Góc Việt Thi :
Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (9)
41. Bài thơ TIỂU CHƯỚC :
小酌 TIỂU CHƯỚC
萬里春霄月色新, Vạn lý xuân tiêu nguyệt sắc tân,
清風浩氣自家身。 Thanh phong hạo khí tự gia thân.
一杯足慰平生願, Nhất bôi túc ủy bình sinh nguyện,
行酒何為殺美人。 Hành tửu hà vi sát mỹ nhân ?!
黎聖宗 Lê Thánh Tông
* Chú thích :
- TIỂU CHƯỚC 小酌 : CHƯỚC là Rót rượu uống; Như: Độc Chước 獨酌 là Uống rượu có một mình. CHƯỚC còn có nghĩa là “Tiệc Rượu”; Như HỈ CHƯỚC 喜酌 là Tiệc rượu mừng đám cưới. Nên TIỂU CHƯỚC 小酌 là Buổi tiệc nho nhỏ. Nhưng ở đây là "buổi tiệc nho nhỏ của nhà vua", chớ không phải của dân thường.
- Hạo Khí 浩氣 : là HẠO NHIÊN CHI KHÍ 浩然之氣 chỉ Chính khí, cái tinh thần chính đại cương trực. Có xuất xứ từ câu nói trong sách Mạnh Tử 孟子: “Ngã thiện dưỡng ngô hạo nhiên chi khí” 我善養吾浩然之氣 (Công Tôn Sửu thượng 公孫丑上) Ta phải luôn nuôi dưỡng cái tinh thần chính đại cương trực của ta cho khéo. Đây là cái tự hào của nhà vua về cái Hạo Khí chính trực to lớn của dòng dõi hoàng tộc của mình.
- Câu chót 行酒何為殺美人。Hành tửu hà vi sát mỹ nhân ?!Trong khi tiến hành tiệc rượu vui vẻ, sao lại phải giết người đẹp chứ ?! Có xuất xứ từ truyện Thạch Sùng trong "Kim Cốc Nhị Thập Tứ Hữu 金谷二十四友" (24 người bạn trong Kim Cốc Viên) như sau :
Thạch Sùng 石崇(249年—300年)tự là Qúy Luân, người đất Bột Hải Nam Bì (thuộc tỉnh Hà Bắc hiện nay) là cự phú thời Tây Tấn. Tương truyền mỗi khi yến tiệc đãi khách, các người đẹp hầu rượu mời rượu không khéo hoặc khách không uống rượu của người đẹp mời, bèn cho vệ sĩ chém đầu người đẹp đó ngay. Có một bận Thừa tướng Vương Đạo và Đại tướng Quân Vương Đôn cùng dự tiệc ở nhà Thạch Sùng. Vương Đạo tuy không biết uống rượu nhưng vẫn phải uống đến say mèm, chỉ có Vương Đôn từ chối là mình không thích uống rượu; Thạch Sùng nỗi giận liên tiếp chém đến 3 người đẹp mời rượu mà Vương Đôn vẫn không chịu uống. Thừa Tướng Vương Đạo bèn trách Vương Đôn sao không uống rượu để cho ba người đẹp bị chém. Vương Đôn đáp rằng :" Va chém người nhà của va, can chi đến ông mà lên tiếng !?"...
* Nghĩa Bài Thơ :
Bữa Tiệc Nho Nhỏ
Vầng trăng mới tỏa sáng đến muôn vạn dặm trong đêm xuân; Gió mát nhẹ lay trong cái khí hạo nhiên của gia tộc ta đây. Một ly rượu cũng đủ để yên ủi cho cái ước nguyện bình sinh của ta rồi; Trong lúc uống rượu vui vẻ như thế nầy sao lại phải giết người đẹp như thế ?!
* Diễn Nôm :
TIỂU CHƯỚC
Muôn dặm đêm xuân ánh nguyệt trong,
Gió hòa hạo khí tự gia phong.
Một ly đủ thỏa bình sinh nguyện,
Chuốc rượu sao đành giết mỹ nhân ?!
Lục bát :
Đêm xuân trăng sáng trời xa,
Gió xuân hạo khí nhà ta đây rồi.
Một ly đủ thỏa nguyện đời,
Nở đành tiệc rượu chém người đẹp sao ?!
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
42. Bài thơ TAM CANH NGUYỆT :
三更月 Tam canh nguyệt
三更風露海天寥 Tam canh phong lộ hải thiên liêu,
一片寒光上碧霄 Nhất phiến hàn quang thượng bích tiêu.
不照英雄心曲事 Bất chiếu anh hùng tâm khúc sự,
承雲而去夜迢迢 Thừa vân nhi khứ dạ thiều thiều.
黎聖宗 Lê Thánh Tông
* Chú Thích :
Bài thơ trên đây được chép theo tài liệu trong "Hoàng Việt Văn Tuyển 皇越文選" của Hi Văn Đường 希文堂, nên khác với bản trong "thivien.net" ở :
- Chữ BÍCH 璧 (là Ngọc Bích) và BÍCH 碧 (là Xanh biếc)trong từ BÍCH TIÊU 碧霄 (Bầu trời xanh biếc) trong câu thứ 2.
- Từ TÂY TIẾN 西進 (Tiến về hướng tây) và NHI KHỨ 而去 (Mà đi) trong câu thứ 4.
Hoàng Việt Văn Tuyển của Hi Văn Đường
* Nghĩa Bài Thơ :
Trăng Canh Ba (Trăng Nửa Đêm)
Lúc Canh ba nửa đêm, sương gió biển trời bao la mờ mịt. Một vừng sáng lạnh mọc lên trên nền trời xanh biếc. (Ánh trăng) không soi rọi chiếu vào những chuyện khuất tất trong lòng của kẻ anh hùng, mà vẫn thản nhiên cưởi mây bay về phía trời xa trong đêm trường mờ mịt !
Cảnh vật vẫn thản nhiên lạnh lẽo vô tình diễn tiến, đâu có biết gì đến những uẩn khúc trong lòng của những kẻ anh hùng đang bâng khuâng nhìn ngắm mà tâm sự chập chùng !
* Diễn Nôm :
TAM CANH NGUYỆT
Biển trời sương gió cảnh bao la,
Nền biếc một vầng sáng lạnh nhòa.
Chẳng thấu anh hùng lòng uẩn khúc,
Theo mây đêm vắng hướng trời xa !
Song thất lục bát :
Canh ba trời đất nhòa sương gió,
Sáng một vừng tỏ rõ trời xanh.
Chẳng soi uẩn khúc hùng anh,
Cưởi mây đêm vắng bay nhanh về ngàn !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
43. Bài thơ TRÀO NHÂN ẨM TỬU :
嘲人飲酒 TRÀO NHÂN ẨM TỬU
醉憐樂子啜餔名, Túy lân Nhạc Tử xuyết bô danh,
瓶落齏湯古井盈。 Bình lạc tê thang cổ tỉnh doanh.
信是陶公不及亂, Tín thị Đào Công bất cập loạn,
勿從李白遠騎鯨。 Vật tòng Lý Bạch viễn kỵ kình !
黎聖宗 Lê Thánh Tông
* Chú thích :
- Trào 嘲 : là Cười cợt. TRÀO NHÂN 嘲人 là Cười cợt người nào đó.
- Nhạc Tử 樂子 : là Nhạc Chính Tử 樂正子. Theo sách Mạnh Tử chương Li Lâu Thượng : Nhạc Chính Tử là học trò của Mạnh Tử, theo Tử Ngao sang Tề. Khi đến gặp thầy; Mạnh Tử bảo Nhạc Tử rằng : “Ngươi theo Tử Ngao là theo hạng ăn nhậu đấy, người học đạo cổ mà không hành đạo thì chỉ là phường ăn nhậu mà thôi!”
- Xuyết Bô 啜餔 : là đão ngữ của BÔ XUYẾT 餔啜 chỉ sự ăn uống.
- Tê Thang 齏湯 : Trong Kỳ Đình Ngũ Thủ của Tô Đông Pha 蘇東坡 đời Tống có 2 câu “Toan tửu như TÊ THANG, Điềm tửu như mật trấp 酸酒如虀湯,甜酒如蜜汁” Có nghĩa : Rượu chua thì như canh rau xoàng, còn Rượu ngọt thì như mật ong.
- Đào Công 陶公 : là Ông họ Đào, chỉ Đào Khản 陶侃(259—334)tự là Sĩ Hành, người đời Đông Tấn uống rượu rất khoẻ, nhưng rất có chừng mực, không để qúa say. Ông chủ trương tích vật 惜物 (thương tiếc đồ vật) nên cho rằng : Uống quá say sẽ phí rượu đi.
- LÝ Bạch Kỵ Kình 李白騎鯨 : là Lý Bạch cởi cá kình. Tương truyền khi Lý Bạch uống say nhảy xuống dòng Thái Thạch để ôm trăng; chẳng bao lâu sau ông cởi cá kình từ giữa lòng sông bay lên không và mất hút trong mây trời.
* Nghĩa bài thơ :
Cười Cợt Những Người Uống Rượu
Khá thương cho Nhạc Chính Tử khi uống say lại mang tiếng là phường ăn nhậu; Bình rơi những thứ rượu xoàng đổ ra như nước giếng xưa dâng tràn. Hãy tin và uống như ông Đào Khản có chừng mực sẽ không hỗn loạn; Đừng học theo kiểu Lý Bạch uống say rồi nhảy xuống nước ôm trăng và cởi cá kình đi...xa !
* Diễn Nôm :
TRÀO NHÂN ẨM TỬU
Nhạc Tử rượu say tiếng hám ăn,
Bình rơi rượu vỡ giếng xưa tràn.
Đào Công chừng mực không quờ quạng,
Lý Bạch cởi kình say vớt trăng !
Lục bát :
Nhạc Tử say, tiếng hám ăn,
Rượu chua bình vỡ khôn ngăn giếng tràn.
Đào Công chừng mực cầu an,
Lý Bạch cởi cá ngút ngàn về tiên !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
中江洲夜泊 TRUNG GIANG CHÂU DẠ BẠC
夜靜無風宿露消, Dạ tịnh vô phong túc lộ tiêu,
樓頭對日舉盃邀。 Lâu đầu đối nhật cử bôi yêu.
更闌半掩蓬窗坐, Canh lan bán yểm bồng song tọa,
潮漲平江水白橋。 Triều trướng bình giang thủy bạch kiều !
黎聖宗 Lê Thánh Tông
* Chú thích :
- Châu 洲 : nghĩa xưa là Cồn, bãi, bến nước. TRUNG GIANG CHÂU DẠ BẠC 中江洲夜泊 là "Đêm Ghé Thuyền ở Bãi Sông Trung Giang". CHÂU 洲 có 3 chấm Thủy 氵ngày nay có nghĩa là CHÂU LỤC 洲陸, như Á Châu, Âu Châu , Mỹ Châu...
- Túc Lộ 宿露 : là Sương đêm.
- Yêu 邀 : là Mời mọc. Cây thơ nầy làm cho ta nhớ đến hai câu thơ của Lý Bạch trong bài "Nguyệt Hạ Độc Chước" là :
舉杯邀明月, Cử bôi YÊU minh nguyệt,
對影成三人。 Đối ảnh thành tam nhân.
Có nghĩa :
Nâng ly MỜI trăng sáng,
Đối bóng nữa ba người !
- Canh Lan 更闌 : là Canh sắp tàn.
- Bồng Song 蓬窗 : Không phải là cửa sổ bằng CỎ BỒNG, mà là chỉ "Cửa sổ trên thuyền". Đây là từ chuyên dùng cho thuyền bè. BÁN YỂM 半掩 là khép một nửa; nên BÁN YỂM BỒNG SONG 掩蓬窗坐 là Khép hờ của sổ của khoang thuyền lại.
* Nghĩa bài thơ :
ĐÊM GHÉ THUYỀN Ở BÃI SÔNG TRUNG GIANG
Đêm vắng lặng không có gió và sương đêm cũng đã tan cả rồi, ngồi trên lâu thuyền ta cất chén hướng về phía mặt trời mời mọc. Canh cũng đã tàn, ta ngồi bên cửa sổ thuyền chỉ khép hờ, xa xa nước thủy triều lên làm dòng sông đầy nước phẵng lặng phủ trắng các cây cầu !
* Diễn Nôm :
TRUNG GIANG CHÂU DẠ BẠC
Đêm thanh gió lặng xóa nhòa sương,
Nâng chén cùng mời đối vầng dương.
Nửa khép cửa song canh sắp hết,
Sông đầy nước lớn trắng cầu đường.
Lục bát :
Đêm yên gió lặng nhòa sương,
Trước lầu nâng chén vầng dương cùng mời.
Canh tàn song cửa khép lơi,
Triều dâng sông nước trắng ngời cầu xa !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
45. Bài thơ TRÚ CỔ QUÝ SƠN :
駐古貴山 TRÚ CỔ QUÝ SƠN
旌旗拂拂暮風多, Tinh kỳ phất phất mộ phong đa,
落葉紅於二月花。 Lạc diệp hồng ư nhị nguyệt hoa.
回首人生非夙昔, Hồi thủ nhân sinh phi túc tích,
悲歡情緒亂如麻。 Bi hoan tình tự loạn như ma !
黎聖宗 Lê Thánh Tông
* Chú thích :
- TRÚ 駐 : là Đồn Trú là Đóng lại, lưu lại ở đâu đó. TRÚ CỔ QUÝ SƠN 駐古貴山 là Lưu lại, nghỉ lại ở núi Cổ Qúy.
- Tinh Kỳ 旌旗 : là Cờ xí, phướng lộng.
- Túc Tích 夙昔 : là Ngày xưa , thuở xưa.
- Tình Tự 情緒 : là Tâm lý tình cảm.
- Loạn Như Ma 亂如麻 : là Rối như là cuộn chỉ gai; Ta nói là "Rối như Tơ vò".
Riêng câu thứ 2 giống như câu cuối trong bài SƠN HÀNH 山行 của Đỗ Mục 杜牧 đời Đường như sau :
遠上寒山石徑斜, Viễn thượng hàn sơn thạch kính tà,
白雲生處有人家。 Bạch vân sanh xứ hữu nhân gia.
停車坐愛楓林晚, Đình xa tọa ái phong lâm vãn,
霜葉紅於二月花。 Sương diệp hồng ư nhị nguyệt hoa.
Có nghĩa :
Xa tít núi cao lối đá bày,
Nhà ai thấp thoáng dưới mây bay.
Dừng xe ngắm rừng phong chiều xuống,
Lá đỏ còn hơn hoa tháng hai !
* Nghĩa bài thơ :
Lưu Lại Ở Núi Cổ Quý
Cờ xí phần phật trong gió chiều thổi mạnh, Lá cây núi rụng đỏ còn hơn cả hoa tháng hai. Quay đầu nhìn lại cuộc sống đã qua, giờ đã khác xưa mất rồi; Nỗi buồn vui trong lòng lẫn lộn rối tựa như tơ !
Cuộc sống vinh hoa phú quý đến tột đĩnh như vua chúa, khi quay đầu nhìn lại cũng còn cảm khái cho cuộc sống đã qua, huống chi người thường nỗi lòng bi hoan ly hợp còn xúc động và cảm khái đến mức độ nào !
* Diễn Nôm :
TRÚ CỔ QUÝ SƠN
Phất phơ cờ xí gió chiều lay,
Lá rụng đỏ hơn hoa tháng hai.
Nhìn lại cuộc đời đà khác trước,
Vui buồn lòng rối tợ tơ bày !
Lục bát :
Phất phơ cờ xí gió chiều,
Tháng hai lá rụng đỏ nhiều tựa hoa.
Quay đầu cuộc sống khác xa...
Vui buồn lòng rối như là vò tơ !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Hẹn bài viết tới !
杜紹德
ĐỖ CHIÊU ĐỨC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét