Thứ Tư, 12 tháng 12, 2018
PHÂN CỰC VÀ GIAO THOA GIỮA CÁC DÒNG NHẠC VIỆT 1930 ĐẾN NAY - LÊ THIÊN MINH KHOA
Phác thảo bìa cuốn sách “9 thập kỷ ca khúc tân nhạc Việt Nam”- Lê Thiên Minh Khoa.
|
PHÂN CỰC VÀ GIAO THOA
GIỮA CÁC DÒNG NHẠC VIỆT 1930 ĐẾN NAY
LÊ THIÊN MINH KHOA
Trong quá trình phát triển của ca khúc tân nhạc Việt Nam, tùy theo giai đoạn, thời đoạn, các dòng nhạc, các xu hướng trào lưu âm nhạc có khi cùng song song tồn tại, có khi đối lập nhau, có khi vừa phân cực vừa giao thoa với nhau, bổ sung hỗ trợ lẫn nhau, có khi hòa nhập vào nhau, hợp lưu lại với nhau… Sự phân cực và giao thoa giữa các dòng nhạc Việt trong 9 thập kỷ hình thành, tồn tại, phát triển ca khúc tân nhạc Việt sẽ được trình bày theo từng giai đoạn, thời đoạn trong không gian âm nhạc lưu hành:
NS La Hối
Trong giai đoạn tiền chiến 1930-1945:
Do sự khác biệt về nhân vật trữ tình, đối tượng trữ tình, nội dung phản ánh và cả giai điệu của ca khúc mà phân định thành ba dòng nhạc: nhạc hùng, nhạc đỏ, nhạc tiền chiến. Nhưng ba dòng nhạc khác nhau này trong quá trình hình thành, đồng hành tồn tại và phát triển thường giao thoa với nhau. Rõ rệt nhất là sự gần gũi nhau giữa dòng nhạc đỏ (cách mạng) và dòng nhạc hùng (yêu nước). Hai dòng nhạc nầy về giai điệu chủ yếu là hành khúc, về nội dung ca khúc, chúng gặp nhau ở hai điểm là dân tộc và đấu tranh, nhất là vào cuối giai đoạn, khi Mặt trận Viêt Minh ra đời (1941), nhiều nhạc sĩ nhạc hùng tham gia vào phong trào Việt Minh và trở thành chiến sĩ Cách mạng hoặc chịu ảnh hưởng của Mặt trận. Khi đó, dòng nhạc hùng gần như hòa nhập vào dòng nhạc đỏ (Nên phải xác định chính xác thời điểm bản nhạc được viết, mới xếp loại đúng dòng nhạc của nó, mà có rất nhiều ca khúc, các nhà nghiên cứu âm nhạc không thống nhất về năm sáng tác!). Vì lúc này hai dòng nhạc hòa vào nhau nên có nhiều ca khúc xếp vào dòng nhạc nào trong hai dòng nhạc đó, nhạc hùng và nhạc đỏ, cũng được, như các bản nhạc của Lưu Hữu Phước và nhóm Hoàng Mai Lưu: Tiếng gọi sinh viên, Hồn tử sĩ, Bạch Đằng giang, Ải Chi Lăng, Hội nghị Diên Hồng, Hờn Sông Gianh... Còn nhạc hùng và nhạc tiền chiến dù khác nhau ở giai điệu (một bên là hành khúc, nhanh mạnh và một bên là trữ tình, nhẹ nhàng) và nhân vật trữ tình (một bên là cái ta - công dân và một bên là cái tôi - cá nhân), nhưng trong đối tượng trữ tình có một nội dung giống nhau là đề tài quê hương.
Trước 1946, có những nhạc sĩ sáng tác cả ba dòng nhạc: Tô Vũ (Hoàng Phủ), Văn Cao, Hoàng Quý… Còn viết cả hai dòng nhạc thì nhiều. Nhạc tiền chiến và nhạc hùng có: Thẩm Oánh, Phạm Duy, Canh Thân, Phạm Ngữ, Nguyễn Mỹ Ca, La Hối…; nhạc hùng và nhạc đỏ là có: Lưu Hữu Phước và nhóm Hoàng Mai Lưu… Đặc biệt là Đỗ Nhuận có “bước chuyển” sáng tác hai dòng nhạc này - nhạc hùng và nhạc đỏ, trong hai thời đoạn khác nhau của cuộc đời mình (trước và trong - sau khi bị tù, 1943).
2. Trong giai đoạn 1946-1954:
Trong giai đoạn 1946-1954, ở vùng kháng chiến, thời điểm phân cực nhạc vàng - nhạc đỏ là đầu thập niên 50.
Năm 1946, hưởng ứng Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, tuyệt đại đa số trí thức, văn nghệ sĩ (VNS) bỏ chốn phồn hoa đô hội lên chiến khu gian khổ để đánh giặc bằng ngòi bút và trí tuệ của mình. Cho đến cuối thập niên 40, nhiều tác phẩm văn nghệ xuất sắc ra đời. Về văn xuôi có: Dân khí miền Trung của Hoài Thanh, Một lần đến Thủ đô, Trận Phố Ràng của Trần Đăng, Đôi mắt, Nhật ký ở rừng của Nam Cao, Làng của Kim Lân, Thư nhà của Hồ Phương.... Về thơ ca, có Sáng tháng năm của Tố Hữu, Tình sông núi của Trần Mai Ninh, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đôi mắt người Sơn Tây, Tây tiến, Đôi bờ của Quang Dũng, Dọn về làng của Nông Quốc Chấn, Sáng mát trong như sáng năm xưa, Đêm mít tinh của Nguyễn Đình Thi, Nhà tôi của Yên Thao, v.v…
NS Trần Kiết Tường
Riêng âm nhạc, đa số các nhạc sĩ đều tham gia kháng chiến, các nhóm nhạc nổi tiếng đương thời như Myosotis (Hoa lưu ly), Tricéa, Đồng Vọng, Tổng Hội Sinh Viên, Hoàng Mai Lưu… cũng vào chiến khu. Họ là những nhạc sĩ thuộc nhiều xu hướng, trào lưu, nhiều dòng nhạc khác nhau trước đây: nhạc hùng, nhạc đỏ, tình ca… đều hợp lưu về một mối: dòng nhạc kháng chiến. Vì vậy, nhạc cách mạng được mùa với sự nở rộ của rất nhiều ca khúc về đề tài dân tộc, kháng chiến, khẳng định tài năng của các nhạc sĩ nổi danh trước đó, đồng thời nảy sinh nhiều tên tuổi mới cho nền âm nhạc dân tộc. Có thể kể ra: Phạm Văn Nhượng, Trần Dư, Vũ Khánh, Văn Chung, Lê Yên, Doãn Mẫn, Hoàng Quý, Phạm Ngữ, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Canh Thân, Hoàng Phủ (tức Tô Vũ), Hoàng Vân, Nguyễn Văn Thương, Trần Hoàn, Phan Huỳnh Điểu, Dương Minh Viên, Ngô Huỳnh, Hoàng Việt, Nguyễn Hữu Trí, Trần Kiết Tường, Phạm Duy, Hùng Lân, Đoàn Chuẩn, Hoàng Thi Thơ, Hoàng Giác, Võ Đức Thu, Văn Phụng, Trần Văn Khê, v.v…
NS Hoàng Vân. Ảnh: L. A. Dũng.
Sự được mùa của ca khúc kháng chiến đánh dấu sự thực sự trưởng thành của nhạc cách mạng, hay "nhạc đỏ". Tuy vậy, ngay trong số những nhạc sĩ kháng chiến, nhiều người vẫn tiếp tục viết các ca khúc lãng mạn và được xếp vào dòng nhạc tiền chiến như các nhạc sĩ: Trần Hoàn, Phạm Duy, Nguyễn Văn Tý, Hoàng Giác, Tô Hải, Tô Vũ, Ngô Huỳnh, Nguyễn Đức Toàn, Huy Du, Việt Lang, Trần Văn Khê, Tử Phác, Văn Cao, Hoàng Việt, Đoàn Chuẩn, Nguyễn Đình Phúc,…
Trong giai đoạn này, tại Pháp trong những năm 1949 tới 1951, hãng đĩa Oria đã thu một số đĩa nhựa 78 vòng tiếng hát của các ca sĩ Hải Minh, Bích Thuận, Hoàng Lan, Văn Lý những ca khúc Hội nghị Diên Hồng của Lưu Hữu Phước, Chiến sĩ vô danh của Phạm Duy, Tiếng thùy dương, Hòa bình 48 của Lê Thương, Trách người đi của Đan Trường...
Rồi mùa sáng tác “vô tư” cũng qua đi. Từ đầu thập niên 50, do ảnh hưởng của Cách mạng Trung Quốc (thành công năm 1949) và chủ nghĩa tư tưởng mới xuất hiện của cách mạng Trung Quốc, đường lối văn học - nghệ thuật trong vùng kháng chiến Việt Nam có nhiều thay đổi, trong đó có cuộc kiểm thảo chống tư tưởng lãng mạn tiểu tư sản trong sáng tác. Trong văn nghệ (văn chương, hội họa, sân khấu, âm nhạc…), các trào lưu sáng tác cổ điển, hiện thực, lãng mạn, siêu thực ... bị hạn chế, và chính phủ động viên, ưu tiên văn nghệ sĩ sáng tác theo phương pháp mới- chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Âm nhạc cũng theo xu thế văn nghệ chung đó.
NS Đoàn Chuẩn
Do đó, sự phân cực âm nhạc bắt đầu: Trong vùng kháng chiến, từ thập niên 1950, các dòng nhạc khác (không phải nhạc đỏ) bị nghiêm cấm sáng tác và trình diễn, khi mượn khái niệm niệm “nhạc vàng" du nhập từ phong trào "Bài nhạc mảu vàng" (huangse yinyue: hoàng sắc âm nhạc) thời Mao Trạch Đông ở Trung Hoa để quy chụp lên chúng. Theo đó, chúng bị coi "là thứ âm nhạc lãng mạn bi quan, hoặc khêu gợi tình dục và những khát vọng thấp kém của xác thịt", "ủy mị", “thiếu tinh thần đấu tranh cách mạng".
Rồi chuyện đau buồn đã xảy ra mà thực tình không muốn kể dài dòng ra đây. Nhiều VNS theo chủ nghĩa dân tộc thuần túy tham gia kháng chiến đã dao động; một số không viết nữa hoặc viết cầm chừng; có người do hoàn cảnh riêng, do bị Pháp bắt, hoặc không chịu được gian khổ kháng chiến đã bỏ “về tề" - về vùng Pháp chiếm đóng. Về văn học có Tô Kiều Ngân, Đinh Hùng, Chu Tử, Vũ Hoàng Chương, Sao Mai (Tần Khải Minh), Thanh Hữu (Lê Trung Hậu)… Về âm nhạc có Hoàng Thi Thơ, Hùng Lân, Đoàn Chuẩn, Hoàng Giác, Phạm Duy (sau khi viết Bên cầu biên giới được coi mang tư tưởng lãng mạn tiểu tư sản của dòng “nhạc đục" không phù hợp với dòng “nhạc trong" của Kháng chiến), v.v...
Còn ở vùng đô thị, sự phân cực giữa hai dòng nhạc sớm hơn. Từ cuối năm 1946, khi Pháp tái chiếm Việt Nam, dòng nhạc cách mang bị xếp vào nhạc cấm. Nhưng ngoài nhạc hùng và nhạc tiền chiến 1930-1945, chính quyền Pháp vẫn cho lưu hành các ca khúc trữ tình được sáng tác trong giai đoạn này của các nhạc sĩ đang tham gia kháng chiến, như: Văn Cao, Tô Vũ, Trần Hoàn, Nguyễn Văn Tý, Việt Lang, Tử Phác, Tô Hải, Ngô Huỳnh, Nguyễn Đức Toàn, Huy Du, Trần Văn Khê, Hoàng Việt, Nguyễn Đình Phúc (tên ca khúc ở trang 26, 27)... Ngoài ra, còn có những ca khúc trữ tình mới, viết theo phong cách nhạc tiền chiến của các nhạc sĩ ở lại thành, không vào chiến khu ngay từ đầu, như: Lê Thương, Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Lâm Tuyền, Thông Đạt, Lê Hữu Mục, Cung Tiến, Lê Mộng Nguyên, Phạm Mạnh Cương, Trần Trịnh, Y Vân, Lam Phương, Nguyễn Hữu Ba… Hay của các nhạc sĩ đi kháng chiến hoặc tản cư rồi “về thành” như: Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Hùng Lân, Đoàn Chuẩn, Hoàng Thi Thơ, Hoàng
Giác, Văn Phụng…
3. Trong giai đoạn 1954-1975 ở Miền Bắc và vùng Giải phóng Miền Nam:
Do nhiều nguyên nhân có thể giải thích được, người ta đã xếp loại tất cả những dòng nhạc không phải nhạc Cách mạng (nhạc đỏ) như tình khúc , nhạc xanh , nhạc tiền chiến, du ca, hay nhạc "tâm lý chiến"... đang lưu hành ở vùng đô thị Miền Nam đương thời đều là nhạc vàng cả. Nguyên nhân sâu xa là: lý luận phân cực thô sơ mà các giới chính trị, trí thức và bình dân gặp nhau: không tốt thì xấu, không ta thì là địch; phe ta thì phải tốt, phe địch thì phải xấu; điệp viên ta thì phải thông minh tài trí, bọn gián điệp thì dữ dằn ngu dốt; Tấm thì phải thiện, ngoan hiền, cuối cùng gặp sung sướng, còn Cám và bà dì ghẻ thì phải ác, xấu xa, cuối cùng bị trừng phạt. Nên không nhạc đỏ thì phải nhạc vàng, không có chuyện lưng chừng lôi thôi.
NS Phạm Tuyên.
Giai đoạn âm nhạc này ở Miền Bắc và vùng Giải phóng Miền Nam, nhạc Cách mạng chiếm vị trí độc tôn (và một số nhạc đấu tranh được sáng tác trong vùng đô thị Miền Nam), được phát trên đài, trong sinh hoạt, trong các cuộc hội diễn, biễu diễn và các dòng nhạc khác bị xếp loại nhạc vàng cả. Nhưng có một thực tiễn đáng ngạc nhiên và đáng quý là nhà nước cho phép và hỗ trợ việc lưu hành nhiều bản tình ca của Nga và Xô viết (dạng như tình khúc Việt bấy giờ đang bị cấm đoán ở các vùng miền trên) như một dòng “nhạc xanh” tồn tại song song với “nhạc đỏ” với sự yêu thích của công chúng Việt. Có thể kể ra một số ca khúc nổi tiếng trong số đó: Cachiusa (thơ Mikhail Isakovski) của Matvei Blanter; Chiều ngoại ô Matxcơva của Soloviov Sedoi; Đôi bờ (lời Grigorii Mikhailovich Pozhenyan, nhạc phim Cơn khát) của Andrey Yakovlevich; Thời thanh niên sôi nổi (thơ L. Oshanin, nhạc phim Về phía đằng kia) của Aleksandra Pakhmu-tova; Cây thùy dương (thơ Mikhain Pilipenko) của Evgenhi Podygin; Triệu bông hồng (thơ Andrey Voznesensky) của Raimond Pauls; Đàn sếu (thơ Rasul Gamzatov) của Yan Frenkel; Tình ca du mục (thơ Konstantin Podrevsky) của Boris Fomin; Chiều hải cảng của V. Solovyov- Sedoi; Kalinka của Ivan Petrovich Larionov…
NS Nguyễn Hữu Trí.
Trong số các ca khúc Nga kể trên, nhiều ca khúc do NSND Trung Kiên viết lời Việt, trong đó có ca khúc nổi tiếng Triệu bông hồng do nhạc sĩ Raimonds Pauls phổ thơ của nhà thơ lớn Andrey Voznesensky. Sau này nó gắn liền với tên tuổi của ca sĩ Ái Vân trong thập niên 1980. Theo ca sĩ Ái Vân, nhiều ca khúc nhạc Nga được đặt lời Việt đã giúp cho dòng nhạc nhẹ vẫn tiếp tục chảy tại miền Bắc sau năm 1954. Trong hồi ký Để gió cuốn đi, chị viết: “Sau năm 1954, các ca sĩ miền Bắc như Vũ Dậu, Thúy Hà, Mạnh Hà, Vân Khánh đã hát những bài hát của Liên Xô như Kachiusa, Chiều hải cảng, Cây bạch dương, Kalinka, Cuộc sống ơi, ta mến yêu người... với phong cách tươi trẻ không khác gì nhạc nhẹ sau này. Dòng nhạc nhẹ vẫn âm thầm chảy với cái áo khoác che chắn của nhạc đỏ”.
Ca sĩ Ái Vân
4.Trong giai đoạn 1954-1975 ở đô thị Miền Nam:
Sự phân chia ca khúc ở vùng đô thị miền Nam lúc này thành 6 dòng nhạc như trên chỉ là đễ dễ tiếp cận thôi. Thực ra, ở đây lúc đó, sáng tác ca khúc đa dạng và phong phú hơn nhiều, còn có các dòng nhạc khác như: hùng ca, dân ca, tình ca quê hương, nhạc tôn giáo… trong vườn hoa âm nhạc nhiều hương sắc.
Tuy nhiên, đương thời, có sự phân cực giữa các dòng nhạc mà phổ biến nhất là sự đối lập giữa hai loại nhạc đang hiện hữu: nhạc sang và nhạc vàng, là phân định theo chất lượng nhạc và giai tầng người tiếp thụ: nhạc sang (tình khúc, nhạc tiền chiến, phản chiến…) được giới có học: sinh viên, trí thức… yêu thích và nhạc vàng (còn gọi là nhạc trữ tình bình dân) được giới bình dân như: nông dân, thợ thuyền, lính, người làm thuê… mê say.
NS Phạm Đình Chương.
Nhưng không chỉ thế. Chẳng hạn, trong nhạc trữ tình bình dân có sự phân biệt giữa nhạc vàng và nhạc sến. Điểm khác biệt chính giữa "nhạc vàng" và "nhạc sến" là "nhạc vàng" thường theo nhiều thể điệu Slow, SlowRock, Rhumba, Ballade, Bolero… chịu ảnh hưởng của Thánh ca Công giáo, chậm buồn, đều đều và mang phong cách thính phòng, hát bằng giọng Bắc chuẩn, còn "nhạc sến" thường chỉ theo điệu Bolero, âm hưởng dân ca, hát bằng giọng Bắc pha hay giọng địa phương (tùy theo điệu dân ca, nhưng chủ yếu của Nam Bộ), về sau thường hay được hát bằng giọng Nam, hợp hơn với tầng lớp bình dân ở Nam bộ. "Nhạc vàng" thường phối nhạc phương Tây sang trọng hơn, có thể nói đến chia ly, cô đơn, nhưng cách thể hiện không sướt mướt, sến sẩm, ủy mị, quằn quại, khổ đau, bi lụy, sầu thương, rên rỉ…, ca từ cũng dung dị, dễ hiểu, mà không dễ dãi, ước lệ, sáo rỗng… và nội dung không nói về đồng quê, nghèo khó, hay kể một câu chuyện… như "nhạc sến”. Hoặc một dòng nhạc được giới chuyên môn tách ra thành nhánh Tình ca quê hương, do chủ đề rộng về quê hương đất nước hoặc về làng quê, đậm chất dân ca cả ba miền, không có chất sến, hát theo giọng địa phương, như nhạc của Hoàng Thi Thơ, Thanh Sơn…, nhưng thường được thể hiện bởi các giọng hát “nhạc vàng”, "nhạc sến" nên được gộp chung vào nhạc vàng, có khi là nhạc sến. Và ngay cả trong loại nhạc sang cũng có sự phân biệt giữa nhạc phong trào (nhạc phản chiến, du ca…) với nhạc thời thượng bấy giờ (nhạc trẻ, tình khúc, nhạc tiền chiến…).
NS Tôn Thất Lập
Và cũng là nhạc của giới trẻ, được giới trẻ say mê trong thập niên 60, nhưng khác với dòng nhạc trẻ phổ biến nói ở trên, "kích động nhạc" là loại nhạc "giật gân", sôi động như twist hay rock and roll, thường thường viết về người lính cộng hòa, nó gần với nhạc tâm lý chiến hơn, chứ không “vô tư” như nhạc trẻ. Nhưng vài dòng nhạc (không phải tất cả) có sự gặp nhau tạo nên phần giao chung. Trong đó, có phần giao giữa nhạc vàng và nhạc tâm lý chiến. Như đã nói, đề tài chủ yếu phổ biến của nhạc vàng là: Tình - Lính và Quê hương, nên mảng nhạc về lính của nhạc vàng và mảng tình ca về lính của nhạc tâm lý chiến là rất gần nhau, tuy không phải là trùng khớp nhau.
NS Nguyễn Phú Yên
Các nhạc sĩ được xếp chung vào dòng nhạc phản chiến có phần giao là chống chiến tranh, mong muốn hòa bình cho dân tộc, nhưng xét cho cùng, có một sự phân cực giữa các dòng nhạc này, nhất là quan niệm về chiến tranh và mục đích chống chiến tranh không phải giống nhau. Các nhạc sĩ là các chiến sĩ cách mạng “nằm vùng” như Trần Long Ẩn, Tôn Thất Lập, Trương Quốc Khánh, Nguyễn Văn Sanh… là chống chiến tranh xâm lược, đấu tranh cho hòa bình thống nhất Tổ quốc. Các nhạc sĩ theo chủ nghĩa dân tộc thuần túy (yêu nước không đảng phái chính trị) như Trịnh Công Sơn, Lê Hựu Hà, Nguyễn Phú Yên… là chống chiến tranh gây tang tóc cho quê hương, đau khổ cho đồng bào. Còn một số nhạc sĩ có quan điểm chính trị phức tạp như Phạm Duy thì đối cực rõ ràng với hai nhóm nhạc sĩ trên: vừa viết ca khúc phảnchiến, nhưng lại vừa viết những bài hát ca ngợi chế độ, ca ngợi hình ảnh và chiến công của người lính cộng hòa. Phạm Thế Mỹ, nhạc sĩ được hâm mộ trong dòng nhạc vàng lại viết cả nhạc phản chiến lẫn nhạc ca ngợi hình ảnh oai hùng, phong sương của anh lính chiến.
.
NS Nguyễn Văn Đông.
Còn phần giao giữa nhạc phản chiến và nhạc du ca cũng rất lớn, có khi gần như trùng nhau, chồng khít lên nhau, bởi dù đứng ở góc độ khác nhau nhưng đều muốn “dùng tiếng hát chung của cộng đồng để xây đắp một quê hương hòa bình, tươi sáng" (trích Tôn chỉ của Phong trào du ca). Phong trào phản chiến của sinh viên, học sinh thường hát những ca khúc du ca, trong khi các đoàn du ca lại có những bài ca sinh hoạt là nhạc phản chiến. Hai dòng nhạc này, nhất là nhạc phản chiến vào cuối giai đoạn, đã hòa nhập với dòng nhạc giải phóng, cách mạng góp phần động viên, cổ vũ quần chúng tham gia vào công cuộc thống nhất đất nước. Nhiều NS tiêu biểu như Trần Long Ẩn, Tôn Thất Lập… lại thành công ở cả bốn dòng nhạc: tình ca, du ca, phản chiến và cách mạng. Trịnh Công Sơn viết rất nhiều thể loại: nhạc phản chiến, du ca, tình khúc và sau này là nhạc trẻ… Riêng Phạm Duy lại có nhiều thành tựu trong hầu hết các dòng nhạc, các thể tài âm nhạc VN hiện đại: nhạc tiền chiến, nhạc đỏ, nhạc phản chiến, nhạc trẻ, nhạc lính, du ca, tình ca, bình ca, tâm ca, nữ ca, nhi đồng ca, sau này là đạo ca…
Một điều thú vị: Hai dòng nhạc trữ tình - tình khúc và nhạc vàng, “đối cực” về thính giả, nhưng có khi “đồng nhất” về tác giả. Một số NS chuyên sáng tác nhạc vàng nhưng cũng có những ca khúc được xếp vào tình khúc, như một số bài hát của các NS Hoàng Thi Thơ, Y Vân, Nguyễn Văn Đông, Phạm Thế Mỹ, Song Ngọc, Lam Phương, Anh Bằng,... Ngược lại, một số NS trước đã nổi tiếng với tình khúc lại thành công trong nhiều bản nhạc vàng. Như Phạm Mạnh Cương của tình ca Thu ca (1953) bất hủ, sau nầy viết Tình mùa phượng thắm (1961), Tháng bảy mưa ngâu (1964)… Hoặc Trần Trịnh của tình khúc Lệ đá nổi tiếng đã viết nhạc vàng cùng Nhật Ngân trong bút hiệu Trịnh Lâm Ngân: Mùa xuân của mẹ, Xuân này con không về…
NS Trần Quang Lộc và danh ca Thái Thanh- 2015
Một điều độc đáo: Bài thơ Màu tím hoa sim của Hữu Loan được phổ thành khoảng 10 ca khúc thuộc các dòng nhạc bởi các nhạc sĩ: Phạm Duy, Dzũng Chinh, Anh Bằng, Song Ngọc, Thu Hồ, Hồng Vân, Duy Khánh và Trọng Khương... Trong đó, Anh Bằng phổ thành 2 bài hát: Chuyện hoa sim, Tím cả chiều hoang, và 2 bản nổi trội nhất, được phổ biến rộng khắp ở 2 dòng nhạc là: Áo anh sứt chỉ đường tà (tình khúc) của Phạm Duy và Những đồi hoa sim (nhạc vàng) của Dzũng Chinh.
NS Phạm Mạnh Cương
Một điều đáng mừng: Trình độ thẩm mỹ của công chúng ngày càng cao. Nhiều tình khúc của Trần Quang Lộc như Về đây nghe em, Có phải em mùa thu Hà Nội; của Đức Huy như Bay đi cánh chim biển; của Trịnh Công Sơn như Nhìn những mùa thu đi; của Ngô Thụy Miên như Niệm khúc cuối; của Đynh Trầm Ca như Ru con tình cũ; của Vũ Đức Sao Biển như Thu hát cho người, Chiều mơ… được phổ biến rộng rãi, được nhiều thế hệ, lứa tuổi, nhiều giới, kể cả giới tu sĩ trong nhiều thời say mê hát. Ca khúc Thuyền em đi trong đêm của Nguyễn Phú Yên xếp vào nhạc “trữ tình chiến đấu”, du ca, tình khúc đều hợp, thậm chí giới bình dân chuyên hát nhạc vàng cũng thích bài hát nầy.
Một điều đáng mừng nữa: Có những bản nhạc bình dân nhưng lại được nhiều giới yêu thích, chẳng hạn các bài Đường xưa lối cũ (Hoàng Thi Thơ), Khúc ca ngày mùa (Lam Phương), Nửa đêm ngoài phố (Trúc Phương), Thương hoài ngàn năm (Phạm Mạnh Cương), Nắng lên xóm nghèo (Phạm Thế Mỹ), v.v… Cũng có bài nhạc bình dân nhưng có những câu rất ý vị, nhân văn và xao động lòng người, chẳng hạn: “Nếu anh có về khi tàn chinh chiến. Xin em cúi mặt giấu lệ mừng nghe em…” (Tạ từ trong đêm - Trần Thiện Thanh).
5. Trong thời đoạn hậu chiến 1975-1985:
Sau thống nhất đất nước, do quan niệm về văn học - nghệ thuật bị chi phối mạnh mẽ, hoàn toàn bởi định kiến chính trị, nên sự phân cực giữa các dòng nhạc rất sâu sắc và phổ biến.
NS Nguyễn Đức Trung
Lúc này, trong nước chỉ có nhạc cách mạng là dòng nhạc duy nhất được coi là chính thống, được nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện để phát triển và phổ biến rộng rãi. Các dòng nhạc không cách mạng (trừ một số bản nhạc phản chiến, nhạc du ca và nhạc sinh hoạt) như nhạc tiền chiến, tình khúc, nhạc vàng... đều bị xếp là nhạc vàng, thậm chí là nhạc đồi trụy - phản động và bị cấm sáng tác, lưu hành, biểu diễn hoàn toàn vì không phù hợp với chủ trương. Công chúng được giáo dục, tuyên truyền tránh xa các loại hình văn hóa đồi trụy, phản động, trong đó có ca nhạc, là tàn dư độc hại do chế độ cũ để lại và các ca sĩ cũ được khuyến khích chuyển sang hát nhạc truyền thống cách mạng (nhạc đỏ).
NS Quốc Dũng
Nhưng như đã phân tích ở trên, đất nước thống nhất đã hợp lưu được nhiều nguồn sáng tác và hợp nhất nội dung, đề tài sáng tác của các ca khúc.
Về nguồn sáng tác thì có một lực lượng nhạc sĩ hùng hậu và đa dạng hơn bao giờ hết với nhiều thế hệ nhạc sĩ, trong đó có lớp nhạc sĩ trẻ có tài năng, mới bắt đầu sáng tác sau ngày Thống nhất, với nhiều nhạc sĩ thuộc các dòng nhạc khác nhau trước đó: nhạc vàng, nhạc du ca, nhạc tiền chiến, nhạc phản chiến, nhạc trẻ, nhạc giải phóng, nhạc cách mạng… quy tụ về một mối, đổ về một dòng lớn hơn, dòng sông ca nhạc thời hậu chiến.
NS Trịnh Công Sơn & NS Nguyễn Trọng Tạo,
đồng điệu nghệ sĩ hai miền Nam Bắc.
Còn nội dung, đề tài của ca khúc được định hướng, thống nhất nhưng mở rộng hơn. Ngoài những đề tài truyền thống của nhạc cách mạng như người lính và chiến đấu, ca khúc thời đoạn này khai thác, phản ánh và biểu hiện các đối tượng trữ tình phong phú hơn và gần gũi đời thường hơn của dân chúng: tình yêu quê hương, đất nước; tình cảm gia đình, lứa đôi, bạn bè, đồng đội…, đặc biệt ca khúc chính trị về hai đề tài xây dựng đất nước và bảo vệ biên giới Tổ quốc vào cuối thập niên 70, được công chúng hân hoan và xúc động đón nhận.
Tình cảm đằm thắm mà tha thiết của người Việt, không khí hừng hực của tinh thần dựng xây quê hương và khí thế rực lửa của tinh thần chiến đấu vì Tổ quốc đã tạo ra một công chúng đông đảo của ca khúc giai đoạn này, khi thỏa mãn được nhu cầu tình cảm và đáp ứng được thị hiếu âm nhạc của họ.
Lúc này, dòng nhạc hải ngoại do những nhạc sĩ Việt lưu vong sáng tác đã trở nên lạc lõng. Là sự tiếp nối vài dòng nhạc ở Miền Nam trước 1975 (nhạc vàng, nhạc trẻ, tình khúc…), ngoài đề tài cũ là tình yêu lứa đôi, đề tài phổ biến là thân phận lưu vong, ngục tù, phản kháng… đã trở nên thành đối cực với dòng nhạc chính thống trong nước. Đáng ghi nhận là thành công của một số ca khúc biểu biện tâm trạng hoài nhớ quê hương của người Việt tha hương.
NS Trịnh Công Sơn & NS Văn Cao, mối thâm tình của hai tâm hồn nghệ sĩ lớn.
6. Trong thời đoạn đương thời: 1986 đến nay:
Sau Đổi mới, 1986, đất nước Việt Nam có những biến đổi sâu rộng về cả mặt tinh thần, tư tưởng lẫn văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội. Âm nhạc Việt “chuyển mình” theo thời cuộc mới và ca khúc đương thời đa dạng, phong phú hơn cả về nội dung, đề tài, thể loại, lẫn phong cách thể hiện.
Về đội ngũ sáng tác, nhạc sĩ cũng đông đảo hơn thời đoạn trước. Có đến năm thế hệ nhạc sĩ cùng “nhập cuộc” sáng tác: Thế hệ nhạc sĩ “lão làng” còn sống; thế hệ nhạc sĩ đã thành danh trước 1975; thế hệ nhạc sĩ trưởng thành trong thời đoạn trước (thời đoạn hậu chiến) nay cũng đã nổi tiếng với những phong cách riêng; thế hệ nhạc sĩ trẻ trưởng thành sau Đổi mới và mới đây là một lớp nhạc sĩ trẻ hơn - thế hệ nhạc sĩ xuất hiện vào hai thập niên đầu của thế kỷ XXI.
Đề tài, chủ đề của ca nhạc cũng sâu rộng hơn, đặc biệt là thể hiện được bản chất của văn nghệ là phản ánh chủ nghĩa nhân bản vào trong tác phẩm. Các ca khúc đường thời thường viết về thân phận con người, ngợi ca tuổi trẻ, thiên nhiên, hướng tới những giá trị nhân văn và hầu hết tập trung vào quê hương, đất nước và tình yêu đôi lứa.
Trong không khí “mở cửa” và “đổi mới” ngày càng thông thoáng hơn, các dòng nhạc Việt trước 1975, và kể cả nhiều bản nhạc hải ngoại được sáng tác sau 1975, đều được phổ biến, biểu diễn (Dĩ nhiên là trừ những ca khúc tâm lý chiến chống Cộng trực tiếp). Điều này tạo ra một thị trường âm nhạc hội nhập, giao hòa rất đa dạng, sôi động, nhưng cũng vô cùng phức tạp và hỗn độn.
NS An Thuyên
Đồng thời với sự giao hòa đó, sự phân cực ca khúc trong nền âm nhạc thị trường đương thời cũng đã hiện hữu và hiện hữu rất rõ rệt, nhưng không phải chủ yếu do chính kiến khác nhau như trong các giai đoạn trước, mà cơ bản do giai tầng, lứa tuổi, văn hóa và thị hiếu thẩm mỹ khác nhau của những người viết nhạc và của các tầng lớp công chúng hưởng thụ âm nhạc. Ca khúc tân nhạc đang lưu hành đương thời có thể quy về bốn dạng sau:
Trước hết là dạng nhạc trẻ đương thời được các nhạc sĩ, ca sĩ trẻ viết và được một bộ phận đông đảo lớp trẻ yêu thích. Loại nhạc này thường khai thác các chủ đề thất tình, hờn giận, oán trách, mẫu chuyện đời thường, có khi là vụn vặt…, ca từ thường đơn giản, dễ dãi, có khi thô thiển, dung tục…, giai điệu chịu ảnh hưởng nhạc Hoa, Nhật, Hàn, Thái, hay nhạc Rock, Pop ballad, Rap, Hip-hop, R&B, Dance remix… của phương Tây, và được thể hiện bởi lối hát trẻ trung, hiện đại. Dạng nhạc được lớp trẻ ngày nay yêu thích nầy có những vết chàm mà tác giả đã phân tích ở trên: nhạc “đạo”, nhạc nhái, nhạc “nghe bằng mắt”, nhạc thông tục, nhạc lai căng “lợn cợn”…
Dạng nhạc thứ hai đang khống chế thị thường ca nhạc hiện nay là nhạc vàng được công chúng bình dân lớn tuổi và một bộ phận không ít trong giới trẻ mê say. Bài hát được biểu diễn trong các chương trình của dòng nhạc này là những ca khúc trữ tình bình dân ở miền Nam trước 1975 và cả những bài hát mới cũng lặp lại những giai điệu cũ kỹ và nội dung yêu đương sướt mướt như thời xa xưa trong dòng ca khúc đó, do những người trẻ bây giờ viết, nhưng theo kiểu “mì ăn liền” không có giá trị nghệ thuật.
NS Hoàng Lương (trái) và tác giả tại nhà tác giả ở TP. Bà Rịa, tháng 10.2018.
Dạng nhạc thứ ba có thể gọi là dòng nhạc nhẹ chính thống đương đại, do những nhạc sĩ tài năng thuộc nhiều thế hệ được đào tạo trường lớp sáng tác, gồm những ca khúc giá trị đang được số đông công chúng có học và một bộ phận giới trẻ yêu thích. Đó là những ca khúc ca ngợi tình yêu con người, tình cảm lứa đôi, ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc quê hương. Các nhạc sĩ chuyên nghiệp đã tiếp nhận và chuyển hóa các thể loại nhạc quốc tế trong sáng tác và cả trong biểu diễn bằng cách tăng cường âm hưởng dân gian- dân tộc trong giai điệu, hòa thanh và tiết tấu cho phù hợp với thói quen thẩm mỹ của công chúng Việt Nam để sáng tạo nên những ca khúc có giá trị nghệ thuật - nhân văn.
NS Vũ Hoàng
Sẽ là một thiếu sót lớn, nếu không nhắc tới một dạng nhạc đang được lớp người có học yêu thích: trí thức cũ (ở Miền Nam ), trí thức cách mạng (ở Miền Bắc), lớp trẻ có văn hóa thời nay và một lớp người thuộc thành phần trung lưu am hiểu về âm nhạc... Đó là dạng thường được họ gọi là “nhạc sang” tức là những ca khúc có giá trị nghệ thuật - tư tưởng được viết từ thập niên 1930 đến 1975, vẫn còn tồn tại đến đương thời như "những bài ca không bao giờ quên", thuộc nhiều dòng nhạc: tiền chiến, nhạc hùng, tình khúc, nhạc trẻ, du ca, phản chiến, trữ tình cách mạng…
Sau Đổi mới, tình hình kinh tế chính trị xã hội trong nước đã biến chuyển theo chiều hướng tích cực, vị trí, uy tín Việt Nam trên chính trường quốc tế được khẳng định, kiều bào Việt ở nước ngoài, nhất là những người “tỵ nạn” đã có thay đổi trong cái nhìn, tâm tư về Tổ quốc, đất nước và chán ngán lối hô hào, khẩu hiệu rỗng của những kẻ cơ hội, đầu tư chính trị, nên giới nhạc sĩ Việt kiều cũng “tự nhận thức” lại về mình và về đối tượng công chúng âm nhạc của mình. Họ không còn viết về các đề tài ngục tù, phản kháng, chống Cộng… như trong giai đoạn trước nữa mà quay trở về đề tài muôn thưở của ca khúc: quê hương và tình yêu lứa đôi.
Từ khi Đổi mới, có sự giao lưu, nối kết giữa âm nhạc chính
thống trong nước và dòng nhạc hải ngoại và điều này thể hiện qua hoạt động sáng tác và biểu diễn của các nhạc sĩ, ca sĩ trong và ngoài nước.
Trong lãnh vực sáng tác, nhiều nhạc sĩ nổi tiếng ở trong nước đã tham gia thị trường âm nhạc hải ngoại bằng những tình ca mới và lúc đầu, gần như các sáng tác mới của họ chỉ được hát tại hải ngoại. Có những ca khúc của họ được trình bày và nổi tiếng tại nước ngoài trước khi trở thành ăn khách trong nước. Thậm chí, có một số nhạc sĩ ở trong nước nhưng đã trở thành tên tuổi ở nước ngoài, trước khi những nhạc sĩ này được biết đến trong nước. Nhiều nhạc sĩ trẻ đã cộng tác thường xuyên và bán độc quyền các ca khúc của họ cho các Trung tâm sản xuất ca nhạc ở hải ngoại. Một số khác trong thời gian du học cũng sáng tác nhiều ca khúc cho thị trường âm nhạc tại hải ngoại. Nhiều nhạc sĩ đã nổi tiếng từ trong nước, khi ra định cư tại nước ngoài vẫn tiếp tục sáng tác và trở thành nhạc sĩ hải ngoại.
Tác giả giữa hai NS Phan Thiết & Hồng Vân (phải)
Từ năm 2000, một số ca khúc nhạc hải ngoại bắt đầu được phép lưu hành chính thức trong nước. Một số nhạc sĩ hải ngoại sau này về thực hiện nhiều dĩa nhạc, cũng như hòa âm phối khí cho các ca sĩ và tham gia các chương trình văn nghệ trong nước.
Trong lĩnh vực biểu diễn, nhiều ca sĩ trong nước biễu diễn các ca khúc hải ngoại trên sân khấu trong nước. Hầu hết các ca sĩ tình ca nổi tiếng trong nước đều đã từng lưu diễn tại hải ngoại. Một số ca sĩ nổi tiếng sau này định cư tại hải ngoại cũng tham gia sinh hoạt âm nhạc tại đây rồi trở thành “sao” và rất được nhiều người mến mộ.
Trong các thập niên 1990, 2000, các Trung tâm sản xuất ca nhạc ở hải ngoại đã phát hành tới ngàn tựa CD với các giọng ca quốc nội nổi tiếng hát tình khúc và tình ca quê hương, trong đó có nhạc hải ngoại và khiến cho những ca sĩ này rất nổi tiếng trong giới người Việt tại nước ngoài.
Ở chiều ngược lại, một số ca sĩ hải ngoại sau này về định cư hẳn tại quê nhà hay thường xuyên hát trong nước, trong đó có những ca sĩ nổi tiếng.
Có thể nói: đó cũng là sự hợp lưu giữa các dòng nhạc Việt đương đại.
LÊ THIÊN MINH KHOA
(Trích trong cuốn sách “9 THẬP KỶ CA KHÚC TÂN NHẠC VIỆT NAM”- nghiên cứu, nhận định- Lê Thiên Minh Khoa- trang 195-191, sắp xuất bản, 2018).
-----------------
Nguồn ảnh: Internet và các nhạc sĩ cung cấp
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét