CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Chủ Nhật, 6 tháng 7, 2025

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH : VƯỜN,VƯỢN, VƯƠNG,VƯỢT ,VƯU - ĐỖ CHIÊU ĐỨC

 



Thành Ngữ Điển Tích 122 :  
          
                          VƯỜN,VƯỢN, VƯƠNG, VƯỢT, VƯU. 

                           
                                        Vườn Hạnh 杏園

        VƯỜN HẠNH chữ Nho là HẠNH VIÊN 杏園 nằm ở phía nam Đại Nhạn Tháp xứ Trường An, thuộc Thành phố Tây An tỉnh Thiểm Tây hiện nay. Vào đời Đường, đây là nơi dành riêng cho những người mới thi đậu Tiến sĩ dạo chơi và dự tiệc do nhà vua khoản đãi, như bài thơ thất ngôn tứ tuyệt "Hạnh Viên 杏園" của Nguyên Chẩn 元稹 đời Đường sau đây :

               浩浩長安車馬塵,    Hạo hạo Trường An xa mã trần,
               狂風吹送每年春。    Cuồng phong xuy tống mỗi niên xuân.
               門前本是虚空界,    Môn tiền bổn thị hư không giới,
               何事栽花误世人。    Hà sự tài hoa ngộ thế nhân.
     Có nghĩa :
                     Ồn ào xe ngựa bụi Trường An,
                     Gió cuốn tiễn đưa mỗi độ xuân.
                     Trước cửa trống không đà vốn dĩ,
                     Sao trồng hoa để lở người trần.

        Người thi đậu thì được cài hoa lên mũ mão để vào vườn dạo chơi và dự tiệc, còn người thi rớt thì đành chịu lỡ vỡ ngậm ngùi. Trong văn học cổ dùng từ VƯỜN HẠNH để chỉ thi đậu, thanh vân đắc chí. Như trong truyện thơ Nôm "Bần Nữ Thán" có câu :
          
                      Những mong VƯỜN HẠNH gặp tuần,
                   Gieo cầu đáng dịp, bắc cân đương vừa.

        VƯỜN LÃNG chữ Nho là LÃNG UYỂN 閬苑. Theo truyền thuyết thì đây là nơi ở của bà Tây Vương Mẫu ở trên đỉnh núi Côn Lôn. Trong văn học thường dùng để chỉ nơi ở của thần tiên hoặc vua chúa. Như trong bài thơ tứ tuyệt "Cửu Thành Cung 九成宫" của Lý Thương Ẩn 李商隱 đời Đường sau đây :

                 十二層城閬苑西,   Thập nhị tằng thành LÃNG UYỂN tê,
                 平時避暑拂虹霓。   Bình thời tị thử phất hồng nghê.
                 雲随夏后雙龍尾,   Vân tùy Hạ Hậu song long vĩ, 
                 風逐周王八駿蹄。   Phong trục Châu Vương bát tuấn đề.
       Có nghĩa :
                       LÃNG UYỂN thành cao thập nhị tê,
                       Ngày thường tránh nóng ngắm vầng nghê.
                       Mây theo Hạ Hậu song long ruổi,
                       Gió cuốn Châu Vương tám ngựa về !

        Trong "Truyện Hoa Tiên" của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện có câu :

                           Bỗng dưng vương lấy tơ tình,
                    Này đồ VƯỜN LÃNG hay tranh non Bồng ?!

                   

                    HẠNH VIÊN 杏園                      LÃNG UYỂN 閬苑     

      VƯỢN SỞ là con vượn của nước Sở
       * Theo〈Hịch Lương Văn 檄梁文〉cua Đỗ Bậc 杜弼 đời Bắc Tề ghi chép :「Sở quốc vong viên, họa diên lâm mộc; Thành môn thất hỏa, ương cập trì ngư 楚國亡猿,禍延林木;城門失火,殃及池魚。」Có nghĩa : "Nước Sở mất vượn, Tai họa đến rừng cây gần đó; Cửa thành bị cháy, Tai ương đến cá ở trong ao cạnh thành" Tại sao ?! Vì vượn sống trong rừng cây, nên mất vượn thì nghi là vượn đã trốn vào rừng cây, bèn ra lệnh đốn hết rừng cây để tìm vượn. Còn cửa thành bị cháy thì phải lấy nước ở các ao gần đó để chửa cháy, nước bị lấy hết thì cá trong ao sẽ... chết. Rừng cây bị đốn vì mất vượn; Cá bị chết vì hết nước do cửa thành bị cháy... đều là những tai họa mà trước đó không ai lường trước được cả ! Trong văn học gọi là bị "Họa Lây". Giới bình dân thì gọi là bị "họa lan can", bị "văng miểng"... 
      Trong truyện thơ Nôm "Quan Âm Thị Kính" của ta có câu :

                               Chỉn e VƯỢN SỞ lạc chừng,
                        Hận lòng đến cả cây rừng chưa minh.

      VƯƠNG DUY 王維(701-761)tự là Ma Cật, hiệu là Ma Cật Cư Sĩ, vốn người đất Kỳ Huyện Sơn Tây, sau cha ông thuyên về Bồ Châu (nay là thành phố Vĩnh Tế). Ông cùng với Mạnh Hạo Nhiên hình thành thi phái "Điền Viên Sơn Thủy". Người đời hợp xưng là VƯƠNG MẠNH 王孟. Ông còn là ông Tổ của Họa Phái Sơn Thủy Nam Tông chuyên vẽ tranh thủy mặc, được ca ngợi là trong thơ có họa, trong họa có thơ. Ông là nhà thơ, nhà hội họa đời Thịnh Đường, được người đời sau xưng tụng là THI PHẬT, còn lưu lại trên 400 bài thơ đủ loại.
      Đào Duy Từ trong bài thơ "TƯ Dung Vãn" đã nhắc đến Thi Phật Vương Duy với hai câu thơ sau :

                             Bút VƯƠNG DUY khéo vẽ đồ,
                     Mây xuân dường gấm, nước thu tợ ngần.

                    

                    Vương Duy                            Đào Duy Từ

       VƯƠNG TÔN 王孫 là từ nói gọn lại của VƯƠNG TÔN CÔNG TỬ là thành ngữ trong《Chiến Quốc Sách. Sở Sách tứ 戰過策·楚策四》dùng để chỉ con em của các nhà giàu sang quyền quý vương hầu. Trong bài từ "Chiêu Ẩn Sĩ" của Hoài Nam Tiểu Sơn thời Lưỡng Hán 两汉淮南小山《招隐士》có câu :

                  王孫游兮不歸,    VƯƠNG TÔN du hề bất quy,
                  春草生兮萋萋.     Xuân thảo sinh hề thê thê.
        Có nghĩa :
                       VƯƠNG TÔN du ngoạn quên về,
                     Cỏ xuân mơn mởn tư bề xanh xanh !

       Nên VƯƠNG TÔN thường dùng để chỉ các chàng trai con nhà giàu, thích ăn chơi trác táng, ngao du đây đó. Trong "Chinh Phụ Ngâm Khúc" của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn Nôm có câu :

                     Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ,
                     Chàng há từng học lũ VƯƠNG TÔN.
                     Cớ sao cách trở nước non,
                     Khiến người thôi sớm thì hôm những sầu ?



                          VƯƠNG TÔN du hề bất quy...

       VƯỢT GIAO là con giao long vượt lên trên, đây là từ có gốc từ ĐẰNG GIAO KHỞI PHƯỢNG 騰蛟起鳳, thành ngữ có xuất xứ từ bài Đằng Vương Các Tự 滕王閣序 nổi tiếng của Vương Bột 王勃, người đứng đầu trong Sơ Đường Tứ Kiệt, với câu sau đây :

                    騰蛟起鳳,        Đằng Giao Khởi Phượng,
                    孟學士之詞宗。   Mạnh học sĩ chi từ tông.
         Có nghĩa :
                    Phượng múa Rồng bay, là...
                    Tông từ của Mạnh học sĩ.
      Nên...
            ĐẰNG GIAO KHỞI PHƯỢNG là con giao long bay lên và con phượng hoàng vỗ cánh, thường dùng để chỉ những người tài hoa xuất chúng, vượt trội hơn những người khác. Trong "Hoa Tiên Truyện" của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện có câu :

                         Dạy rằng mây gió gặp kỳ,
                  VƯỢT GIAO này hội nam nhi vẫy vùng.  
                    
                   

                            ĐẰNG GIAO KHỞI PHƯỢNG 

       VƯU VẬT 尤物 là Vật lạ, người lạ hay ưu việt hơn những người, vật khác. Dùng rộng ra để chỉ đồ vật quý hiếm hay người đẹp đặc biệt hiếm thấy trên đời. Theo 《Tả Truyện. Chiêu Công nhị thập bát niên 左傳.昭公二十八年》có câu : "Phù hữu VƯU VẬT, túc dĩ di nhân 夫有尤物,足以移人". Có nghĩa : "Phàm hễ có con gái đẹp là dễ làm dời đổi lòng người". Trong bài từ "Thiếu Niên Du" của Liễu Vĩnh, người chuyên viết ca từ cho các kỹ nữ ở đời Tống 宋.柳永〈少年遊〉có các câu :

                  世間尤物意中人。   Thế gian VƯU VẬT ý trung nhân,
                  輕細好腰身。         Khinh tế hảo yêu thân.
                  香幃睡起,            Hương vi thụy khởi,
                  發妝酒釃,            Phát trang tửu sỉ,
                  紅臉杏花春。         Hồng kiểm hạnh hoa xuân !
       Có nghĩa :
                        Trên đời VƯU VẬT ý trung nhân,
                        Eo thon nhẹ lướt thân,
                        Màn hương thức giấc,
                        Điểm trang nhắp rượu,
                        Má hồng tựa hoa xuân !
        Lục bát :
                        VƯU VẬT là ý trung nhân,
                   Eo thon mình nhỏ lướt thân nhẹ nhàng.
                      Phòng hương tỉnh giấc mơ màng,
                   Điểm trang nhắp chén rượu vàng ban mai.
                        Má hồng như tỉnh như say !

        Trong văn học cổ VƯU VẬT thường được dùng để tả những người đẹp tuyệt trần. Như trong "Truyện Tây Sương" có câu :

                          Biết đâu là nợ là duyên,
                 Trời sanh VƯU VẬT chi miền nhân gian ?! 

        Còn trong "Cung Oán Ngâm Khúc" của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều thì viết về nàng cung phi như sau :

                      Vẻ VƯU VẬT trăm chiều chải chuốt, 
                      Lòng quân vương chi chút trên tay. 
                      Má hồng không thuốc mà say, 
                      Nước kia muốn đổ, thành này muốn long!    



      Hẹn bài viết tới !
         Thành Ngữ Điển Tích 123  :  
                                               XA, XÀ, XÃ, XẠ, XE.


                                                        杜紹德
                                                       ĐỖ CHIÊU ĐỨC


Không có nhận xét nào: