Góc Việt Thi :
Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (2)
Tượng thờ ở chùa Huy Văn
6. Bài thơ ĐĂNG LONG ĐỘI SƠN ĐỀ SÙNG THIỆN DIÊN LINH BẢO THÁP BI HẬU :
Theo sách "Đại Nam Nhất Thống Chí" thì trên núi Long Đội có chùa cổ lập từ thời Lý. Có bia chép việc Lý Thần Tông là hậu thân của Từ Đạo Hạnh. Giặc Minh đốt chùa và lật đổ bia, đến đời Lê lập lại chùa và dựng lại bia. Năm thứ 8 niên hiệu Quang Thuận (1467), vua Lê Thánh Tông đến thăm chùa :“Dư bái yết sơn lăng, lộ kinh sơn tả, toại đăng lãm yên. Tiếu Lý triều sự đản chi quân thần, ta quốc bộ tằng kinh ư binh tiển. Lưu nhất luật vu hữu.” 予拜謁山陵,路經山左,遂登覽焉。笑李朝事誕之君臣, 嗟國步曾經於兵燹。留一律于右. Có nghĩa : Ta đi bái yết sơn lăng, đường qua bên tả núi này, bèn lên chơi chùa. Cười vua tôi triều Lý tôn sùng điều quái đản, thương đất nước trải nhiều phen binh lửa. Nên có đề một bài thơ dưới đây :
登龍隊山提崇善延鈴寶塔碑後 ĐĂNG LONG ĐỘI SƠN ĐỀ SÙNG THIỆN DIÊN LINH BẢO THÁP BI HẬU
千仞層巒古化城, Thiên nhận tằng loan cổ Hóa Thành,
攀緣石磴扣禪扃。 Phan duyên thạch đặng khấu thiền quynh.
李皇怪誕碑空在, Lý hoàng quái đản bi không tại,
明寇凶殘寺已更。 Minh khấu hung tàn tự dĩ canh.
路少人蹤苔甲緑, Lộ thiểu nhân tung đài giáp lục,
山多春雨曉痕青。 Sơn đa xuân vũ hiểu ngân thanh.
登高眼界無窮著, Đăng cao nhỡn giới vô cùng trước,
萬里茫茫草樹平。 Vạn lý mang mang thảo thọ bình !
* Chú thích :
- Long Đội Sơn 龍隊山 : là tên núi thuộc huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
- Thiên Nhận 千仞 : THIÊN là Một ngàn. NHẬN là đơn vị đo lường 7 thước của ngày xưa; THIÊN NHÂN là Môt ngàn nhận, chỉ Rất cao, rất xa.
- Tằng Loan 層巒 : chỉ Núi non trùng điệp, hết lớp nầy đến lớp khác.
- Phan Duyên 攀緣 : leo trèo uốn quanh; trèo vòng vèo lên.
- Đài Giáp 苔甲 : Những con bọ màu xanh có vỏ cứng sống trên rêu xanh.
- Hiểu Ngân 曉痕 : Cái dấu chân buổi sáng in trên rong rêu.
- Vô Cùng Trước 無窮著 : là không thể với tới được, ở trong câu ý chỉ :Tầm nhìn không thể thấy tới được.
* Nghĩa bài thơ :
Lên núi Long Đội đề sau bia bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh
Trên dãy núi chập chùng cao cả ngàn nhận của cổ Hoá Thành ngày xưa, ta trèo vòng vèo các bậc đá lên để gỏ cửa nhà chùa. Việc quái đản của vua nhà Lý vẫn còn trơ trên bia đó, giặc Minh hung tàn nên chùa đã được thay đổi. Đường ít dấu người đi lại nên trên rêu đầy cả những con bọ xanh, và trong núi nhiều mưa xuân nên những vết chân buổi sáng vẫn còn xanh biếc. Mặc dù lên trên cao nhưng tầm nhìn vẫn không thể thấy hết được, vì muôn dặm mênh mông cây cỏ phủ trùm một màu xanh bằng phẵng cả rồi !
* Diễn Nôm :
ĐĂNG LONG ĐỘI SƠN ĐỀ SÙNG THIỆN DIÊN LINH BẢO THÁP BI HẬU
Ngàn nhận nhấp nhô thành cổ Hóa,
Leo vòng bậc đá gỏ thiền môn,
Chuyện vua nhà Lý bia trơ đó,
Hung hãn giặc Minh tự hãy còn.
Đường vắng bóng người rêu phủ biếc,
Núi nhiều mưa sáng dấu xanh om.
Lên cao tầm mắt chưa nhìn hết,
Ngàn dặm cỏ cây khuất núi non !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
7. Bài thơ CẢM NGUYỆT THI :
感月詩 CẢM NGUYỆT THI
澄澄碧漢彩雲收, Trừng trừng bích hán thái vân thu,
天際無瑕月色浮。 Thiên tế vô hà nguyệt sắc phù,
百念功人肝肺熱, Bách niệm công nhân can phế nhiệt,
不能清夢到神州。 Bất năng thanh mộng đáo thần châu.
* Chú thích :
- Cảm Nguyệt Thi 感月詩 : Bài thơ ghi lại "Cảm xúc đêm trăng".
- Trừng Trừng 澄澄 : là Trong vắt, trong veo.
- Hà 瑕 : là Tì vết trên ngọc. Thiên Tế Vô Hà 天際無瑕 là "Cả bầu trời đến cuối chân trời không một vết mây".
- Bách Niệm 百念 : là Trăm mối suy tư, nhớ đến việc gì đó...
- Công Nhân 功人 : là Người có công; đối với vua là CÔNG THẦN 功臣 là bề tôi có công với vua.
- Thanh Mộng 清夢 : Thanh thản mà nhập mộng, ý chỉ Ngủ một cách thanh thản, ngon giấc.
- Thần Châu 神州 : là nói gọn lại của XÍCH HUYỆN THẦN CHÂU 赤縣神州 : Theo Thượng cổ sử thì Xích Huyện là đất của Viêm Đế cai quản, còn Thần Châu là đất của Huỳnh Đế cai quản. Nói chung "Xích Huyện Thần Châu" là đất nước của vua, là cương thổ của Trung Hoa; nhưng dùng rộng ra chỉ "Cương thổ của một đất nước"; gọi tắt là THẦN CHÂU hay XÍCH HUYỆN gì cũng thế. Trong bài thơ dùng để chỉ "cương thổ của nhà Lê" mà vua Lê Thánh Tông đang cai quản.
* Nghĩa bài thơ :
Cảm Xúc Đêm Trăng
Bầu trời xanh biếc trong veo, các đám mây màu đều tan biến. Ở mãi tận chân trời cũng không một tì vết nào, chỉ thấy ánh trăng trong như trôi nổi trên khoảng không. Trong lòng ngổn ngang trăm mối nghĩ đến các công thần (không biết phải ban thưởng ra sao!) mà cảm thấy nóng lòng nóng ruột, nên không thể nào thanh thản mà ngủ cho ngon trên đất nước của riêng mình.
* Diễn Nôm :
CẢM NGUYỆT THI
Trong vắt bầu trời chẳng gợn mây,
Chân trời xanh thẳm ánh trăng đầy.
Công thần trăm mối suy tư mãi,
Thanh thản khó lòng nhập mộng đây.
Lục bát :
Từng không chẳng gợn chút mây,
Chân trời xanh thẳm ngập đầy ánh trăng.
Công thần trăm mối băn khoăn,
Khó bề dỗ giấc trong lòng Thần châu !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
8. Bài thơ DU HÚC HẢI MÔN :
遊旭海門 DU HÚC HẢI MÔN
平生未會觀瀾術, Bình sinh vị hội quan lan thuật,
萬狀千形得意中。 Vạn trạng thiên hình đắc ý trung.
幾許心邊多種恨, Kỷ hử tâm biên đa chủng hận,
慇懃送向水流東。 Ân cần tống hướng thủy lưu đông !
* Chú thích :
- DU HÚC HẢI MÔN 遊旭海門 : Dạo Chơi Cửa Biển Buổi Sáng Lúc Mặt Trời Mọc. HÚC 旭 là Mặt trời mới mọc.
- Quan Lan Thuật 觀瀾術: là Thuật xem sóng để biết biển lặng hay biển động.
- Vạn Trạng Thiên Hình 萬狀千形 : ta còn nói là Thiên Hình Vạn Trạng, là đủ cả các hình dạng biến hóa khôn lường, không thể đoán trước được.
- Kỷ Hử 幾許 : là Biết bao, biết bao nhiêu...
* Nghĩa bài Thơ :
Dạo Chơi Cửa Biển Lúc Mặt Trời Mọc
Bình sinh là trong đời ta chưa từng biết qua về thuật xem sóng, nhưng lại rất đắc ý, rất vui khi thấy những đợt sóng với thiên hình vạn trạng. Có biết bao nhiêu là mối hận ở trong lòng, ta muốn ân cần mà gởi NÓ cho dòng nước đang xuôi chảy về đông (cho NÓ mất hút và tan biến đi!).
* Diễn Nôm :
DU HÚC HẢI MÔN
Trong đời chưa biết sóng ra sao,
Ngàn vẻ muôn hình thích lắm nào.
Muốn gởi biết bao là hận oán,
Ân cần theo sóng hướng đông trào !
Lục bát :
Thuật xem sóng nước chưa từng,
Thiên hình vạn trạng lòng mừng vui thay.
Biết bao oán hận ai hoài,
Gởi theo sóng nước chảy dài về đông !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
9. Bài thơ CHÍ LINH SƠN ĐẠO TRUNG (kỳ nhất):
至靈山道中 CHÍ LINH SƠN ĐẠO TRUNG
其一 kỳ nhất
河岳英靈從橐中, Hà nhạc anh linh tòng thác trung,
客來自外忽聞鐘。 Khách lai tự ngoài hốt văn chung.
岩巒矗矗寒風冽, Nham loan súc súc hàn phong liệt,
疑是幽山十二峰。 nghi thị U Sơn thập nhị phong !
* Chú thích :
- CHÍ LINH SƠN ĐẠO TRUNG 至靈山道中 : là Trên đường núi Chí Linh. Dãy núi Chí Linh thuộc huyện Lang Chánh, Ngọc Lặc, miền tây tỉnh Thanh Hoá, từng là căn cứ địa của Bình Định Vương Lê Lợi. Chí Linh còn là tên một huyện thuộc trấn Hải Dương thời Lê, nay thuộc tỉnh Hải Hưng.
- Hà Nhạc 河岳 : Hà là Sông, Nhạc là Núi, nên HÀ NHẠC là Núi sông, Sông núi.
- Thác 橐 : là THÁC DƯỢC 橐鑰 là cái lò rèn. TÒNG THÁC TRUNG 從橐中 là Theo sự trui rèn mà nên.
- Nham Loan 岩巒 : Núi đá chơm chởm vòng vèo.
- Súc Súc 矗矗 : là Dựng đứng , sừng sửng.
- Hàn Phong Liệt 寒風冽 : Gió rét căm căm.
- U Sơn 幽山 : Theo Thi Viện giải thích là :"Tên dãy núi dưới âm phủ, theo truyền thuyết." Nhưng "Thập Nhị Phong" thì có liên quan đến "Vu Sơn Thập Nhị Phong 巫山十二峰" là 12 ngọn trong rặng núi Vu Sơn ở phía cửa đông của thành phố Trùng Khánh gần với Trường Giang Tam Hiệp. Mười hai ngọn núi nầy cũng mây mù gió lạnh quanh năm và lượng mưa hằng năm cũng rất lớn như thành ngữ "Vân Vũ Vu Sơn" vậy !
* Nghĩa bài thơ :
Trên đường núi Chí Linh (kỳ 1)
Núi sông anh linh như được hun đúc trui rèn trong lò tạo hóa, khách đến từ bên ngoài bỗng dưng nghe như có tiếng chuông vang (do tiếng gió luồn qua các vách núi đá tạo nên). Những ngọn núi đá uốn quanh sừng sửng trong tiếng gió rít lạnh căm căm, ngỡ như là mười hai ngọn U Sơn của âm tào địa phủ trong truyền thuyết vậy !
* Diễn Nôm :
CHÍ LINH SƠN ĐẠO TRUNG
kỳ nhất
Sông núi anh linh hun đúc nên,
Khách sang nghe tự tiếng chuông rền.
Quanh co núi đá căm căm rét,
Cứ ngỡ U Sơn tận cửu tuyền !
Lục bát :
Anh linh sông núi đúc nên,
Từ ngoài bước đến nghe rền tiếng chuông.
Núi cao sừng sửng gió luồn,
Ngỡ mười hai ngọn U Sơn cửu tuyền !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
10. Bài thơ CHÍ LINH SƠN ĐẠO TRUNG (kỳ nhị):
至靈山道中 CHÍ LINH SƠN ĐẠO TRUNG
其二 Kỳ nhị
參禪人戀心成佛, Tham thiền nhân luyến tâm thành Phật,
名利都歸小謁關。 Danh lợi đô quy tiểu yết quan.
路轉林回雲袂冷, Lộ chuyển lâm hồi vân duệ lãnh,
舉頭疑入四明山。 Cử đầu nghi nhập Tứ Minh sơn.
* Chú thích :
- Tham Thiền 參禪 : Tham gia tu thiền, chỉ đang nghiên cứu, tu tập theo phép thiền.
- Yết 謁 : Nghỉ ngơi, Tiểu Yết Quan 小謁關 : Tạm nghỉ ngơi.
- Duệ 袂 : Tay áo rộng ngày xưa.
- Tứ Minh 四明 : Theo truyền thuyết, có bốn cửa thông với ánh sáng của nhật, nguyệt, tinh, thần, nên có tên như vậy. Ở đây chỉ sự giải thoát, cảm thông, hoà hợp với vũ trụ, khi đã có công phu tu hành, không bon chen lợi danh thế tục.(chú thích theo Thi Viện).
* Nghĩa bài thơ :
Trên đường núi Chí Linh (kỳ 2)
Tham thiền là còn mê luyến muốn cho mình trở thành Phật, nên danh lợi đều gát hết cho tạm nghỉ ngơi. Đường quanh co trong rừng núi nên tay áo cũng còn vương mây lạnh, ngẩn đầu lên nhìn cứ ngở là đã lạc vào Tứ Minh sơn rồi.
* Diễn Nôm :
CHÍ LINH SƠN ĐẠO TRUNG
Kỳ nhị
Tham thiền là muốn lòng theo Phật,
Danh lợi đều cho tạm nghỉ ngơi.
Rừng núi quanh co mây vướng áo,
Ngẩn đầu ngỡ đạt Tứ Minh rồi !
Lục bát :
Tham thiền hướng Phật lòng ai,
Gát vòng danh lợi ra ngoài cõi tu.
Quanh co rừng núi mây mù,
Tứ Minh ngỡ đạt ngẩn đầu là đây !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Đón xem tiếp "Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG" (3).
杜紹德
ĐỖ CHIÊU ĐỨC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét