Góc Việt Thi :
Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (1)
Tượng thờ ở chùa Huy Văn
LÊ THÁNH TÔNG 黎聖宗 (20 tháng 7 năm Nhâm Tuất 1442 – 30 tháng 1 năm Đinh Tỵ 1497) huý là Lê Tư Thành 黎思誠, còn có một huý khác là Lê Hạo 黎灝, là vị vua thứ năm thời Lê sơ và là con thứ 4 của vua Lê Thái Tông và bà tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao. Trong lúc trị vì, ông đã đưa ra nhiều cải cách trong hệ thống quân sự, hành chính, kinh tế, giáo dục và luật pháp. Ông cũng đã mở mang bờ cõi nước Đại Việt bằng cách đánh chiếm thủ đô của nước Chiêm Thành, sát nhập một phần lãnh thổ Chiêm Thành vào Đại Việt; đồng thời có cuộc hành quân về phía Tây đất nước. Ông trị vì từ năm 1460 đến lúc mất, và được nhiều nhà sử học đánh giá là một trong những vị vua tài ba trong lịch sử Việt Nam. Ông cũng được coi là nhà văn hoá và là người coi trọng người hiền tài.
Về phương diện văn học, Lê Thánh Tông là một nhà thơ lớn, tác phẩm ông để lại rất phong phú, vừa thơ, vừa văn xuôi, vừa Hán, vừa Nôm... Ông là Tao Đàn Đô Nguyên suý của "Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú". Sau đây là những bài thơ tiêu biểu bằng Hán văn của ông.
1. Bài thơ AN BANG PHONG THỔ :
安邦風土 AN BANG PHONG THỔ
海上萬峰宭玉立, Hải thượng vạn phong quần ngọc lập,
星羅奇佈翠崢嶸。 Tinh la kỳ bố thúy tranh vanh.
魚鹽如土民趍便, Ngư diêm như thổ dân xu tiện,
鏵稻無田賦薄征。 Hoa đạo vô điền phú bạc trưng.
波向山坪低處踊, Ba hướng sơn bình đê xứ dũng,
舟穿石壁隙中行。 Chu xuyên thạch bích khích trung hành.
邊氓久樂承平化, Biên manh cửu lạc thừa bình hoá,
四十餘年不識兵。 Tứ thập dư niên bất thức binh.
* Chú Thích :
- An Bang Phong Thổ 安邦風土 : AN BANG là tên lộ thời Hồng Đức, nay là vùng Quảng Ninh. PHONG THỔ là do thành ngữ PHONG THỔ NHÂN TÌNH 風土人情, dùng để chỉ khí hậu, địa thế, tập tục, lễ tiết, thị hiếu... của một địa phương nào đó. Nên
AN BANG PHONG THỔ là chỉ Đất nước con người của xứ AN BANG.
- Quần 宭 : là tụ tập, là ở chung lại với nhau.
- Bố 佈 : là sắp xếp, rải đều ra.
- Tranh Vanh 崢嶸 : là Cao ngất, cao chót vót, chênh vênh, ngất nghểu.
- Xu 趍 : là rảo bước, đi nhanh (tới trước). Nên XU TIỆN 趍便 là cái phương tiện mà nhiều người hướng tới nhất.
- Hoa 鏵 : là cái Lưỡi cày. ĐẠO 稻 là Lúa. Nên HOA ĐẠO chỉ sự canh tác,làm ruộng.
- Phú 賦 : là Thuế Phú 稅賦 là Thuế má, Thuế khóa.
- Bạc Trưng 薄征 : là trưng thu mỏng, là trưng thu nhẹ.
- Sơn Bình 山坪 : Chỗ bằng phẳng của núi.
- Khích 隙 : Cái kẻ hở. THẠCH BÍCH KHÍCH 石壁隙 là Cái khe hở của vách đá.
* Nghĩa bài thơ :
Đất Nước Con Người của xứ An Bang
Trên mặt biển như gom góp lại cả vạn ngọn núi giống như những tảng ngọc dựng đứng được bày bố la liệt một cách diệu kỳ với những chóp núi chênh vênh xanh biếc. Cá và muối nhiều như đất, nên dân cúng đều đổ xô sinh sống bằng cái phương tiện nầy, không có đồng ruộng để cày bừa canh tác nên việc trưng thu thuế khóa cũng nhẹ đi. Sóng thì cứ nhằm vào những chỗ bằng phẵng thắp xuống của núi đá mà vỗ vào, còn thuyền thì cứ lách qua những khe hở của vách đá mà đi. Dân của vùng biên tái nầy đã thừa hưởng cái niềm vui thanh bình lâu nay rồi, đã bốn mươi mấy năm hơn mà không biết đến việc binh đao là gì cả !
* Diễn Nôm :
AN BANG PHONG THỔ
Trên biển núi non như dựng ngọc,
Biếc xanh rải rác ngọn chênh vênh.
Cá nhiều muối lắm dân vui sống,
Ruộng ít đồng không thuế nhẹ tênh.
Sống vổ núi bằng khi nước xuống,
Thuyền len vách đá lúc triều lên.
Vùng ven thanh thản dân an lạc,
Bốn chục năm hơn chẳng chiến tranh.
Lục bát :
Ngàn non trên biển chênh vênh,
Biếc xanh tựa ngọc bồng bềnh khắp nơi.
Cá, muối, dân sống thảnh thơi,
Không đồng không ruộng thuế thời nhẹ tênh.
Bên sườn núi thấp sóng lên,
Thuyền nương kẻ đá lách luồn mà đi.
Thái bình an hưởng thường khi,
Bốn mươi năm lẻ biết gì việc binh !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
2. Bài thơ BẠCH HẠC GIANG TRUNG :
白鶴江中 BẠCH HẠC GIANG TRUNG
只愛肝腸生鐵石, Chỉ ái can tràng sinh thiết thạch,
豈將頭角怨羲娥。 Khởi tương đầu giốc oán hi nga.
此行塵事關心少, Thử hành trần sự quan tâm thiểu,
惟有東流感慨多。 Duy hữu đông lưu cảm khái đa.
* Chú thích :
- Bạch Hạc Giang Trung 白鶴江中 : là Trên dòng sông Bạch Hạc.
- Can Tràng 肝腸 : là Gan ruột, chỉ Lòng dạ.
- Thiết Thạch 鐵石 : là Sắt đá, chỉ Cứng rắn.
- Đầu Giốc(Giác) 頭角 : Đầu và Sừng, chỉ diện mạo, mặt mũi; dùng rộng ra chỉ tài năng kiệt xuất hơn người; tài hoa xuất chúng...
- Hi Nga 羲娥 : HI là Nhựt Ngự Hi 日御羲 chỉ mặt trời; NGA là Thường Nga 嫦娥 chỉ mặt trăng; nên HI NGA là Mặt trời Mặt trăng, mượn để chỉ Ngày Đêm, dùng rộng ra để chỉ Ngày Tháng, Thời gian.
- Trần Sự 塵事 : Chuyện trần ai thế sự, chuyện đời thường.
* Nghĩa bài thơ :
TRÊN DÒNG SÔNG BẠCH HẠC
Chỉ yêu qúy ở chỗ lòng dạ cứng rắn như là sắt đá, sao lại đem tài hoa của mình mà oán hận trời đất tháng năm ?. Chuyến đi này ta ít quan tâm đến chuyện thế tục tầm thường, chỉ cảm khái cho dòng nước chảy về đông (rồi không bao giờ trở lại nữa !).
Đọc bài thơ nầy của nhà vua, làm cho ta nhớ đến hai câu thơ mở đầu của bài đề từ của Hứa Thận đời Minh cho quyển Tam Quốc Chí của La Quán Trung như sau:
滾滾長江東逝水, Cổn cổn Trường Giang đông thệ thủy,
浪花淘盡英雄。 Lãng hoa đào tận anh hùng.
Có nghĩa :
Trường giang cuồn cuộn nước về đông,
Sóng xô đào thải hết anh hùng...
Cho dù là thánh hiền, vua chúa, hiền nhân quân tử hay anh hùng hảo hán... gì gì đi nữa, thì cũng phải chịu chung cái quy luật của thời gian. Thời gian sẽ như dòng nước chảy về đông sẽ cuốn trôi và xóa nhòa tất cả !...
* Diễn Nôm :
BẠCH HẠC GIANG TRUNG
Chỉ qúy can trường dường sắt đá,
Nở đem tài đức oán trời xanh.
Trên sông thế sự không buồn nhắc,
Cảm khái về đông nước chảy nhanh !
Lục bát :
Can trường thiết thạch những ai,
Tài hoa sao nở oán dài trời cao.
Chuyện đời bỏ mặc để sau,
Về đông nước chảy dạt dào lòng ta !...
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
3. Bài thơ BỆNH KHỞI CẢM HOÀI :
病起感懷 BỆNH KHỞI CẢM HOÀI
早覺今朝疾漸寬, Tảo giác kim triêu tật tiệm khoan,
閉門鎮日道心閒。 Bế môn trấn nhật đạo tạm nhàn.
藥能有喜令強壯, Dược năng hữu hỉ linh cường tráng,
只見芳年不再還。 Chỉ kiến phương niên bất tái hoàn.
* Chú thích :
- Bệnh Khởi Cảm Hoài 病起感懷 : BỆNH KHỞI là Bệnh dậy, có nghĩa là không còn bệnh nữa đã ngồi dậy được rồi. Nên BỆNH KHỞI CẢM HOÀI là những cảm xúc hồi hồi khi vừa khỏi bệnh.
- Tảo Giác 早覺 : là Sáng sớm thức dậy.
- Kim Triêu 今朝 : là Sáng hôm nay.
- Trấn Nhật 鎮日 : là Suốt ngày.
- Đạo 道 : là Nói, là Bảo rằng...
- Linh 令 : là Làm cho. Khi đọc là LỆNH 令 thì có nghĩa là Ra lệnh.
- Phương Niên 芳年 : PHƯƠNG là mùi thơm của hoa cỏ. nên PHƯƠNG NIÊN là Tuổi thơm, ý chỉ tuổi trẻ, tuổi hoa niên.
* Nghĩa bài thơ :
Cảm Xúc Khi Vừa Khỏi Bệnh
Buổi sáng thức dậy cảm thấy sáng nay bệnh tật đã giảm dần. Đóng cửa suốt ngày ở trong nhà bảo rằng lòng rất nhàn nhã. Thuốc có thể đem lại tin mừng, làm cho người ta khỏe mạnh. Chỉ có điều tuổi hoa niên sẽ không còn trở lại được nữa !
Thuốc chỉ chửa lành bệnh mà thôi, chứ không thể làm cho con người ta trẻ lại được nữa !
* Diễn Nôm :
BỆNH KHỞI CẢM HOÀI
Sáng dậy bệnh nghe đã khỏi dần,
Suốt ngày đóng cửa bảo rằng nhàn.
Thuốc đem vui đến người cường tráng.
Chỉ tiếc tuổi xuân khó lại sang !
Lục bát :
Bệnh nghe thuyên giảm sáng nay,
Đóng cửa cả ngày, lòng thấy thảnh thơi.
Thuốc đem khỏe mạnh niềm vui,
Chỉ hiềm tuổi trẻ khó lui trở về !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm.
4. Bài thơ BỘ TIỀN VẬN - ĐỀ PHIẾN :
步前韻-題扇 BỘ TIỀN VẬN - ĐỀ PHIẾN
不學荒唐夜泛杯, Bất học hoang đường dạ phiếm bôi,
清歌和美好襟懷。 Thanh ca hòa mỹ hảo khâm hoài.
錦心主客詩成頃, Cẩm tâm chủ khách thi thành khoảnh,
共看新章字字佳。 Cộng khán tân chương tự tự giai.
* Chú thích :
- Bộ Tiền Vận 步前韻 : Bước theo vần trước, là Nương theo vần bài trước. ĐỀ PHIẾN 題扇 : là Đề thơ lên quạt.
- Hoang Đường 荒唐 : Chuyện xa rời thực tế, chuyện phóng tác, chuyện không có thật; Nghĩa trong câu thơ ở đây là : Buông thả thoải mái không giữ kẽ gì cả ! Hoang Đường, người miền Nam đọc trại thành :"Hoang đàng".
- Phiếm 泛 : là Trôi nổi, bồng bềnh. PHIẾM CHU 泛舟 : Thả thuyền để mặc trôi nổi trên sông; PHIẾM LUẬN 泛論 : là Nói lan man không nhằm vào một chủ đích nghiêm chỉnh nào cả; PHIẾM BÔI 泛杯 : là Uống tràn, uống thoải mái, uống không có giới hạn nào cả !
- Khâm Hoài 襟懷 : KHÂM là Vạt áo, chéo áo; HOÀI là vòng tay; KHÂM HOÀI chỉ Lòng dạ cởi mở, rộng rãi như những vạt áo tay áo ngày xưa.
- Cẩm Tâm 錦心 : là nói gọn của TÚ KHẨU CẨM TÂM 繡口錦心 là Miệng thêu lòng gấm; Chỉ những người giỏi văn chương thi phú, bụng nghĩ những lời đẹp như gấm, nói ra miệng những lời đẹp thư thêu hoa. Lời của con ma Đạm Tiên khen Thúy Kiều làm thơ giỏi là :
Xem thơ nức nở khen thầm,
Gía đành TÚ KHẨU CẨM TÂM khác thường !
- Khoảnh 頃 : là đơn vị đo lường tương đương với 100 mẫu, nên THI THÀNH KHOẢNH 詩成頃 ý nói : Làm được rất nhiều thơ. KHOẢNH còn có nghĩa là Khoẳnh Khắc 頃刻, là chỉ trong chốc lát.
* Nghĩa bài thơ :
Thơ Đề lên Quạt- Theo vần của bài trước.
Không học theo kiểu hoang đàng ban đêm cứ uống tràn lan không ngơi nghỉ. Những lời ca thanh nhã đẹp đẽ hoà vào những tấm lòng rộng rãi cởi mở. Cả chủ lẫn khách với lời như thêu lòng như gấm chỉ trong chốc lát đã làm được rất nhiều thơ, và cùng ngắm nghía những chữ hay đẹp trong các bài thơ vừa mới làm được.
* Diễn Nôm :
BỘ TIỀN VẬN - ĐỀ PHIẾN
Không học hoang đàng mãi uống tràn,
Cõi lòng rộng rãi hát ngâm vang.
Lòng gấm lời thêu thơ phút chốc,
Cùng xem thơ mới chữ ngàn vàng !
Lục bát :
Học chi thói uống hoang đàng,
Lời ca thanh nhã lòng càng mênh mông.
Thơ thành tú khẩu cẩm tâm,
Cùng xem chữ chữ hàng hàng thơ hay !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
5. Bài thơ BÚT :
筆 BÚT
毛穎先生年少志, Mao Dĩnh tiên sinh niên thiếu chí,
古今著述大勛勞。 Cổ kim trước thuật đại huân lao.
將軍一獵中山後, Tướng quân nhất liệp Trung Sơn hậu,
文燄光芒萬丈高。 Văn diễm quang mang vạn trượng cao.
* Chú thích :
- BÚT 筆 : Ở đây là Cây bút lông.
- Mao Dĩnh 毛穎 : Chỉ cái bút lông. Lại có nghĩa Mao là Mao Toại 毛遂, DĨNH 穎 là Đầu bông lúa, đầu ngọn lúa, là mũi nhọn. Mao Toại là môn khách Bình Nguyên Quân nước Triệu. Khi nước Triệu bị xâm lược, Toại theo Bình Nguyên Quân đi sứ sang Sở, xin Sở liên quân với Triệu chống xâm lược. Toại hùng biện đến nỗi vua Sở phải đồng ý điều quân liên minh. Bình Nguyên Quân khen: “Toại chỉ dùng ba tấc lưỡi mà có sức mạnh hơn hàng vạn quân binh”. Người ta nói: “Khi Mao Toại trổ tài, thì như cái dùi nhọn trong bọc, bấy giờ mới lòi mũi ra”.
- Đại Huân Lao 大勛勞 : là Công lao cực khổ to lớn.
- Trung Sơn 中山 : là tên núi giáp giới với 2 tỉnh An Huy và Giang Tô (Trung Hoa), là vùng sản xuất bút lông thỏ nổi tiếng rất tốt. Câu này ý nói cái bút lông được làm ra và phát triển từ núi Trung Sơn.
- Văn Diễm 文燄 : DIỄM là ngọn lửa, ánh lửa; nên VĂN DIỄM là ánh lửa văn chương; QUANG MANG là là tia sáng rực rỡ, Vì thế VĂN DIỄM QUANG MANG 文燄光芒 là Ánh sáng rực rỡ của ngọn lửa văn chương.
* Nghĩa bài thơ :
Cây Viết
Cái ông Mao Dĩnh tiên sinh nầy (chỉ cây bút) từ nhỏ đã có chí lớn, ông ta đã thuật lại và trước tác biết bao nhiêu chuyện cổ kim, làm nên biết bao công lao to lớn và khó nhọc. Sau lần tướng quân đi săn ở núi Trung Sơn về (đã bắt được rất nhiều thỏ để cho rất nhiều bút lông ra đời), thì ánh sáng rực rỡ của ngọn lửa văn chương cũng đã bùng lên cao muôn trượng (Vì nhờ có cây bút ghi lại để truyền lưu đến muôn đời!)
* Diễn Nôm :
BÚT
Trời sinh Mao Dĩnh chí anh hào,
Trứ tác cổ kim công lớn lao.
Săn thỏ Trung Sơn gom tạo bút,
Văn chương như đuốc ngút trời cao !
Lục bát :
Mao Dĩnh người nhỏ chí cao,
Từ xưa ghi chép công lao ngất trời.
Trung Sơn tạo bút khắp nơi,
Văn chương như đuốc rạng ngời vút cao !
Mời xem tiếp phần (2).
杜紹德
ĐỖ CHIÊU ĐỨC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét