Thứ Tư, 27 tháng 12, 2017
LÂM GIANG TỐNG HẠ CHIÊM - THƠ BẠCH CƯ DỊ - ĐỖ CHIÊU ĐỨC DIỄN NÔM
duc do
21 thg 12 (4 ngày trước)
Đón năm mới lại già thêm một tuổi, đầu lại bạc thêm một ít, hãy cùng cảm khái với Bạch Cư Dị tiễn bạn đầu bạc lẩn khuất trong sóng bạc đầu !
Mời đọc " Lâm Giang Tống HẠ CHIÊM " của Bạch Cư Dị sau đây :
臨江送夏瞻 LÂM GIANG TỐNG HẠ CHIÊM
白居易 Bạch Cư Dị
悲君老別我沾巾, Bi quân lão biệt ngã triêm cân,
七十無家萬里身。 Thất thập vô gia vạn lý thân.
愁見舟行風又起, Sầu kiến chu hành phong hựu khởi,
白頭浪裏白頭人。 Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân.
CHÚ THÍCH :
* Lâm Giang 臨江: là Đến bên bờ sông.
* Hạ Chiêm 夏瞻: Một người bạn già của Bạch Cư Dị đã trên bảy mươi tuổi còn sống trôi nổi không nhà.
* Bi Quân 悲君: là Buồn thương cho bạn.
* Triêm Cân 沾巾 : là Thấm ướt khăn
* Bạch Đầu Lãng 白頭浪 : là Sóng bạc đầu.
* Bạch Đầu Nhân 白頭人 : là Người Đầu bạc.
NGHĨA BÀI THƠ :
Đến bờ sông tiễn Hạ Chiêm
Thương cho anh đã già nua còn phải chịu cảnh biệt ly mà lệ của ta đẫm ướt cả khăn. Bảy mươi tuổi rồi mà không có được một mái nhà, tấm thân phải phiêu bạc xa xôi ngàn dặm. Buồn trông theo cảnh thuyền của anh đi trong khi gió đang nổi lên, ta chỉ thấy trong những đợt sóng bạc đầu đang lẩn khuất hình bóng của người đầu bạc !
Bài thơ nầy còn có một dị bản như sau :
Câu 1 :
悲君老別淚沾巾, Bi quân lão biệt LỆ triêm cân,
là : Thương cho bạn già nua còn phải biệt ly nên LỆ thấm ướt cả khăn.
LỆ 淚 ở đây là Phiếm chỉ, không biết là LỆ của Bạn hay là LỆ của ta !?
Câu 4 :
白頭浪裏白頭翁. Bạch đầu lãng lý bạch đầu ÔNG.
là : Trong sóng bạc đầu có Ông Già đầu bạc.
BẠCH ĐẦU ÔNG 白頭翁 : là Ông già đầu bạc, còn...
BẠCH ĐẦU NHÂN 白頭人 : là Người đầu bạc.
Dị bản nhưng nghĩa cũng như nhau, chỉ nêu lên để tham khảo mà thôi !
DIỄN NÔM :
RA BỜ SÔNG TIỄN BẠN HẠ CHIÊM
Thương người giả biệt lệ đầm khăn,
Bảy chục không nhà chỉ một thân.
Gió nổi thuyền đi trong sóng bạc,
Bạc đầu sóng vổ bạc đầu ông.
Lục Bát :
Giả từ bạn, lệ ướt khăn,
Bảy mươi muôn dặm lang thang không nhà.
Buồn trông gió cuốn thuyền xa,
Bạc đầu người lẩn sóng xa bạc đầu !
ĐỖ CHIÊU ĐỨC
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
5 nhận xét:
Thật là tuyệt!
DVD luôn ước được thưởng thức những bài thơ chữ hán, chữ nôm được diễn nghĩa của các thi nhân Việt Nam!
DVD xin chúc chủ nhà Nhã My an lành!
Các thi nhân nổi tiếng của Việt Nam thời phong kiến đã từng viết rất nhiều bài thơ hay bằng chữ hán, chữ nôm!
Tiểu sử Bạch Cư Dị
Bạch Cư Dị (772-846): Tên chữ là Lạc Thiên, hiệu là Hương Sơn cư sĩ, người Hạ Thành (nay là Thiểm Tây). Ông là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc. Người ta chỉ xếp ông sau Lý Bạch và Đỗ Phủ. Mười lăm tuổi ông đã bắt đầu làm thơ, thuở nhỏ nhà nghèo, ở thôn quê, đã am tường nỗi vất vả của người lao động.
Năm Trinh Nguyên, ông thi đậu tiến sĩ được bổ làm quan trong triều, giữ chức Tả thập di. Bởi mâu thuẫn với tể tướng Lý Lâm Phủ, ông chuyển sang làm Hộ Tào Tham Quân ở Kinh Triệu rồi lại được triệu về kinh lo răn dạy Thái Tử.
Năm Nguyên Hòa thứ 10 (Đường Hiến Tông ), do hạch tội việc tể tướng Vũ Nguyên Hành bị hành thích và ngự sử Bùi Độ bị hành hung, đám quyền thần cho là ông vượt qua quyền hạn, đày làm Tư Mã Giang Châu. Ông chủ trương đổi mới thơ ca. Cùng với Nguyên Chẩn, Trương Tịch, Vương Kiến, ông chủ trương thơ phải gắn bó với đời sống, phản ánh được hiện thực xã hội, chống lại thứ văn chương hình thức.
Ông nói: "Làm văn phải vì thời thế mà làm... Làm thơ phải vì thực tại mà viết", mục đích của văn chương là phải xem xét chính trị mà bổ khuyết, diễn đạt cho được tình cảm của nhân dân.
Thơ ông mang đậm tính hiện thực, lại hàm ý châm biếm nhẹ nhàng kín đáo. Trường hận ca để nói mối tình đẹp của Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi, nhưng đọc kỹ thì những ý châm biếm, mỉa mai kín đáo đều có. Ông cùng Nguyên Chẩn đề xướng phong trào Tân Nhạc Phủ, nên trong thơ, ông luôn công kích đời sống xa hoa dâm dật của bọn quý tộc, bóc trần sự bóc lột của bọn quan lại, thông cảm với nỗi thống khổ của dân chúng (Tần Trung Ngâm, Tân Nhạc Phủ).
Thơ ông thấm nhuần tư tưởng nhân đạo, nhân văn. Ông hòa đồng cùng dân chúng, không coi việc làm quan của mình là gì, mà thấy mình cũng bị cuộc đời làm cho bảy nổi ba chìm chẳng khác gì người đời (Tỳ bà hành). Ông thông cảm với những thân gái chịu bao tập tục hủ bại và cảnh nghèo túng mặc dù sắc đẹp thì chẳng thua ai (Nghị hôn).
Bạch Lạc Thiên chủ trương thơ ca phải giản dị để dân chúng đều hiểu được. Không những thế, tình cảm, tư tưởng phải giàu tính nhân dân, nói được nỗi lòng của mọi người trước thế sự.
Thơ ông giàu tính trữ tình. Khi ông bị đi đày từ Tràng An đến Tây Giang, ba bốn ngàn dặm, dọc đường thấy trường học, chùa chiền, quán trọ.... đều có đề thơ của mình, nên càng tự tin ở chủ trương của mình hơn.
Riêng hai bài Tỳ Bà Hành và Trường Hận Ca đã đủ tỏ tài thơ của Bạch Cư Dị. Bằng lối kể chuyện miêu tả, với chủ đề khác nhau, hai bài thơ dài của ông, bài thì bay bướm, hình ảnh đẹp, lời bình trầm lắng, ý ngoài lời, ca tụng, mỉa mai đều kín đáo; bài thì hoà đồng vào cảnh ngộ cùng nhân vật, viết lên những tâm trạng gửi gắm của cả hai, người gẩy -người nghe, vào tiếng đàn trên bến Tầm Dương, bài thơ da diết, buồn thấm thía mà nỗi đời thì vời vợi mênh mang.
Ngoài ra ông còn làm một số bài thơ về thiên nhiên, nhàn tản. Lối nói u hoài, vương một nỗi buồn riêng kín đáo. Ông thích đàm đạo về thiền, về Lão Trang, cũng như là biểu hiện trốn đời, sau khi đã quá ngán về nhân tình thế thái.
Ông để lại hàng ngàn bài thơ.
Nguồn: Mai Hoa Trang
DVD rất cảm ơn NM đã đăng tiểu sử giúp DVD hiểu sâu hơn về Thi Hào Bạch Cư Dị!
DVD chúc NM năm mới vui khỏe, an lành!
Bạch Cư Dị nổi tiếng với bài thơ Tỳ Bà Hành , Phan Huy Thực dịch vì bài thơ quá dài nên không tiện đăng mời bạn tra cứu trên mạng nhé NM nhớ là trong chương trình cổ văn hồi trung học trước 75 có học bài thơ này.
Đăng nhận xét