LỤT HUẾ
Mời đọc lại bài viết về lụt Huế. Bài viết đã 30 năm rồi mà mỗi lần nghe tin Lụt Huế mình mang ra đọc và vẫn còn nguyên xúc động rưng rưng nước mắt vì mình viết rất thật.
trời hành cơn lụt mỗi năm
****
Ký ức tuổi thơ là một thung lũng xanh, mà nơi đó thời gian đã phủ lên từng phiến đá, gốc cây một lớp sương mù lãng đãng. Dù thực tế có gai góc đến đâu, nhưng khi nghĩ về kỷ niệm ấu thời, những người lớn - hiểu như là khách trần gian đang lần bước đến tuổi già - khi nào cũng thấy "ngày xưa đó" một cách rất êm đềm và dịu ngọt.
Phải chăng vì thế mà suốt gần 40 năm, bốn mươi mà nhân cho mỗi năm ít nhất nhỏ to là 5 trận lụt, thành ra có đến hơn 200 cơn lụt Huế đã qua trong đời tôi một cách... tĩnh mà mê, xuôi tay theo "trời xanh quen thói..." (!)
Từ những ngày bé xí chân quê ở làng Liễu Hạ, hàng năm, tôi cũng như lũ bạn xóm Côi, xóm Cụt, xóm Bàu chuẩn bị tinh thần "nghênh" lụt một cách rất ...thơ! Sáp nhỏ, hình như đứa nào cũng thuộc lòng hai câu vè "tiên tri" cá lên trời ăn sao. Chú Đoài, gã hát lời tiên tri, miệng thường ngậm điếu thuốc lá ngọn to gần bằng ngón chân cái, hút bập bập vài phát, rồi dắt điếu thuốc thời Aâu Cơ lên mang tai. Khi nói vè, mắt chú nhắm nghiền như đang vân du về một trận đại hồng thủy xẩy ra đâu đó - không rõ từ trong hoài niệm quá khứ hay mường tượng về một tương lai:
(Úi cha) Sông Ngân Hà (mà) vịt lội có ngời,
(Chơ) Cá to, cá nhỏ lên trời (mà) đớp sao (á...a)
Có nhiều đêm trăng mùa tháng tám, dưới ánh trăng đồng quê chảy tràn lan trên rơm rạ mới, tôi nằm giữa chiếc nong to phơi lúa ngoài sân mà vẽ ra một cảnh lụt tuyệt vời. Tôi mường tượng thấy đàn vịt bầy đủ màu của chú Xang, chú Hói bơi lội "có ngời" trên dòng sông trời đầy nước bạc lung linh. Và bầy cá mở miệng tròn xoe đớp những vì sao mọng nước óng vàng. Tôi không cần ưu tư tự hỏi mình sẽ ngồi ở đâu khi nước đã lút tới trời! Tuổi thơ là thơ không tuổi, nên mơ mộng và thực tế thường quyện vào nhau man man như mây trời và áo trắng.
Bão năm Thìn (1924), lụt Năm Ba (1953), thất thủ Kinh Đô năm Ất Dậu (1885)... là những biến cố khủng khiếp nhất trong khái niệm về tai trời ách nước của người dân xứ Huế.
Tôi "suýt thấy cá ăn sao" năm lên bảy tuổi với trận lụt Năm Ba. Trận lụt được xem là lớn nhất trong lịch sử nước lũ mưa nguồn của Huế vào thời đó. Mùa Đông năm Quý Tỵ. Không ai nhớ mưa đã mấy ngày. Cơn lụt nhỏ bình thường đến và sắp đi ngoài ngõ cũng chẳng làm ai ngạc nhiên hay sợ hãi. Một đêm, tôi nghe những tiếng vọng ì ầm như có tiếng gì chuyển động nặng nề từ dưới lòng đất sâu dội lên. Mẹ tôi gọi đó là "sấm đất"; rồi mẹ giải thích rằng, sấm đất xảy ra là trời đang... "đổi chủ". Ông chủ trời mới thường hay ra oai bằng cách sai thần sấm, thần sét gõ búa đùng đùng; bắt quyết, đọc bùa làm mưa to gió lớn.
Tôi ngủ quên trong tiếng mưa lũ xé lá bên ngoài và chuyện huyền thoại đất trời do mẹ kể - như miếng ớt cay giúp quên mùi mắm mặn - hay sự an ủi để đủ sức chịu đựng của mẹ, của dân làng khi mỗi năm trời hành cơn lụt (?). Nửa đêm thì có tiếng o Cúc la lên là nước lụt đã vô nhà. Mưa từng cơn ào ào xối xả. Thức dậy, tôi dụi mắt ngồi co ro từ trên giường nhìn xuống ánh đèn dầu chiếu nước đã lênh láng khắp nhà. Mưa càng lớn, nước càng lên nhanh. Nước leo dần lên giường, lên ghế, lên bàn, lên cái cối xay, và sáng ra thì nước đã mấp mé khung cửa sổ. Cái giường tre mỏng manh mỗi lúc được kê lên cao dần. "Lẽ sống" của cả bốn người trong gia đình tôi chất gọn trên chiếc giường. Thức ăn, áo quần, mền chiếu, bếp núc đều dồn lên trên bốn cái chân tre ốm yếu lắc lư theo đà chao động của nước. Đến gần trưa thì bốn vó tre già từ từ gục xuống. Thế là xong, lẽ sống chìm sâu trong nước. Biên giới cuối cùng giữa sống và chết, giữa ước mơ và thực tại, giữa bây giờ và vĩnh cửu là cái thang tre run rẩy dưới sức bám của bốn người. Chỉ còn một nơi "cao cả" nhất trong nhà là cái "tra" đựng lúa. "Tra" là cái thùng gỗ an toàn có khung bắt dính với rầm thượng và mái nhà, nằm phía trước bàn thờ chính ngay gian giữa. Đó là cái kho an toàn đựng lúa và nơi cất giữ đồ quý báu của phần đông dân quê Việt Nam. Trời lạnh, quần áo ướt đầm mà tôi vẫn thấy mồ hôi nhỏ dòng trên trán mẹ với da mặt đổi từ xanh xao sang màu xám khi mẹ tôi quyết định mở tra, đổ lúa xuống nước chừa chỗ cho chúng tôi chui vào. Dòng lúa như dòng máu vàng đẩm mồ hôi và nước mắt của tháng ngày làm ruộng chảy xuống nước tỏa bụi mù, tung nước bọt.
Chưa bao giờ tôi thấy mẹ tôi lặng lẽ như phút đó. Tôi ngạc nhiên thấy mẹ tôi lấy hết mo cơm bới để dành trong góc tra từ hôm trước và ép mọi người, nhất là tôi, "gắng ăn no cho có sức". Đã hai ngày, mỗi bữa chỉ được ăn một vắt cơm độn với sắn lát, nay bỗng dưng được ăn cơm trắng ấm bụng, tôi nuốt không kịp nhai với nỗi khoái cảm tuyệt vời mà không chắc đời sẽ có được hai lần. Trong xó tra với ánh sáng mờ mờ do nước bạc hắt lên từ khe hở trên cùng còn sót lại của khung cửa sổ, tôi thấy mẹ tôi mở cái tráp mây củ kỹ lấy đôi bông tai bằng thòa thời cưới hỏi xa xưa của mẹ đeo lên. Xong mẹ bò xuống thang, lần mò tới mở sợi dây dừa cột giàn xay lúa một nửa chìm xuống nước. Mẹ leo lên tra trở lại với sợi dây dừa và cái mác trong tay. Chị tôi phải ôm mẹ bồng lên tra vì mẹ bỗng run lẩy bẩy. Mẹ tôi túm tay chúng tôi lại, giọng lạc đi: "Cột tay lại! Cột tay lại! Chặt đòn tay trổ nóc. Chết chung..." Tiếng mẹ tôi yếu dần trong cơn xúc động. Bảy tuổi nhưng tôi đủ hiểu mẹ tôi muốn gì. O Cúc là người cuối cùng đưa bàn tay sũng nước, trắng dẻ và nứt nẻ từng mảng da vì dầm nước quá lâu, vào vòng dây thòng lọng. Tôi ấp bàn tay lạnh lẽo, tím ngắt của mẹ vào lồng ngực bé xíu, nhưng còn âm ấm dưới hai tầng áo ướt của tôi, cùng lúc với tiếng reo vui của chị Thuyền như vừa khám phá ra điều gì vừa đột biến: "Nước cầm chừng rồi mạ ơi!"
Bốn mươi sáu năm sau, từ phút "nước cầm chừng" nên tôi còn sống sót đến hôm nay, điện thư đầu tiên của Dũng lọt ra khỏi Huế, đến Mỹ vào lúc nửa đêm sau cơn lũ lụt cao hơn trận lụt 1953 quá 1 mét: "Đoàn ơi! Nước đang rút dần nhưng vùng thượng nguồn mây vẫn còn vần vũ đe dọa. Nghe tin một làng nào đó ở Bãng Lãng bị nước cuốn sạch. Trưa nay trước bình phong Quốc Học có hơn hai chục xác người bị nước cuốn tấp vào bờ sông Hương vừa được vớt lên. Có cả gia đình mọi người tay còn buộc dính vào nhau." Tôi run lên, mắt mờ đi. Lặng người vì xúc động, tôi sờ lên cườm tay. Cảm giác sợi dây dừa ướt quàng quanh cổ tay, phập phồng theo nhịp đập của những trái tim thương yêu, ràng buộc, đợi chờ đã nửa thế kỷ qua rồi sao vẫn còn nguyên vẹn. Mưa bên trời quê hương mà cơn lũ trong lòng tôi cũng dâng lên từ phương nầy, cuống quýt. Tội lắm. Huế ơi!
TRẦN KIÊM ĐOÀN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét