Kính gởi đến qúy thân hữu
Kính gửi quý vị trưởng thượng và quý anh chị con cóc cuối tuần ngày Quốc Hận.
Dạo:
Bên đường xương đã trổ hoa,
Lênh đênh bước lẻ, quê nhà chốn nao.
Cóc cuối tuần:
故 郡 何 方
日 沉 霡 霂 浥 寒 沙,
踽 踽 亡 魂 覓 舊 家.
暴 海 褊 舟 皤 浪 哭,
深 林 孤 影 毒 蟲 歌.
巍 峨 廟 殿 神 仙 少,
炫 耀 市 城 鬼 怪 多.
四 十 六 年 嗟 故 里!
路 旁 朽 骨 已 開 花.
陳 文 良
Âm Hán Việt:
CỐ QUẬN HÀ PHƯƠNG
Nhật trầm, mạch mộc ấp hàn sa,
Củ củ vong hồn mịch cựu gia.
Bạo hải, biển chu, bà lãng khốc,
Thâm lâm, cô ảnh, độc trùng ca.
Nguy nga miếu điện, thần tiên thiểu,
Huyễn diệu thị thành, quỷ quái đa.
Tứ thập lục niên, ta cố lý!
Lộ bàng hủ cốt dĩ khai hoa.
TRẦN VĂN LƯƠNG
Dịch nghĩa:
QUÊ CŨ CHỐN NÀO
Mặt trời chìm, mưa phùn thấm ướt bãi cát lạnh,
Hồn người chết lủi thủi đi tìm nhà cũ.
Biển dữ dằn, thuyền nhỏ, sóng bạc đầu khóc to,
Rừng sâu, một bóng lẻ loi, (các) con vật độc ca hát.
Đền miếu nguy nga, (nhưng) thần tiên ít,
Phố xá huênh hoang, ma quỷ yêu quái (lại) nhiều.
Bốn mươi sáu năm (rồi), than ôi quê cũ!
Ven đường (đống) xương mục nát đã nở hoa.
Phỏng dịch thơ:
QUÊ CŨ CHỐN NÀO
Cát lạnh, mưa đêm tỏa nhạt nhòa,
Vong hồn lủi thủi vọng quê cha.
Thuyền con, biển dữ, ba đào thét,
Bóng lẻ, rừng sâu, rắn rết ca.
Đền miếu nguy nga, thần trốn biệt,
Thị thành náo nhiệt, quỷ lê la.
Bao năm chốn cũ nhà tơi tả,
Xương rã ven đường đã trổ hoa.
TRẦN VĂN LƯƠNG
Cali, ngày Quốc Hận 2021
Lời than của Phi Dã Thiền Sư:
Bốn mươi sáu năm rồi, quê nhà đâu tá?
Xương trắng dọc đường di tản năm xưa
giờ hoa dại đã mọc đầy che phủ.
Than ôi, khách qua đường ngày nay chỉ thấy toàn
hoa nở, rừng xương trắng ngày xưa mấy ai còn nhớ!
Mịt mù chốn cũ, mảnh hồn lữ thứ sẽ phải lang thang
đến bao giờ?
Hỡi ơi!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét