
  
                        東風不與周郎便,   ĐÔNG PHONG bất dữ Chu Lang tiện,    
                        銅雀春深鎖二喬!   Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều!   
       Có nghĩa :
                  Nếu gió đông không là phương tiện giúp cho Chu Du thắng trận, thì...        
                  Đền Đồng Tước đã khóa xuân hai nàng Kiều mất rồi !

                               GÍO ĐÔNG chẳng giúp Chu Du thắng,
                               Đồng Tước khóa xuân cả nhị Kiều !

        Đến cụ Nguyễn Du của ta cũng mượn ý nầy để tả vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều Thúy Vân giống như là hai chị em của Đại Kiều và Tiểu Kiều  ở Giang Đông vậy :

                                 Trộm nghe thơm nức hương lân,
                            Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều.

                                     Nhị Kiều và Đô Đốc Chu Du  

        Còn trong "Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến" thì nhà thơ Jean Leiba (Lê Văn Bái) đã viết trong bài thơ   "Mai Rụng" như sau :
                                        
                     Yêu chàng, em cố chuốt hình dong
                     Tô cặp môi son, điểm má hồng,
                     Em thấy xuân nay hoa nở đẹp,
                     Cảm tình THANH ĐẾ, tạ ĐÔNG PHONG,

       Như trên đã trình bày, theo Dịch lý Âm dương Ngũ hành thì Đông phương là Giáp Ất thuộc Mộc, chủ màu Xanh, là biểu tượng của mùa Xuân, nên ĐÔNG QUÂN 東君 là Chúa Xuân còn được gọi là THANH ĐẾ 青帝 (Ông Vua của màu Xanh của hoa cỏ); và ĐÔNG CUNG 東宮 còn được gọi là "Thanh Cung 青宮" hay "Xuân Cung 春宮"(Cung của Thái Tử hay Hoàng Hậu ở). 

       Ngoài ĐÔNG PHONG là GIÓ ĐÔNG ra, ta còn có TƯỜNG ĐÔNG là bức tường ở mé đông giáp với nhà hàng xóm , do câu nói trong sách Mạnh Tử. Cáo Tử Hạ 孟子.告子下 là : Du đông gia tường nhi lâu kỳ xử tử 踰東家牆而摟其處子. Có nghĩa : Trèo qua bức tường  phía đông nhà hàng xóm mà ôm cô gái còn trong trắng. Ý nói là :  Chọc ghẹo cô gái hàng xóm, như trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du nói về chị em Thúy Kiều khi vừa đến tuổi câp kê là :

                         Êm đềm trướng rũ màn che,
                   TƯỜNG ĐÔNG ong bướm đi về mặc ai.

        Có nghĩa là : Chị em Thúy Kiều sống êm đềm trong "trướng rũ màn che", mặc cho đám thanh niên lối xóm có tỏ tình trêu ghẹo gì cũng mặc ! Nên TƯỜNG ĐÔNG, ĐÔNG GIA, ĐÔNG LÂN... đều dùng để chỉ Nhà  Hàng Xóm, hay Người Hàng Xóm như khi Thúy Kiều tảo mộ xong về lại nhà, cụ Nguyễn Du đã có những câu chuyển cảnh thật hay như sau đây :

                       Kiều từ trở gót trướng hoa,
                   Mặt trời gát núi chiêng đà thu không.
                       Gương nga chênh chếch vòm song,
                   Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân.
                       Hải đường lả ngọn ĐÔNG LÂN,
                   Hạt sương trĩu nặng cành xuân la đà....


                 
       Cũng J. Leiba Lê Văn Bái trong bài thơ "NĂM QUA" đã có vế thơ như sau :

                     Hôm qua em đến mái ĐÔNG LÂN,
                     Cô gái khâu thêu vẻ ngại ngần.
                     Tơ lụa bộn bề quần áo cưới,
                     Vội vàng cho khách kịp ngày xuân.
 ... Và  mỉa mai thay :
                               Duyên mình hờ hững hộ duyên ai,
                               Cô gái ĐÔNG LÂN dáng ngậm ngùi
                               Ngán nỗi năm năm đưa chỉ thắm,
                               Phòng không may áo cưới cho người!...
                             
        Đọc bốn câu thơ trên lại làm cho ta nhớ đến bài thơ "BẦN NỮ 貧女" của Tần Thao Ngọc 秦韜玉 đời Đường tả "Cô gái nghèo làm nghề thợ may" với hai câu kết là :

                        苦恨年年壓金線,   Khổ hận niên niên áp kim tuyến,
                        為他人作嫁衣裳。   Vị tha nhân tác giá y thường !
        Có nghĩa :
                        Khổ nổi năm năm đưa chỉ thắm,
                        Vì người may áo cưới cho người !

       Chỉ may áo cưới cho người, còn mình thì bao giờ mới mặc được áo 
cưới đây ?!


                                                Phòng không may áo cưới cho người!...

       Chữ ĐÔNG còn đưa ta đến với hai nhân vật trong văn học cổ Trung Hoa mà nhắc đến thì mọi người đều như "quen biết" vì có nghe nói qua cả , đó chính là :

       1. ĐÔNG PHA 東坡 : là Tô Thức (1037-1101), chính trị gia, văn thi sĩ đời Tống, tự là Tử Chiêm, hiệu là Đông Pha Cư Sĩ, nên người đời quen gọi là TÔ ĐÔNG PHA 蘇東坡. Ông nổi tiếng với nhiều bài Thi Từ Ca Phú, nhất là hai bài Tiền, Hậu Xích Bích Phú với các câu như : Quế trạo hề lan tương, kích không minh hề tố lưu quang, diễu diễu hề dư hoài, vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương... 桂棹兮蘭槳,擊空明兮泝流光。渺渺兮予懷,望美人兮天一方... Có nghĩa : ... Thuyền quế nầy chèo lan, khua vầng trăng sáng nầy theo dòng nước lan man, lòng ta diệu vợi muôn vàn, phương trời người đẹp mơ màng ngóng trông !... Theo sử thi "Mai Đình Mộng Ký 梅亭夢記" của Nguyễn Huy Hổ 阮輝琥 trong đó cũng có câu :

                              Này này quế trạo lan tương,
                      Ví đua Xích Bích, chi nhường ĐÔNG PHA.

           Còn trong bài hát nói (ca trù) "Vịnh Tiền Xích Bích" của Nguyễn Công Trứ thì mở đầu bằng : 

                             Gió trăng chứa một thuyền đầy,
                             Của kho vô tận biết ngày nào vơi?
                             Ông TÔ TỬ qua chơi Xích Bích,
                             Một con thuyền với một túi thơ...  

      2. ĐÔNG SÀNG 東床 : là cái giường nằm ở phía đông. Theo tích Vương Hi Chi 王羲之 trong Tấn Thư 晉書 như sau :
       Vào đời Đông Tấn, có quan Thái Úy là Khước Giám, có một cô con gái vừa tài hoa vừa đẹp đẽ, nên ông luôn muốn kén chọn một chàng rễ cho xứng với con gái mình. Biết được trong nhà của Tể Tướng Vương Đạo có rất nhiều con cháu trai và tất cả đều văn hay chữ tốt, bèn cho môn sinh đến để cầu thân. 
      Khi người môn sinh của Khước Giám đến ngỏ ý, thì Vương Đạo bèn bảo rằng : Tất cả bọn chúng đều đang ăn ở học tập ở phía đông sương, cứ qua đó mà chọn. Người môn sinh bèn đi về phía đông sương, thấy những chàng trai con cháu của họ Vương người nào cũng mi thanh mục tú, ra vẻ "Nền phú hậu bậc tài danh, Văn chương nết đất thông minh tính trời", lại nghe nói có người nhà của quan Thái Úy đến chọn rễ, nên ai nấy đều ăn mặc chải chuốc bảnh bao, duy chỉ có một chàng nằm phơi bụng ở giường mé Đông đọc sách xem như không có gì xảy ra cả. 
      Người môn sinh về kể lại tài mạo của các chàng trai họ Vương bên đó cho quan Thái Úy Khước Giám nghe. Khi nghe xong, Khước Giám liền bảo :"Chính hắn ! Chính cái chàng trai nằm phơi bụng ở giường phía đông như không có việc gì xảy ra đó, chính là chàng rễ qúy mà ta muốn chọn đó".

             

      Quả không sai, vì chàng rễ đó chính là Vương Hi Chi 王羲之, nhà văn, nhà thư pháp nổi tiếng với 《Lan Đình Tập Tự 蘭亭集序》và với bút pháp của Thiếp Lan Đình 蘭亭帖 để đời cho đến hiện nay. Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã cho Hoạn Thư khen Thúy Kiều khi thấy nàng chép kinh ở Quan Âm Các với nét bút thật đẹp là :

                        Khen rằng bút pháp đã tinh,
                   So vào với Thiếp Lan Đình nào thua !

       Do tích trên đây, sau nầy hễ muốn chọn được chàng rễ qúy thì người ta thường gọi là "Kén Rễ Đông Sàng". Nên "RỄ ĐÔNG SÀNG" là chàng rễ qúy. Trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Nhị Độ Mai" của ta cũng có câu :

                        Con ta yểu điệu khuê phòng,
                   Có Tây Tử đó, thiếu ĐÔNG SÀNG nào ?!   

      Còn trong "Sơ Kính Tân Trang" của Chiêu Lỳ Phạm Thái, một danh sĩ ở cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 của ta thì gọi là GIƯỜNG ĐÔNG :

                      Lẽ đâu dám kẻ GIƯỜNG ĐÔNG,
                  Tước bình xin đợi, thừa long xứng tài.                                             

       TƯỚC BÌNH là "Tước Bình Trúng Tuyển 雀屏中選"; THỪA LONG là "Thừa Long Khoái Tế 乘龍快婿". Cả hai thành ngữ nầy cùng với "Diệu tuyển ĐÔNG SÀNG 妙選東床" đều là những thành ngữ chỉ kén được chàng rễ quý cả !


                 Tước Bình Trúng Tuyển,          Diệu tuyển ĐÔNG SÀNG,                   Thừa Long Khoái Tế

       Nhớ ngày xưa trong giờ học Địa Lý, Thầy giáo đã dạy cách phân biệt phương hướng bằng câu thiệu sau đây : Cứ nhắm hướng Mặt Trời Mọc đưa tay lên chỉ rồi đọc câu "Tay MẶT chỉ phương ĐÔNG, tay TRÁI chỉ phương TÂY, đằng TRƯỚC là phương BẮC, sau lưng là phương NAM". Thì sẽ nhận ra 4 phương 8 hướng, không sai chạy bao giờ. Hướng Tây còn được gọi là hướng ĐOÀI. Ta thường nghe nói Hướng Đông hướng Đoài, Xóm Đông xóm Đoài... như 4 câu thơ bất hủ của nhà thơ Nguyễn Bính thời Tiền Chiến sau đây :

                      THÔN ĐOÀI ngồi nhớ THÔN ĐÔNG,
                  Một người chín nhớ mười mong một người.
                          Gió mưa là bệnh của Trời,
                   Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng !

       Trong khẩu ngữ của người Hoa hiện tại, từ ĐÔNG TÂY 東西 có nghĩa là ĐỒ, nói chung cả Đồ Ăn và Đồ Dùng. Ví dụ như : 
       - Ngật Đông Tây 吃東西 là "Ăn Đồ" (chỉ chung là Ăn Đồ Ăn).
       - Tố Đông Tây 做東西 là "Làm Đồ" (chỉ chung về Đồ dùng, đồ xài...).
       Trong văn học thì "...ĐÔNG... TÂY" cho ta rất nhiều thành ngữ. Thông dụng và thường nghe tới nhất là một trong Tam Thập Lục Kế :
      * DƯƠNG ĐÔNG KÍCH TÂY 揚東擊西 người Hoa gọi là THANH ĐÔNG KÍCH TÂY 聲東擊西. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ sách《Hoài Nam Tử 淮南子.Binh Lược 兵略》đời Hán và đời Đường 唐.Đỗ Hựu 杜佑《Thông Điển 通典》có câu :"Thanh ngôn kích đông, kỳ thực kích tây 聲言擊東,其實擊西" Có nghĩa : Đánh tiếng là đánh vào mé đông, kỳ thực là đánh vào mé tây. Hư trương thanh thế để chuyển sự chú ý của kẻ địch ra khỏi mục tiêu mà mình định nhắm tới để tấn công.
     * ĐÔNG BÔN TÂY TẨU 東奔西走 là Chạy bên đông rồi lại chạy bên tây, ta nói là "Chạy đôn chạy đáo", là "Bôn Ba Khắp Nẻo" một cách vất vả khi gặp khó khăn gì đó trong cuộc sống thường ngày.
     * ĐÔNG ĐÃO TÂY OAI 東倒西歪 là Nghiêng bên đông ngã bên tây, chỉ đi đứng không vững vì say rượu hay bệnh tật... Cũng có thể dùng để chỉ cây cỏ hay nhà cửa ngã nghiêng trước gió sau cơn bão chẳng hạn...
     * ĐÔNG TRƯƠNG TÂY VỌNG 東張西望 là "Ngó bên Đông, ngóng bên Tây". Có nghĩa là nhìn dáo dác bên nầy bên nọ để tìm kiếm ai đó hoặc cái gì đó; cũng có nghĩa là nhìn dáo dác vì có gian ý nào đó muốn thực hiện mà sợ người khác trông thấy.
     * ĐÔNG THÀNH TÂY TỰU 東成西就 là Đông cũng thành tựu mà Tây cũng thành tựu. Mọi mặt đều thành tựu, chỉ sự việc thuận lợi và thành công ở khắp mọi nơi, mọi mặt.

              THANH ĐÔNG KÍCH TÂY, ĐÔNG BÔN TÂY TẨU, ĐÔNG ĐÃO TÂY OAI, ĐÔNG TRƯƠNG TÂY VỌNG, ĐÔNG THÀNH TÂY TỰU

     * ĐÔNG THI HIỆU TẦN 東施效顰 là "Nàng Đông Thi bắt chước nhăn mày". Thành ngữ nầy có xuất xứ từ một truyện ngụ ngôn trong sách Trang Tử chương Thiên Vận《莊子.天運》như sau :

       Trong thời Xuân Thu(770—476 trước Công Nguyên), xã hội băng hoại xuống cấp, các chư hầu đều cát cứ một phương không còn thần phục nhà Chu nữa. Khổng Tử bèn chu du liệt quốc để rao giảng lễ nhân. Khi Khổng Tử từ nước Lổ định hướng về tây đi sang nước Vệ để rao giảng, thì đệ tử Nhan Uyên mới hỏi Thái Sư của nước Lổ rằng :"Phu tử đi chuyến nầy không biết kết quả ra sao ?" Thái Sư bèn thở dài đáp :"Thời cuộc đã không còn như trước, lễ tiết giờ cũng đã đổi thay, cần phải biết quyền biến mới được. Khổng Tử là người ưu thời mẫn thế, có nhiệt tâm muốn cải tạo xã hội, nhưng nếu cứ rao giảng những điều đã xưa cũ lỗi thời mà vẫn cho là tốt đẹp thì chẳng khác nào như ĐÔNG THI HIỆU TẦN vậy...    
       TÂY THI 西施 là người con gái đẹp của Trữ La Thôn nước Việt, đi đứng ăn nói đều toát ra một vẻ đẹp tự nhiên, kể cả khi tim bị nhói đau, hai tay ôm lấy tim, mày nhăn mắt ướt cũng toát ra một vẻ đẹp đáng thương đáng yêu vô cùng tự nhiên. Trong xóm có nàng ĐÔNG THI 東施 trông thấy cứ tưởng làm thế là đẹp, nên cũng ở trước mặt mọi người nhăn mày nhíu mặt, hai tay ôm ngực, định làm duyên làm dáng như TÂY THI để được mọi người khen đẹp; nhưng vừa trông thấy cái dáng vẻ vô duyên xấu xa của ĐÔNG THI, thì mọi người đều quay lưng bỏ chạy cả !...
       Thái Sư kết rằng, nếu cứ chấp mê bất ngộ, một mực làm theo những điều mà mình cho là đẹp là tốt mà không biết linh động quyền biến thì khác nào là nàng ĐÔNG THI HIỆU TẦN, cứ tưởng ôm ngực nhăn nhó là đẹp, thì bảo sao mọi người trông thấy lại không bỏ chạy cả !?

       ĐÔNG THI HIỆU TẦN còn có nghĩa là bắt chước người khác làm theo một cách mù quáng, chẳng những không đạt yêu cầu mà còn cho kết qủa ngược lại. Còn một nghĩa rất tích cực nữa là ĐÔNG THI HIỆU TẦN khi dùng để nói về mình, thì có nghĩa khiêm tốn là "Mình chỉ bắt chước theo người ta làm một cách vụng về mà thôi!".                                                                        
         
      Nhìn vào bản đồ Thế Giới thì "Bên phải là Phương Đông, bên trái là Phương Tây, phía trên là Phương Bắc và phía dưới là Phương Nam; Vì Châu Á ở bên phải của bản đồ nên được gọi là Á ĐÔNG 亞東, còn Châu Âu ở bên trái nên được gọi là TÂY ÂU 西歐. Người Châu Âu gọi nước Trung Hoa to lớn và các nước Đại Hàn, Nhật Bản... trong vùng bán đảo Trung Nam và Quần đảo Mã Lai là vùng VIỄN ĐÔNG 遠東, và vì ở sát dọc theo bờ biển Thái Bình Dương nên còn được gọi là các nước ĐÔNG DƯƠNG 東洋. Trong Thế Chiến Thứ 2, khi Nhật Bản là nước Châu Á duy nhất vượt lên ngang hàng với các nước Tây Âu, thì từ ĐÔNG DƯƠNG còn đặc biệt chỉ dùng để chỉ Nhật Bản; như đi lính Đông Dương tức là "Đi lính cho Nhật Bản đó !"
      Bán đảo Đông Dương bao gồm các nước : Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar và Thái Lan. Nên VIỆT MIÊN LÀO là ba nước Đông Dương ngày trước bị thực dân Pháp cai trị và xáp nhập lại chung với nhau, nếu bao gồm cả quần đảo Mã Lai, Indonesia và Philippines thì là vùng VIỄN ĐÔNG của Đông Nam Châu Á; Gọi cho gọn lại là vùng ĐÔNG NAM Á.  Khi đã chiếm lĩnh toàn bộ Đông Dương, người Pháp xây dựng Sài Gòn thành thủ phủ phía Nam, chủ yếu nhằm khai thác nguồn tài nguyên, nhân lực và thị trường rộng lớn một vùng đất gồm bán đảo Đông Dương, Đông Nam Á và cả miền Hoa Nam của Trung Hoa. Sài Gòn đón nhận những con người năng động nhất đến từ khắp nơi, tìm cách làm giàu ở thương cảng lớn này.  Và... Sài Gòn được vinh danh là HÒN NGỌC VIỄN ĐÔNG vì là trung tâm điểm giao thông kinh tế của cả vùng Viễn Đông, chữ Nho gọi là VIỄN ĐÔNG CHI CHÂU 遠東之珠 (Hòn trân châu của xứ Viễn Đông).

 

       Hướng Đông còn là hướng của các vùng đồng bằng và cũng là hướng của những dòng sông trôi chảy, như câu nói của dân gian được ghi lại trong Tăng Quảng Hiền 增廣賢文 Văn là :

                 天上眾星皆拱北,  Thiên thượng chúng tinh giai củng bắc,
                 世間無水不朝東.   Thế gian vô thuỷ bất triều ĐÔNG .
       Có nghĩa :
        - Trên trời thì các vì sao đều chầu về hướng bắc (chỉ sao Bắc Đẩu). Còn...
        - Trên đời nầy thì không có dòng sông nào là không chảy về hướng biển ĐÔNG cả !

       Trong bài thơ trường thiên "Tương Tiến Tửu"của Thi Tiên Lý Bạch, ông đã hạ câu thơ mở đầu bất hủ như sau :

                君不見            Quân bất kiến
                黃河之水天上來,   Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai
                奔流到海不復回!    bôn lưu đáo hải bất phục hồi !
        Có nghĩa :               
               Bạn có thấy Hoàng Hà cuồn cuộn,
               Từ trời cao đổ xuống về đông.
               Chảy xuôi ra biển mênh mông,
               Nước tuôn mất hút một không trở về !
        
             "Nước tuôn mất hút một không trở về !" cũng giống như thời gian đã qua đi rồi thì sẽ không bao giờ còn trở lại được cả, nên có dịp cùng bạn chung vui thì hãy "uống cho xả láng", không say không về, và ông đã hạ những câu cuối để đời như sau :
 
                  五花馬,千金裘。  Ngũ hoa mã, thiên kim cầu.
                  呼兒將出換美酒,  Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu,
                  與爾同銷萬古愁!   Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu !
        Có nghĩa :
                  Ngũ Hoa Mã, Thiên Kim Cầu,
                  Đem ra bảo trẻ đổi mau rượu về !
                  Cùng nhau ta uống hả hê,
                  Mối sầu vạn cổ trả về thiên thu !  


                                       Hoàng Hà chi thuỷ...

        Trong bài từ Ngu Mỹ Nhân 虞美人 của Hâu Chúa Lý Dục 李煜 thì ông diễn tả nỗi lòng buồn thương khi mất nước của mình giống như là dòng nước cứ chảy mãi về Đông mà không bao giờ dứt cả :

                     問君能有幾多愁?       Vấn quân năng hữu hứa đa sầu ?
                     恰似一江春水向東流! Kháp tự nhất giang xuân thuỷ hướng Đông lưu !
       Có nghĩa :
                     Hỡi người biết có bao sầu ?
                     Tựa như dòng nước rầu rầu về Đông !

           Chính lòng hối hận tiếc muối và đau buồn nầy của Lý Hậu Chúa đã khiến cho Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa ban thuốc độc cho ông chết đi để chừa hậu hoạn.  

       Tây bắc thường là những vùng núi non hùng vĩ chập chùng, là những vùng biên tái xa xôi mà các chàng lính thú ngày xưa hay các quan viên thất cơ lở vận bị biếm đi đày mới đến trấn thủ những nơi nầy, nên luôn luôn mơ về quê nhà ở những vùng đất Đông nam xa xôi yêu dấu. Năm Thiên Bảo thứ 8, lần đâu tiên thi nhân Sầm Tham 岑参(715—770) giả biệt vợ con gia đình đi trấn nhậm ở miền Tây vực. Ra khỏi cửa ải Dương Quan là vùng biên tái hoang vu, đang lúc lòng buồn rười rượi, bỗng đâu lại gặp được một đồng liêu đang trên đường phụng chiếu hồi kinh. Nỗi mừng biết lấy chi cân, ông bèn làm bài thơ tứ tuyệt "Phùng Nhập Kinh Sứ 逢入京使" sau đây để gởi về thăm gia đình :

               故園東望路漫漫,  Cố viên Đông vọng lộ man man,
               雙袖龍鐘淚不幹。  Song tụ long chung lệ bất can.  
               馬上相逢無紙筆,  Mã thượng tương phùng vô chỉ bút,
               憑君傳語報平安.   Bằng quân truyền ngữ báo bình an !
                  
                GẶP NGƯỜI SỨ GIẢ ĐI VỀ KINH THÀNH.
       Cố viên là cố hương, là quê nhà ở mãi tận phương trời Đông với đường xá xa xôi diệu dợi (lộ man man!)  Hai tay áo già nua lụm cụm (Song tụ long chung) không lau sạch hết dòng lệ nhớ quê hương không lúc nào khô cạn (lệ bất can).  Gặp nhau giữa đường trên ngựa đây, lại không có bút mực giấy viết gì cả! Chỉ nhờ anh nhắn miệng lại dùm là : Tôi rất khỏe mạnh bình an mà thôi!

                              Vườn xưa diệu dợi ngóng về ĐÔNG,
                              Lụm cụm khôn ngăn lệ nhỏ ròng.
                              Trên ngựa gặp nhau không giấy viết,
                             "Bình an" nhờ báo kẻo nhà mong !



      Trở lại với văn học Việt Nam ta, theo THI VIỆN : Thơ văn Nguyễn Khuyến (NXB Văn học, 1971) công bố ở phần phụ lục với đề Tình Thư 情書 (Thơ Tình), có ý dè dặt về tác giả. Một số cố lão ở làng Yên Đổ cho biết lúc còn trẻ, khi Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến còn là anh Khóa Nguyễn Văn Thắng, có ngấp nghé một cô gái tên là Nguyễn Thị Thục, con của một vị Cai tổng giàu có, ở xóm Đông làng Vi Hạ, nên ông có làm hai bài thơ "Gởi Người Con Gái Xóm ĐÔNG" (1) và (2) sau đây :

                                 (1)
               Mượn gió đưa thư tới xóm ĐÔNG,
               Hỏi người thục nữ muốn chồng không?
               Rắp mong chờ đợi người quân tử,
               Hay sắp đèo bòng kẻ phú nông?
               Hay muốn đem thân nương đài các?
               Hay buồn phận bạc hóa long đong?
               Tình trong yểu điệu đà nên gái,
               Đáng bậc, coi chừng muốn lấy ông!

                               (2)
               Đôi ta giao ước với tơ hồng,
               Vàng đá đinh ninh đã quyết lòng
               Chén dặn trên soi thời nhật nguyệt,
               Lời nguyền dưới xét có non sông,
               Liễu đào đông cựu lai như nhất,
               Mai trúc xuân tân nối chữ đồng.
               Một bức tờ này lòng gắn bó,
               Gìn vàng giữ ngọc để cam công.

         Rất tình tứ, rất thẳng thắn, rất văn chương và hẹn ước với đầy đủ lễ nghi... Không biết là bà Phu nhân Tam Nguyên Yên Đổ sau nầy có phải là cô yểu điệu thục nữ  Nguyễn Thị Thục nầy hay không ?!...


                                 Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến

       ĐÔNG 東 là hướng của mặt trời mọc, mà Mặt Trời Mọc chữ Nho là NHỰT XUẤT 日出 như trong bài thất ngôn tứ tuyệt TRÚC CHI TỪ 竹枝詞. TRÚC CHI  竹枝 là "Cành Tre, cành trúc", là tên một loại dân ca của vùng Tứ Xuyên Trùng Khánh (giống như là những bài dân ca "Cây trúc xinh..." của ta vậy). Nội dung phần nhiều diễn tả cảnh núi sông phong tục dân gian và tình yêu nam nữ. TRÚC CHI TỪ là những bài ca từ được Lưu Vũ Tích mô phỏng theo thể điệu dân ca nói trên mà sáng tác, khi ông đang làm Thứ Sử tại đây. Tất cả gồm 11 bài, dưới đây là bài thứ 2 trong số 11 bài đó.

               楊柳青青江水平, Dương liễu thanh thanh giang thủy bình,
               聞郎江上唱歌聲。 Văn lang giang thượng xướng ca thinh.
               東邊日出西邊雨, Đông biên nhật xuất tây biên vũ,
               道是無晴卻有晴。 Đạo thị vô tình khước hữu tình !
      * Chú thích :
          - Chữ TÌNH 晴 nầy là NẮNG RÁO, vì có bộ NHẬT 日 là Mặt Trời ở bên trái. ĐỒNG ÂM với chữ TÌNH 情 là TÌNH CẢM, TÌNH Ý, có bộ TÂM 忄là Lòng Dạ ở bên trái. Nên, HỮU TÌNH 有晴 là CÓ NẮNG, đồng âm với HỮU TÌNH 有情 là CÓ TÌNH Ý.
          Dương liễu xanh xanh soi mình trên dòng nước phẳng lặng, ta nghe tiếng của chàng cất giọng hát trên sông. Mặt trời đang ló dạng ở phía đông với những tia nắng đầu ngày , nhưng phía bên trời tây lại đổ mưa rào, cho nên, bảo là không có nắng, nhưng lại có nắng (Nói là không có tình, nhưng lại có tình ý thật thiết tha!).

                          Xanh xanh dương liễu soi dòng nước,
                          Vẳng tiếng chàng ca sóng lặng thinh.
                          Tây đổ mưa rào đông lại nắng,
                          Hữu tình người lại ngỡ vô tình !
            Lục bát :
                          Liễu xanh xanh nước mênh mang,
                          Trên sông nghe vẳng tiếng chàng hát ca.
                          Đông nắng Tây lại mưa sa,
                          Bảo là vô ý thì ra hữu tình !



      Mặt trời còn được gọi là Vầng THÁI DƯƠNG 太陽, nên hướng về ánh nắng của mặt trời gọi là HƯỚNG DƯƠNG 向陽, như Hoa Hướng Dương 向陽花 chẳng những có hình dáng giống như là mặt trời đang tỏa sáng mà còn luôn luôn hướng về hướng ĐÔNG, nơi mặt trời mọc, như hai câu trong Tăng Quảng Hiền Văn :

                     近水樓台先得月,   Cận thủy lâu đài tiên đắc nguyệt,
                     向陽花木早逢春.    HƯỚNG DƯƠNG HOA MỘC tảo phùng xuân. 
      Có nghĩa :
                    Gần nước lâu đài trăng ngắm trước,
                    Hướng dương cây cỏ sớm chào xuân !

    
      Không riêng gì Hoa Hướng Dương mà tất cả cỏ cây hoa lá đều có khuynh hướng nghiêng về hướng ĐÔNG, hướng của mặt trời mọc. Kể cả con người, mỗi buổi sáng khi tập thể dục cũng thường hướng về phía ĐÔNG để đón nhận những ánh nắng đầu tiên trong ngày !

           
     
                          杜紹德
                   ĐỖ CHIÊU ĐỨC
                                                                                            

ALBUM NHỮNG BÀI THƠ CHỦ ĐỀ MẸ CỦA NHÃ MY - HUỲNH TÂM HOÀI | TỐ MAI DIỄN NGÂM.








Cảm ơn Tố Mai thân yêu với giọng ngâm da diết truyền cảm đã làm cho những con chữ (vốn nằm yên trong ký ức của một thời ) bật lên cung điệu thiết tha lay động trái tim cuả những người con nhớ về tình thương của MẸ.

Thứ Sáu, 28 tháng 11, 2025

VÌ EM - THƠ LÊ KIM THƯỢNG


 


 VÌ EM

 

1. 

 

 

Em qua, một sớm bình minh

Áo tà tha thướt, tươi xinh phiêu bồng

Nắng tô thêm chút má hồng

Có con chim hót chờ mong bên thềm

Nắng nghiêng soi gót chân mềm

Bước chân lối cỏ, hương đêm nồng nàn

Nón em nghiêng đổ nắng vàng

Lời em tha thiết, nhẹ nhàng, si mê

Tôi em nặng một lời thề

Xanh tươi lời hẹn, tình quê ngập tràn

Tình yêu như ánh trăng vàng

Sáng soi muôn lối, dịu dàng chênh chao

Vườn yêu đỏ sắc hoa đào

Hương bay ngan ngát, dạt dào ngất ngây

Bàn tay ve vuốt tóc mây

Bướm ong, ong bướm tràn đầy, chứa chan…

 

 

2. 

 

Lửa tình mới thắp đã tàn

Lời yêu mới ngỏ đã tan mất rồi

Vì em… tình cũ qua rồi

Vì em… tình cũ xa xôi hiện về

Vẫn còn… nỗi nhớ đam mê

Vẫn còn… nỗi nhớ bộn bề sớm trưa

Tôi đem kỷ niệm ngày xưa

Chôn vào ký ức mấy mùa thương đau

Thơ tình em vội quên mau

Để tôi ôm một khối sầu tái tê

Rượu say, nửa tỉnh, nửa mê

Mình tôi ngồi với câu thề héo hon

Cuối ngày chiều tím hoàng hôn

Bỗng dưng nhớ lại nụ hôn một thời

Nhớ em bổi hổi, bồi hồi

Rưng rưng cái mất… chơi vơi cái còn…

                       

              Nha Trang, tháng  11. 2025

                  LÊ KIM THƯỢNG


Thứ Năm, 27 tháng 11, 2025

HOA CỦA VƯỜN XƯA - THƠ NGUYỄN AN BÌNH



 HOA CỦA VƯỜN XƯA 


Hình như mùa đã khác

Màu nắng lạ vô ngần

Ta thấy hồn xao xác

Cuốn theo lá ngoài sân.


Hoa tường vi vẫn nở

Tim người có bao dung

Lựu đầu hồi rực dỏ

Cháy hết đời thủy chung.


Tìm trong khung trời cũ

Dấu nào dấu chim bay

Trôi theo dòng mưa lũ

Có thầm nhắc tên ai.


Trăng bên hồ xao động

Ẩm ướt một bờ rêu

Xanh một thời mộng mị

Dạt trôi lòng hắt hiu.


Lá trở mình thức giấc

Khắc khoải đợi bình minh

Nhựa trào dâng cứu rỗi

Đợi giờ phút hiển linh.


Đã bao lần tháng tám

Ta trở lại vườn xưa

Hoa ơi thời tuổi trẻ

Còn nở một chiều mưa?



NGUYỄN AN BÌNH

4/8/2025


Thứ Ba, 25 tháng 11, 2025

MƯA ,BUỒN ƠI...THÔI NGỪNG TIẾNG - TRẦN HỮU NGƯ

 


MƯA, BUỒN ƠI… THÔI NGỪNG TIẾNG!
Mỗi năm mùa mưa đến làm cho chúng ta nhớ nhiều thứ, nhất là những ai xa quê, đến sống nơi thành thị. Ngồi trong căn nhà bịt bùng, nước mưa bị nhốt trong máng xối, nhà cao tầng, chỉ có thấy mưa, chớ không nghe được tiếng mưa rơi! Ở quê, thích nhất là ngồi trước hiên nhà, nhìn mưa, đưa tay hứng mưa, cho ta cảm-giác như chạm tay vào một thứ nước mát lạnh của trời trút xuống dân gian, xóa sạch bụi trần, tắm gội cỏ cây.
Nhớ thời trước 1975, đồ Mỹ tràn ngập thị-trường…, trong đó có một thứ “ưa dùng” là áo mưa Mỹ (bông-xô), cắm 4 cọc ngoài sân, cột 4 đầu để hứng nước mưa. Những hạt mưa long-lanh, ngọt xớt, hứng lấy đem đựng trong mái vú để quanh năm suốt tháng, uống vào mát hơn Dr.Thanh!
Miền Nam chỉ có hai mùa mưa nắng. Còn các mùa khác âm-thầm đi qua, người ta ít nhớ tới (chỉ quan-tâm đến mùa Xuân), những ngày trời nóng, thấy mây đen kéo về, sấm sét vần-vũ… là biết mùa mưa bắt đầu! Và ở thôn quê, người nông dân đã chuẩn bị những gì khi mùa mưa đến, và ra đồng sống với mưa.
Mùa mưa, có đôi khi mưa tối trời, mưa thúi đất, cỏ cây sinh sôi nảy nở, vạn- vật như tưng-bừng, những đêm mưa ở nhà quê, cóc nhái râm-rang suốt đêm, đó là tiếng gọi bạn tình, buồn thúi ruột. Những ngày mưa, người làm nông ra đồng ướt nhẹp nhưng họ vẫn vui vì ruộng vườn tươi mát, riêng các văn nghệ sĩ tuôn trào lai-láng thơ văn nhạc, hội họa… về mưa.
Cũng là mưa, nhưng hình như mưa thành thị khác mưa thôn quê? Và những bài hát mưa của nhiều nhạc sĩ cũng xuất phát từ nơi những tỉnh lẻ? Tôi đoán chừng, nhạc mưa khá phong-phú hơn nhạc những mùa khác.Nhạc mưa đến với chúng ta khá nhiều, và bài hát nào về mưa cũng làm cho chúng nhớ lâu, vì sự sống bắt đầu từ nước.
Mưa, đem đến sự sống cho vạn-vật, riêng nhà nông vui mừng, những con sông con suối nước về xuôi-ngược hò reo, tung tăng ghềnh-thác…, đất đã có nước, nước ở với đất. Riêng người nhạc sĩ thường thì buồn khi mùa mưa đến, có lẽ vì buồn nên họ mới viết được nhạc mưa, thử điểm lại tất cả những bài hát viết về mưa, đâu có bài nào vui?:
“… Mưa buồn ơi thôi ngừng tiếng
Mưa cho phố nhỏ càng buồn thêm
Mưa rơi gác xưa thêm lạnh vắng
Phòng côi lắng tiêu đìều
Đường thưa vắng đìu hiu…”
(Lạnh trọn đêm mưa-Huỳnh Anh).
Có một bản nhạc Mưa đã làm nên tên tuổi của ca sĩ Trang-Mỹ-Dung, đó là “Hai mùa mưa” của Mạc-Phong-Linh. Bản nhạc này ra đời từ năm 1967, và Trang-Mỹ-Dung nổi tiếng với bài hát Boléro này (Tôi gọi điện hỏi Trang-Mỹ- Dung, Mạc-Phong-Linh là ai: đó là nhạc sĩ Anh-Bằng). Có lần Trang-Mỹ-Dung nói đùa với tôi: “Mùa mưa lần trước ướt hơn mùa mưa lần này”:
“… Mùa mưa lần trước anh về đây ghé thăm tôi
Tình xưa bạn cũ gặp nhau đêm ấy mưa rơi
Tách cà phê ấm môi
Mình ngồi ôn lại những phút vui trôi qua mất rồi…”.
Và nhạc sĩ Văn Phụng “người rất khó tính trong sáng tác, hòa âm…”, ông cũng để lại một bài hát “Mưa” Boléro: “Giã từ đêm mưa”:
“… Đêm khuya, mưa rơi, trên đường vắng
Đôi chân, lang thang, tâm tư trầm vắng
Hạt mưa réo rắt nỗi buồn
Cho thế gian sầu
Thương mối duyên đầu
Yêu lứa đôi nghèo
Đội mưa mà đi…”.
Cuộc đời, mấy ai lại chẳng có đôi lần hờn dỗi, bâng-khuâng, bâng quơ… Và buồn nhất là những đêm nằm ngủ nghe mưa rơi:
“… Ngoài trời không sao thưa
Đường lầy ướt ngõ tối
Mưa khuya về hiu hắt đi vào hồn
Chuyện đời quên đi thôi
Dĩ vãng xa lắm rồi
Gợi lại để mà chi nữa người ơi!...”
(Nhạc phẩm Chuyện đêm mưa của Nguyễn-Hiền và Hoài-Linh).
“… Đêm chưa ngủ
Nghe ngoài trời đổ mưa từng hạt rơi…
Mưa lên phố nhỏ
Có một người vừa ra đi đêm nay
Để bao nhiêu luyến thương lại lòng tôi…”
(Mưa nửa đêm – Trúc-Phương)
Và chính mưa đã đem đến cho Đặng-Thế-Phong một bài hát “Giọt mư thu” bất hủ:
“… Gió ngừng đi
Mưa buồn chi
Cho cõi lòng lâm ly…”



Chưa hết, những ngày mưa ở Huế, chúng ta nhớ ca khúc “Mưa trên phố Huế” của Minh Kỳ qua giọng “không đụng hàng” của ca sĩ Ngọc Hạ, ca khúc này có một câu nghe mà không phân biệt được “Mưa ngày xưa và mưa bây giờ”:
-Ngày xưa mưa rơi thì sao/ Bây chừ mua nghe lại buồn…:
“… Chiều nay mưa trên phố Huế
Kiếp giang hồ không bến đợi
Mà mưa vẫn rơi, rơi hoài cho lòng nhớ ai
Ngày chia tay hôm nao còn đây
Tình đã xa gió mưa u hoài, mắt lệ ngân dài…
Ngày xưa mưa rơi thì sao
Bây chừ nghe mưa lại buồn
Vì tiếng mưa, tiếng mưa trong lòng làm mình cô đơn…”
Trên đây là một số bài hát mưa đã ướt đất, đã thắm lòng, đã đi qua biết bao mùa mưa nắng, nhưng không phai nốt, lạc ton dù giống bão có phũ-phàng.
Bây giờ trời đất vẫn còn mưa, có đôi khi mưa nhiều hơn những mùa mưa thế kỷ trước, nhưng nhạc mưa lại ít hơn, và nếu có, nhưng không còn “mưa lãng- mạn” như xưa nữa!
Có lẽ người nhạc sĩ bây giờ đã sợ mưa, và mưa không không làm bão lòng nhạc sĩ mà chỉ làm bão lụt quê-hương?


TRẦN HỮU NGƯ