Góc Việt Thi :
Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (3)
Tượng thờ vua Lê Thánh Tông ở chùa Huy Văn
11. Bài thơ ĐỀ LONG HẠM SƠN :
題龍頷山 ĐỀ LONG HẠM SƠN
翠微有地可徘徊, Thúy vi hữu địa khả bồi hồi,
望遠登高宇宙恢。 Vọng viễn đăng cao vũ trụ khôi.
卻訝告成封玉撿, Khước nhạ cáo thành phong ngọc kiểm,
殊非失路入天台。 Thù phi thất lộ nhập thiên thai.
閒雲滿地無人埽, Nhàn vân mãn địa vô nhân tảo,
虛室淩宵鎮日開。 Hư thất lăng tiêu trấn nhật khai.
窈窕澗窮林藪外, Yểu điệu giản cùng lâm tẩu ngoại,
特邀黃屋翠花來。 Đặc yêu hoàng ốc, thuý hoa lai.
* Chú thích :
- LONG HẠM SƠN 龍頷山 : Núi Hàm Rồng ở xã Đông Sơn, phía đông bắc huyện Đông Sơn, trấn Thanh Hoá. Có tất cả 99 ngọn núi quanh co liên tiếp hệt như một con rồng đang bò lượn, cuối cùng nổi lên một ngọn rất cao như đầu rồng.
- Thúy Vi 翠微 : là tên một loại hoa lan rừng mọc nhiều trên các triền núi; nên từ Thúy Vi còn có nghĩa chỉ màu xanh biếc chập chùng của lưng chừng núi.
- Bồi Hồi 徘徊 : 2 chữ Bồi Hồi đều có bộ XÍCH ㄔ là Bước chân trái (có nghĩa là ĐI) ở bên trái; nên BỒI HỒI 徘徊 nghĩa gốc là Đi tới đi lui, là lãng vãng không nở rời đi nơi khác; là Bịn rịn luyến lưu nơi nào đó...
- Ngọc Kiểm 玉撿 : Cái nắp bằng đá quý (ngọc) của hộp thư của các vua chúa ngày xưa.
- Lâm Tẩu 林藪 : LÂM là Rừng; TẨU là Đầm nước lớn. LÂM TẨU nói chung là rừng rậm ao chuôm.
- Yêu 邀 : là Mời mọc, Rủ rê.
- Hoàng Ốc 黃屋 : là Xe vua; THÚY HOA 翠花 : là Cờ xí của vua.
* Nghĩa bài thơ :
Thơ Cảm Đề Núi HÀM RỒNG
Trên triền núi chập chùng xanh om là nơi có thể làm cho ta lưu luyến không nở rời đi, nhưng lên càng cao thì tầm nhìn càng xa và càng cảm thấy vũ trụ như to lớn hơn. Lại càng nhạc nhiên như đại công đã cáo thành mà đóng nắp hộp ngọc lại, lại cảm thấy như là đã lạc đường mà đến tận chốn Thiên Thai. Mây vương vải đầy trên mặt đất không người buồn quét, gian nhà trống vươn lên giữa từng không suốt ngày luôn mở ra. Dòng nước khe ẻo lả chảy đến tận cùng ở bên ngoài rừng cây và đầm nước, như có ý đặc biệt muốn mời mọc xe vua và đoàn cờ xí ghé lại nơi nầy.
* Diễn Nôm :
ĐỀ LONG HẠM SƠN
Rừng núi xanh om dạ ngất ngây,
Lên cao nhìn rộng đất trời đầy.
Giật mình Ngọc kiễm phong nơi ấy,
Lạc bước Thiên Thai đến tận đây.
Mây vướng bước chân không kẻ quét,
Nhà cao phòng ốc vượt từng mây.
Nước khe ẻo lả ngoài lâm tẩu,
Như đón mời vua đến chốn nầy !
Lục bát :
Xanh om rừng núi luyến lưu,
Lên cao trông rộng du du đất trời.
Như phong ngọc kiễm đến nơi,
Lại như lạc bước bên trời Thiên Thai.
Không người quét núi đầy mây,
Vươn cao phòng ốc mở đầy từng khơi.
Ngoằn ngèo khe suối chơi vơi,
Núi rừng như muốn đón mời xe vua !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
12. Bài thơ ĐÀ GIANG TIỂU BẠC :
陀江小泊 ĐÀ GIANG TIỂU BẠC
圓嶠舟中路匪賒, Viên kiệu chu trung lộ phỉ xa,
翠鬟白浪古山河。 Thúy hoàn bạch lãng cổ sơn hà.
憸人莫不中腸愧, Tiêm nhân mạc bất trung trường quý,
鸚語猩言日日多。 Anh ngữ tinh ngôn nhật nhật đa !
* Chú thích :
- ĐÀ GIANG TIỂU BẠC 陀江小泊 : là Cắm thuyền nghỉ một lát ở sông Đà.
- Viên Kiệu 圓嶠 : Trái núi tròn mà cao, ở đây chỉ núi Tản Viên 傘圓.
- Thúy Hoàn 翠鬟 : Búi tóc xanh, ở đây mượn để chỉ dãy núi Ba Vì trùng điệp cỏ cây như những búi tóc xanh.
- Bạch Lãng 白浪 : Sóng trắng, chỉ sóng bạc đầu sủi bọt trắng xóa.
- Tiêm Nhân 憸人 : Những người gian tà, người không biết liêm sỉ.
- Quý 愧 : là Hổ thẹn, Mắc cở.
- Anh Ngữ Tinh Ngôn 鸚語猩言 : Tiếng hót của chim anh vũ và tiếng hú của con vượn; nói chung là "Tiếng chim kêu vượn hú".
* Nghĩa bài thơ :
Ghé Bến Sông Đà
Ở trong thuyền, nhìn lên núi Tản Viên, thấy con đường cũng không xa lắm.
Các dãy núi xanh chập chùng như những búi tóc và những đợt sóng trắng sủi bọt như bạc đầu, đều là những núi sông xưa cũ. Trước cảnh trí nầy, những kẻ tiểu nhân gian tà cũng không thể không thấy trong lòng hổ thẹn, trong khi tiếng oanh ca vượn hót ngày một rộn rã thêm ra.
Núi sông sơn hà vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, cũng mãi vẫn sừng sửng ra đó, từ xưa đến nay vẫn trường tồn và tươi đẹp biết bao. Khiến cho những kẻ gian tà không biết yêu thương và phục vụ cho đất nước cũng phải cảm thấy tự thẹn trong lòng trước tiếng chim kêu vượn hú vẫn hằng ngày gắn bó với đất nước núi sông.
* Diễn Nôm :
ĐÀ GIANG TIỂU BẠC
Dưới thuyền ngắm đỉnh Tản Viên xa,
Sóng bạc núi xanh đất nước ta.
Những kẻ gian tà lòng cũng thẹn,
Ngày ngày vượn hú lẫn chim ca !
Lục bát :
Tản Viên thuyền ngắm không xa,
Núi xanh sóng bạc san hà cổ xưa.
Gian tà lòng cũng thẹn thùa,
Chim kêu vượn hú bốn mùa nước non !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
題白鴉洞 ĐỀ BẠCH NHA ĐỘNG
萬頃碧波搖日影, Vạn khoảnh bích ba dao nhật ảnh,
一壺綠草入春風。 Nhất hồ lục thảo nhập xuân phong.
煙雲輕澹微茫外, Yên vân khinh đạm vi mang ngoại,
花物陰森隱約中。 Hoa vật âm sâm ẩn ước trung.
* Chú thích :
- ĐỀ BẠCH NHA ĐỘNG 題白鴉洞 : Cảm đề động Bạch Nha.
- Vạn Khoảnh 萬頃 : là Một trăm vạn mẫu, dùng để chỉ nơi nào đó thật rộng, thật rộng.
- Nhất Hồ Lục Thảo 一壺綠草 : Một bầu cỏ biếc; chỉ Động Bạch Nha như một bầu cỏ xanh ở giữa muôn trùng sóng biếc.
- Khinh Đạm Vi Mang 輕澹微茫 : KHINH là nhẹ; ĐẠM là Lặng lẽ; VI là nhỏ nhoi; MANG là Mờ ảo. Nên KHINH ĐẠM VI MANG chỉ mây khói nhẹ nhàng lặng lẽ mở ảo mịt mù vây phủ.
- Âm Sâm Ẩn Ước 陰森隱約 : ÂM là Âm u; SÂM là Rậm rạp; ẨN ƯỚC là Khi mờ khi tỏ, khi ẩn khi hiện.
* Nghĩa bài thơ :
CẢM ĐỀ ĐỘNG BẠCH NHA
Trên muôn vạn sóng nước mênh mông làm lay động ánh nắng (bóng mặt trời), Động Bạch Nha hiện lên như một bầu cỏ biếc trong gió xuân. Ta thấy như bên ngoài cái khói sóng nhẹ nhàng mịt mờ đang vây phủ kia là những hoa cỏ thâm u rậm rạp ẩn hiện khi mờ khi tỏ (như chốn Bồng Lai).
Đọc bài thơ nầy làm cho ta nhớ đến bài 送梁六自洞庭山作 TỐNG LƯƠNG LỤC TỰ ĐỘNG ĐÌNH SƠN TÁC của Trương Duyệt 張說 đời Đường :
巴陵一望洞庭秋, Ba Lăng nhất vọng Động Đình Thu,
日見孤峰水上浮。 Nhựt kiến cô phong thủy thượng phù.
聞道神仙不可接, Văn đạo thần tiên bất khả tiếp,
心隨湖水共悠悠. Tâm tùy hồ thủy cộng du du !
Có nghĩa :
Ba Lăng thu ngắm Động Đình,
Núi côi như nổi xinh xinh giữa hồ.
Thần tiên há dễ gặp cơ ?!
Lòng ta theo nước dật dờ xa xa !
Bạch Nha Động cũng mờ ảo trôi nổi trên mặt nước mênh mông giống như là Quân Sơn của xứ Ba Lăng ở trên hồ Động Đình vậy !
* Diễn Nôm :
ĐỀ BẠCH NHA ĐỘNG
Muôn mẫu sóng vờn ánh nắng hanh,
Một bầu cỏ biếc sắc xuân lành.
Khói mây lặng lẽ trong mờ ảo,
Hoa cỏ chập chờn ẩn hiện quanh !
Lục bát :
Sóng xanh vạn khoảnh nắng vàng,
Một hồ cỏ biếc bạt ngàn gió xuân.
Khói mây mờ ảo mông lung,
Cỏ hoa ẩn hiện chập chờn như tranh !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
14. Bài thơ ĐỀ ĐẠI HỌC SĨ VÕ VĨNH TRINH HỌA TƯỢNG :
題大學士武永貞畫像 ĐỀ ĐẠI HỌC SĨ VÕ VĨNH TRINH HỌA TƯỢNG
黃卷青燈六十年, Hoàng quyển thanh đăng lục thập niên,
優遊金馬玉堂仙。 Ưu du kim mã ngọc đường tiên.
志行儒術師前聖, Chí hành nho thuật sư tiền thánh,
廣廈談經坐細旃。 Quảng hạ đàm kinh toạ tế chiên.
* Chú thích :
- Võ Vĩnh Trinh 武永貞 : Ông tự là Hộ Chi, người huyện Thiên Bản (nay là huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định), đậu minh kinh năm Kỷ Dậu (1422), đậu Tiến Sĩ năm Thuận Thiên thứ hai (1429) khoảng giữa năm Quang Thuận triều Lê Thánh Tông, làm đến chức Hàn Lâm Viện Học Sĩ, Hải Tây Đạo Tuyên Chánh Sứ Ty kiêm Bí Thư Giám Học Sĩ. Thơ ông được sưu tập trong Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích.
- Hoàng Quyển Thanh Đăng 黃卷青燈 : Quyển sách ngã màu vàng và ngọn đèn xanh leo lét. Đây là thành ngữ chỉ sự cần cù học tập trong cảnh thanh bần. Thành ngữ nầy làm ta nhớ đến 2 câu thơ của Ông Tú Vị Xuyên Trần Tế Xương :
Một ngọn ĐÈN XANH một QUYỂN VÀNG,
Bốn con làm lính bố làm quan.
- Ưu du 優遊 : là nói gọn lại của ƯU DU TỰ TẠI 優遊自在 là chỉ cuộc sống thoải mái không có buồn lo nghĩ ngợi gì cả.
- Kim Mã Ngọc Đường 金馬玉堂 : là Ngựa vàng Phòng ngọc, chỉ nơi làm việc của Hàn Lâm Học Sĩ; Nói chung là để chỉ những người khoa bảng thành đạt. Như Kim Trọng lúc thi đậu làm quan đã nhớ đến Thúy Kiều :
Ấy ai dặn ngọc thề vàng,
Bây giờ KIM MÃ NGỌC ĐƯỜNG với ai ?
- Nho Thuật 儒術 : Học thuật của Nho gia.
- Quảng Hạ 廣廈...Tế Chiên 細旃 : Điển tích, có xuất xứ từ Hậu Hán Thư-Vương Kiết Truyện《漢書·王吉傳》:“Phù quảng hạ chi hạ, tế chiên chi thượng, minh sư cư tiền, khuyến tụng tại hậu 夫廣夏之下,细旃之上,明師居前,勸誦在后”. Có nghĩa : "Hễ là ngồi dưới căn nhà lớn, trên tấm nệm êm, đó là bậc thầy giỏi ngồi trước, sẽ khuyến khích ta học hành ở sau đó".
* Nghĩa bài thơ :
Đề Bức Hoạ Hình của Đại Học Sĩ VÕ VĨNH TRINH
Sáu mươi năm chuyên cần học tập dưới một ngọn đèn xanh leo lét và một quyển sách đã ngã sang màu vàng. Bây giờ thì đã thành danh như bậc Hàn Lâm sống ưu du tự tại như thần tiên rồi. Lại nuôi chí thực hành đạo Nho như những thánh hiền đi trước; làm bậc thầy ngồi trong học đường lớn trên tấm nệm êm mà giảng dạy tứ thư ngũ kinh.
Đọc bài thơ trên ta thấy được nhà vua đã xem trọng Võ Vĩnh Trinh biết bao. Xem ông như là một bậc thầy chịu thương chịu khó học tập và sau khi thành đạt lại ra sức truyền bá và giảng dạy đạo Nho cho người đời sau.
* Diễn Nôm :
ĐỀ ĐẠI HỌC SĨ VÕ VĨNH TRINH HỌA TƯỢNG
Đèn sách chuyên cần sáu chục năm,
Ngọc đường kim mã đã an tâm.
Phát dương Nho học theo tiền thánh,
Nhà rộng ngồi cao giảng ngũ kinh.
Lục bát :
Sách đèn sáu chục năm dư,
Ngọc đường kim mã giờ như tiên thần.
Hoằng dương Nho học tiền nhân,
Giảng kinh nhà rộng xa gần đều khen.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
15. Bài thơ Đề HOẰNG HỰU MIẾU Thi :
題弘宥廟詩 ĐỀ HOẰNG HỰU MIẾU THI
極靈英氣振搖天, Cực linh anh khí chấn dao thiên,
威力嚴提造化權。 Uy lực nghiêm đề tạo hóa quyền.
叩問山靈能潤物, Khấu vấn sơn linh năng nhuận vật,
通為甘露作豊年。 Thông vi cam lộ tác phong niên.
* Chú thích :
- ĐỀ HOẰNG HỰU MIẾU THI 題弘宥廟詩 : Thơ đề ở Miếu HOẰNG HỰU.
- Chấn Dao 振搖 : là Làm lay động, làm rung rinh.
- Nghiêm Đề 嚴提 : Nghiêm chỉnh mà đề cao; Đề cao một cách nghiêm chỉnh.
- Khấu 叩 : là Khấu Đầu 叩頭, ta nói là Dập đầu. Lạy mà trán đụng xuống đất một cách thành khẩn, gọi là Khấu Đầu.
- Sơn Linh 山靈 : Những bậc linh thiêng ở trong núi, như thần núi chẳng hạn...
- Phong Niên 豊年 : là năm được mùa.
* Nghĩa bài thơ :
Thơ đề ở Miếu HOẰNG HỰU.
Cái linh khí rất linh hiễn có thể làm lay động cả bầu trời. Uy lực vô biên đề cao một cách nghiêm chỉnh cái quyền của tạo hóa. Vậy, xin được cung kính dập đầu mà hỏi rằng : Sự linh thiêng của thần núi có thể làm cho muôn vật như được tắm gội, thì xin hãy rưới chút nước cam lộ để làm cho dân chúng năm nay có được một mùa thu hoạch được mùa.
Qủa là khẩu khí của bậc đế vương, xin rất thành khẩn, nhưng với giọng điệu như thách thức ra lệnh : Thần có linh thì hãy giúp cho dân chúng được mùa năm nay đi !
* Diễn Nôm :
ĐỀ HOẰNG HỰU MIẾU THI
Anh linh lay động cả trời dài,
Tạo hóa uy quyền khắp chốn này.
Cúi lạy thần linh thương vạn vật,
Cam lồ rưới giúp được mùa nay !
Lục bát :
Anh linh lay động đất trời,
Uy quyền tạo hóa khắp nơi xa gần.
Thần linh cúi lạy ân cần,
Rưới xin cam lộ giúp dân được mùa !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Đón xem ...
Góc Việt Thi :
Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (4)
杜紹德
ĐỖ CHIÊU ĐỨC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét