CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Hai, 31 tháng 5, 2021

CON ĐƯỜNG LÁ ME - THƠ PHAN NI TẤN





 



CON ĐƯỜNG LÁ ME

Anh đạp xe chầm chậm
Em nhẹ hẩng sau lưng
Vòng ôm tuy hờ hững
Mà tim yêu bừng bừng

Anh đạp xe cà tửng
Cán lên đời lá me
Nghe em cười rúc rích
Sao mà yêu dễ tè

Ngày chở em cà nhõng
Có khi đến tối òm
Hồn đời anh dù mỏi
Vòng xe lăn phom phom

Nắng hạ gì nồng nã
Sài Gòn đổ mồ hôi
Tội nghiệp làn gió thoảng
Phe phẩy chút bồi hồi

Thương Sài Gòn có gió
Thổi mồ hôi anh lăn
Thương vòng tay em lỏng
Giống hệt sợi xích thằng

Sài Gòn đi rất vội
Trong thơ ông Nguyên Sa
Lá me rơi cũng vội
Riêng mình thì tà tà

Vậy mà đời đâu dễ
Đãi đằng tình ai lâu
Nó giằng em ra khỏi
Lòng anh miên man sầu

Từ ngày em đi mất
Đời bỗng thiệt eo sèo
Tình đời anh quặt quẹo
Hồn đời anh co queo

Có lần anh lẩn thẩn
Trở lại đường lá ru
Hai hàng me xanh thắm
Ơi em thì biệt mù

Chiếc xe đạp giờ đã
Ai đạp về phương nào
Hay là nằm rệu rã
Sắt thép cũng nao nao

Một hôm nghe rất lạ
Không tin ở tai mình
Báo hung tin em mất
Trời đất vẫn lặng thinh

Đời lạnh lùng trôi mãi
Trôi em về trời xa
Anh một mình ở lại
Lụp sụp theo tuổi già

PHAN NI TẤN

TÌNH XƯA--Thơ: HOÀNG SONG LIÊM-Nhạc: TỪ CÔNG PHỤNG







TÌNH XƯA
THƠ HOÀNG SONG LIÊM
NHẠC TỪ CÔNG PHỤNG
TIẾNG HÁT ĐÈO VĂN SÁCH

VỀ ĐÂU KHÓI SÓNG HOÀNG HÔN - THƠ NGUYỄN AN BÌNH

 




 

VỀ ĐÂU KHÓI SÓNG HOÀNG HÔN


Trưa hè nghe tu hú gọi

Nhớ mùa nhãn chín quê nhà

Ngày đi không ai ngóng đợi

Sông dài sấp sải mưa xa.


Ruộng khô nồng mùi rơm rạ

Chân bùn thương hạt phù sa

Ai quên - Ánh đèn đô thị

Phố phường quán trọ phù hoa.


Thèm ngắm trăng soi đầu ngõ

Thèm nghe nhịp võng ầu ơ

Thèm nhìn bông cau trắng xóa

Hương thầm trôi dạt trong mơ.


Em có ngồi ôm mặt khóc

Cùng tôi khỏa lấp vết buồn

Đời mình thôi là hạt bụi

Lạc loài bóng nhạn kêu sương


Ngày về bên trời hiu quạnh

Sông sâu mất dấu cội nguồn.

Cánh chim vờn trong chiều muộn

Tìm đâu khói sóng hoàng hôn.


27/05/2021

NGUYỄN AN BÌNH


Chủ Nhật, 30 tháng 5, 2021

NHỮNG CÂU ĐỐI THÚ VỊ (2) - ĐỖ CHIÊU ĐỨC


 


                        GIANG NAM TỨ ĐẠI TÀI TỬ QUA HOẠ HÌNH VÀ ĐIỆN ẢNH


Giai Thoại Văn Chương :  
                                           
                 NHỮNG CÂU ĐỐI THÚ VỊ  (2)

                                     

       Chúc Chi Sơn 祝枝山 (1460-1526), tên là DOÃN MINH, tự là HY TRIẾT, vì bàn tay phải dư ra một ngón nên mới có biệt hiệu là CHI CHỈ SANH 枝指生 (nghĩa là : Ngón tay mọc thêm ), gọi mãi thành CHI SANH, rồi gọi trại thành CHI SƠN và chết tên luôn là CHÚC CHI SƠN 祝枝山. Ông cùng với Đường Bá Hổ 唐伯虎, Văn Trưng Minh 文徵明 và Châu Văn Tân 周文賓 (có sách nói là Từ Trinh Khanh 徐祯卿) hợp xưng là GIANG NAM TỨ TÀI TỬ 江南四才子.
      Ông người xứ Trường Châu tỉnh Giang Tô (TÔ CHÂU). Xuất thân từ một gia đình danh nho vọng tộc, rất giỏi về thư pháp, ông viết được nhiều kiểu chữ và viết rất đẹp,  nhất là chữ Thảo. Người đương thời thường xưng tụng : Họa thì có Đường Bá Hổ, Thư pháp thì có Chúc Chi Sơn... Ông cũng là một tay rất giỏi về câu đối. Truyện kể...
      Có một sư gia (thầy mo) tên là Từ Tử Kiến 徐子建 rất tự hào về văn tài của mình, ông ta từng tuyên bố là mình có thể đối được tất cả những câu đối ở trên đời nầy không thua gì Giang Nam Tứ Tài Tử cả ! Một hôm nhân đi lễ ở chùa Tam Tháp, gặp được Chúc Chi Sơn, Từ Tử Kiến đến ra mắt làm quen rồi thách đối để khoe tài. Chúc Chi Sơn hỏi :"Thế thì ngài ra vế đối hay tôi ra vế đôi?". Tử Kiến đáp :"Đương nhiên là tôi để cho ngài ra vế đối trước". Chúc Chi Sơn mĩm cười không nói gì, nhìn ra phía sân chùa đọc :

                三塔寺前三座塔,  Tam Tháp Tự tiền tam tọa tháp,
Có nghĩa :
                Trước chùa Tam Tháp ba tòa tháp,

               Inline image

      Từ Tử Kiến cũng mĩm cười khinh khỉnh đối lại rất nhanh là :  

                五台山上五層台。  Ngũ Đài Sơn thượng ngũ tằng đài. 
Có nghĩa :
                Trên Ngũ Đài Sơn năm tầng đài.

      Đối xong Từ Tử Kiến tỏ ra rất đắc ý, hối thúc Chúc Chi Sơn ra câu đối tiếp theo. Nào ngờ Chúc Chi Sơn bảo :"Câu đối đó còn chưa xong, tôi còn thêm vào vài chữ nữa !" Từ tự phụ đáp :"Thêm vào mấy chữ thì thêm, có sao đâu, tôi vẫn sẵn sàng!" Chúc bèn đọc lại câu đối :

               三塔寺前三座塔,塔塔塔. Tam Tháp Tự tiền tam tọa tháp, tháp tháp tháp.
Có nghĩa :
               Trước chùa Tam Tháp ba tòa tháp, tháp tháp tháp.

       Từ Tử Kiến dương dương tự đắc, không nghĩ ngợi gì cả, buộc miệng đọc ngay :

                五台山上五層台, 台 台... Ngũ Đài Sơn thượng ngũ tằng đài, đài đài...
Có nghĩa :
                Trên Ngũ Đài Sơn năm tầng đài, đài đài...

               Đọc thêm được hai chữ "đài" thì Từ Tử Kiến đã biết mình hố to rồi, nên không đọc tiếp nữa, vì chả lẽ đọc đủ 5 chữ "đài", trong khi vế ra chỉ có 3 chữ "tháp" mà thôi, còn nếu đọc có 3 chữ "đài", thì Ngũ Đài Sơn chẳng lẽ chỉ có 3 tầng thôi sao, nên... nín thinh không đọc tiếp được nữa. Vì chữ ĐÀI 台 là "Tầng" đồng âm với chữ ĐÀI 抬 là "nhấc lên", nên Chúc Chi Sơn thấy ông ta chỉ "nhấc" có hai "đài" là sựng lại, bèn cười mà mỉa mai rằng :
      - Sao? Mới chỉ "nhấc" có 2 cái thôi mà, bộ hết nhấc nổi rồi nữa hả !?
     Đó là chuyện của Chúc Chi Sơn, một trong Giang Nam Tứ Tài Tử đời Minh. Bây giờ thì ta lại nghe một giai thoại về câu đố khác cũng của một danh sĩ đời Minh, đó là... 

                                              Giang Nam Tứ Tài Tử qua họa hình và Điện ảnh

     Lăng Mông Sơ 凌濛初 (1580-1644) tự là Huyền Phòng 玄房,hiệu là Lăng Ba 凌波,vì trong họ tộc xếp hàng thứ 19, nên còn gọi là Lăng Thập Cựu 凌十九”. Ông là nhà văn học, nhà tiểu thuyết nổi tiếng đời Minh, nhưng con đường hoạn lộ thăng trầm đến 60 tuổi (1639) mới đậu được Cử Nhân, và cũng vì chuyện nầy thiếu chút nữa thì đã không bảo toàn được tính mạng. Tương truyền...
      
     Năm đó, như mọi khi Lăng Mông Sơ vẫn khăn gói lên đường ứng thí, nhưng gặp phải khảo quan thích ăn tiền, mà ông thì không sẵn tiền để hối lộ, nên lại bị đánh rớt. Trâu già chẳng nệ dao phay, Lăng Mông Sơ quyết đi tìm khảo quan để lý luận. Trên đường đi gặp phải tuyết rơi nên vớ lấy một chiếc nón lá rách đội lên đầu. Khi đến trước dinh phủ của khảo quan thì thấy có đôi câu đối dán trước cửa như sau :
                           
                   愛才如子,   Ái tài như tử,
                   執法如山。   Chấp pháp như sơn.
Có nghĩa :
            -  Yêu tài như con,(Yêu người hiền tài như yêu con ruột của mình vậy).
            -  Chấp pháp như núi.(Chấp hành luật pháp vững như núi không lay chuyển).

     Câu đối chứng tỏ quan chủ khảo rất xem trọng hiền tài và nghiêm chỉnh chấp hành luật pháp, Lăng Mông Sơ đọc xong câu đối lại càng lộn gan lộn ruột hơn, ông bèn lôi bút mực trong bọc ra, hưu lên như rồng bay phượng múa thêm vào các chữ sau đây :

      愛才如子,金子銀子皆吾子也;Ái tài như tử, Kim tử ngân tử giai ngô tử dã;
      執法如山,錢山靠山其為山乎?Chấp pháp như sơn, Tiền sơn kháo kỳ vị sơn hồ?
Có nghĩa :
        - Yêu tài như con, con vàng con bạc, đều là con của ông cả;
        - Chấp pháp như núi, núi tiền núi dựa, đó là núi cả hay sao?
(Từ kép của vàng bạc là KIM TỬ, NGÂN TỬ. Còn KHÁO SƠN có nghĩa: Có người chống lưng)

                       Inline image

      Sai nha nghe động bèn ào ra bắt Lăng Mông Sơ trói lại dẫn vào công đường. Quan chủ khảo thấy một sĩ tử già đầu đội nón lá rách đi chân không, bèn chỉ mà nói rằng :

                     我看你, 頭戴夏,腳穿冬,肚裡哪有春秋!
          Ngã khán nễ, đầu đới hạ, cước xuyên đông, đổ lý na hữu xuân thu ! 
Có nghĩa :
            - Ta thấy ngươi, đầu đội hạ, chân mang đông, bụng sao có được xuân thu ! 

     XUÂN THU ở đây là "Kinh Xuân Thu" dùng để chỉ sách vở thánh hiền. Câu ra có vẻ khinh bạc, chê Lăng Mông Sơ quê mùa ít học thức, lại hóc búa ở chỗ dùng đủ bốn từ "Xuân Hạ Thu Đông". Mông Sơ quắc mắt nhìn quan chủ khảo đáp lại vế đối như sau :  

                                  我看你,面朝南,背向北,心中光想東西!
               Ngã khán nễ, diện triều nam, bối hướng bắc, tâm trung quang tưởng đông tây!
Có nghĩa :
            -  Ta thấy ông, mặt chầu nam, lưng hướng bắc, trong lòng chỉ nghĩ đông tây! 
               (Đông Tây:ngoài nghĩa là hướng đông hướng tây ra, còn có nghĩa là "Đồ Đạc")

     Ý của câu đối là vua ở phương bắc mà ông chỉ quay mặt về hướng nam, và trong bụng toàn nghĩ đến những "của cải hối lộ". Vế đối lại có đủ cả "Đông Tây Nam Bắc" đối lại "Xuân Hạ Thu Đông" ở trên. Quan chủ khảo nghe xong nổi giận, bèn tống trác đưa Lăng Mông Sơ đến Hình Bộ để xét xử.
     Quan Hình Bộ xem trát, thấy tên sĩ tử già ngông cuồng, bèn cười nhạt mà phán rằng :

             木匠造枷枷木匠,斬!  Mộc tượng tạo già già mộc tượng,Trảm !
Có nghĩa :
           - Thợ mộc đóng gông gông thợ mộc, Chém !

               Inline image

      Nghe nói quan Hình Bộ xuất thân cũng là một Hàm Lâm, nên Lăng Mông Sơ bèn than dài một tiếng mà đáp rằng :

             翰林監斬斬翰林絕!  Hàn Lâm giám trảm trảm Hàn Lâm,Tuyệt !
Có nghĩa :          
           - Hàn Lâm xử chém chém Hàn Lâm, Hết !

      Nghe Lăng Mông Sơ xưng mình là Hàn Lâm, khẩu khí bất phàm, quan Hình Bộ giật mình nhìn lại, thấy tuy là một sĩ tử già nhưng vẫn còn quắc thước, bèn tra lại hết vụ án từ đầu, rồi trình lên Thừa Tướng đương triều xin tha tội cho Lăng Mông Sơ. Thừa Tường lại là người cùng quê với Mông Sơ, từ lâu ông đã nghe nơi quê nhà có một tài tử văn nhân rất kiệt xuất được người đời mến mộ, nay mới được gặp mặt, thấy Lăng Mông Sơ râu tóc đã bạc phơ nên cũng thương tình mà tha tội, nhưng cũng muốn thử tài, bèn tức cảnh đọc một vế như sau :

                                 上鈎為老,下鈎為考,老考童生,童生考到老;
              Thượng câu vi lão,hạ câu vi khảo, lão khảo đồng sinh,đồng sinh khảo đáo lão;
Có nghĩa :
          - Móc lên là Lão 老, móc xuống là Khảo 考, Già còn thi Đồng sinh, Đồng Sinh thi tới già !                (ĐỒNG SINH 童生 : gồm các khoa thi ở Huyện,Phủ,Viện dể lấy Tú Tài, Cử Nhân...)

     Lăng Mông Sơ rất bi phẫn xúc động mà đối lại rằng :

                             二人為天,一人為大,天大人情,人情大過天。
               Nhị nhân vi thiên, nhất nhân vi đại, thiên đại nhân tình, nhân tình đại quá thiên.
Có nghĩa :
           - (Chữ Nhị 二 và chữ Nhân 人 thành chữ Thiên 天, Chữ Nhất 一 và chữ Nhân 人 thành chữ Đại 大). Nên câu có nghĩa : Hai người là Trời, Một người là Lớn, Nhân tình lớn như trời, Nhân tình còn lớn hơn là trời nữa .

         Thừa Tướng biết Lăng Mông Sơ cám cảnh cho cái tình người ở quan trường, nên cất bút phê "chuẩn" và tiến cử cho quan Chủ Khảo. Thấy bút tích của Thừa Tướng đã phê rồi, nhưng quan Chủ Khảo vẫn còn muốn thử lại tài của Lăng Mông Sơ một lần nữa, bèn nhìn ra ngoài xa dưới trái núi đơn độc có một ngôi miếu, trước miếu có một tướng quân cởi ngựa cầm một thanh đơn đao mà ra vế đối là :

              孤山獨廟,一將軍單刀匹馬;Cô sơn độc miếu, nhất tướng quân đơn thương thất mã;
Có nghĩa :
            - Núi đơn miếu độc, một tướng quân ngựa chiếc đao đơn; ( tất cả đều xoay quanh số một và đơn, lẻ, độc, nhất ...)

                             Inline image

          Lăng Mông Sơ cũng nhìn ra ngoài xa, thấy có hai ngư ông đang câu cá trên sông, bèn cất tiếng đối rằng :

                隔河對岸,兩漁翁雙竿垂釣。Cách ngạn đối hà, Lưỡng ngư ông song can thùy điếu.   
Có nghĩa :
            - Cách sông đối bến, hai ông câu cần đôi câu cặp .

       Chữ Đối 對 cũng được đọc là Đôi, và cũng có nghĩa là một cặp, cộng với Lưỡng 兩, với Song 雙  đều chỉ hai chỉ cặp. Tất cả đều đối nhau chan chát. Đến nước nầy quan Chủ khảo đành phải cất bút son lên phê cho Lăng Mông Sơ đậu Cử Nhân khoa đó.
 
       Để kết thúc cho bài viết hôm nay, mời đọc thêm một câu đối của một danh sĩ đời Minh nữa...Cũng là quan Chủ Khảo, nhưng là quan Chủ Khảo tốt.

      Lý Mộng Dương 李夢陽(1472-1529)tự là Hiến Kiết 獻吉,hiệu là Không Đồng Tử 空同子,là nhà thơ, nhà văn học nhà chính trị đời Minh, người đất Khánh Dương Thiểm Tây. Ông đậu Tiến Sĩ năm Qúy Sửu Hoằng Trị thứ 6. Truyện kể...
      Khi ông đang làm Đề Học Phó Sứ ở Giang Tây, phát hiện một sĩ tử tên họ đều giống hệt như mình, tính ông khôi hài, bèn cho gọi sĩ tử đó đến nói rằng :"Tên của nhà ngươi sao giống hệt tên của ta vậy? Bây giờ thì ta ra cho nhà ngươi một câu đối nhé !" Nói xong bèn đọc :

                                     藺相如司馬相如,名相如實不相如;
               Lạn Tương Như Tư Mã Tương Như, danh tương như thực bất tương như;
Có nghĩa :
              Tương Như 相如 : có nghĩa là Giống nhau, nên vế đối có nghĩa là :
            - Lạn Tương Như, Tư Mã Tương Như, tên giống nhau thực chẳng giống nhau.

                      Inline image
                           Lạn Tương Như và Tư Mã Tương Như

     Lạn Tương Như là Đại phu của nước Triệu thời Chiến Quốc, nổi tiếng với việc "Hoàn Bích Quy Triệu" là Trả ngọc bích về cho nước Triệu; Còn Tư Mã Tương Như là Văn học gia và Âm nhạc gia  đời Hán, nổi tiếng với bản nhạc "Phượng Cầu Kỳ Hoàng" làm cho nàng Trác Văn Quân nửa đêm phải bỏ nhà trốn theo. Ý của Lý Mộng Dương là : Tên của mi giống ta, chứ mi không thể là ta được đâu nhé !
    Người sĩ tử kia chẳng nói chẳng rằng, suy nghĩ một lát rồi đối rằng :

                                 魏無忌長孫無忌,彼無忌此亦無忌。
                Ngụy Vô Kỵ Trường Tôn Vô Kỵ, Bỉ vô kỵ thử diệc vô kỵ.
Có nghĩa :
                Vô Kỵ 無忌 : là không úy kỵ gì cả ! nên vế đối có nghĩa là :
        - Ngụy Vô Kỵ, Trường Tôn Vô Kỵ, đó vô kỵ đây cũng vô kỵ !

     Ngụy Vô Kỵ là Công tử của Tín Lăng Quân nước Ngụy thời Chiến Quốc; còn Trường Tôn Vô Kỵ là đại thần của đời Đường. Ý của người sĩ tử là : Nếu ông đã không úy kỵ thì tôi cũng không úy kỵ gì cả !

       Lý Mộng Long nghe xong rất kinh ngạc, ông hết lời ngợi khen văn tài và sự mẫn tiệp nhanh nhẹn của sĩ tử. Bèn viết thư tiến cử người sĩ tử đó cho khoa thi sắp tới.  

        Hẹn bài viết tới : 
                                   NHỮNG CÂU ĐỐI THÚ VỊ  (3)


                                                               杜紹德    
                                                              ĐỖ CHIÊU ĐỨC
       

        

Thứ Sáu, 28 tháng 5, 2021

SẮC KHÔNG - THƠ HUỲNH TÂM HOÀI

 

Sắc tức thị không - Không tức thị sắc - Giác Ngộ - Giải Thoát



SẮC KHÔNG

Ta từ một cõi hư vô
Bước ra nhân dáng kết từ hợp duyên
Một đời trần thế đua chen
Hết đời bỏ lại trăm miền đi qua.
Còn chi trong cõi ta bà
Cỏ cây khép lại phận ta đi về
Hư vô rộng mở bốn bề
Biết đâu hồn vía bên lề tử sinh
Nhân gian một cõi u minh
Dò tìm …cũng chỉ vẽ hình sắc không

HUỲNH TÂM HOÀI

CON ĐÒ BẾN CỘ-Thơ PHAN KHÂM ,nhạc NGUYỄN TẤT VỊNH







CON ĐÒ BẾN CỘ 
THƠ PHAN KHÂM
NHẠC NGUYỄN TẤT VỊNH
TIẾNG HÁT MINH THẢO

Thứ Năm, 27 tháng 5, 2021

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 79: NGỌC. - ĐỖ CHIÊU ĐỨC

 




THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 79 : 

                                      NGỌC

                                 
             Nàng rằng trộm liếc dung quang,
        Chẳng sân NGỌC BỘI cũng phường kim môn

       NGỌC 玉 chữ Nho có nghĩa là Đá Qúy. Ta thường gọi là Cẩm Thạch 錦石 (Đá đẹp như gấm). NGỌC là loại đá vừa cứng vừa trong sáng, tượng trưng cho cái đức cứng rắn thủy chung và trong sạch của người quân tử ngày xưa . NGỌC còn được xem như là vật có linh khí cát tường, bách bệnh bất sinh, nên người quân tử ngày xưa thích đeo ngọc, gọi là BỘI NGỌC 佩玉. Theo sách Lễ Ký, thiên Ngọc Tảo《禮記玉藻篇》có câu : 
      "Cổ chi quân tử tất bội ngọc 古之君子必佩玉... Thiên tử bội bạch ngọc 天子佩白玉... Công hầu bội sơn huyền ngọc 公侯佩山玄玉... Đại phu bội thủy thương ngọc 大夫佩水蒼玉... Thế tử bội du ngọc 世子佩瑜玉..." Có nghĩa : Người quân tử ngày xưa ắt phải đeo ngọc... Vua đeo ngọc trắng... Công hầu đeo ngọc núi đen... Đại phu đeo ngọc xanh màu nước... Con nhà thế gia đeo ngọc bích (cẩm thạch)..." Nói chung, vua chúa quyền qúy đều đeo ngọc, gọi BỘI NGỌC hay NGỌC BỘI gì cũng thế.

      Khi gặp Kim Trọng "Phong tư tài mạo tuyệt vời, vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa !" Thúy Kiều đã đánh giá người yêu :

                               Nàng rằng trộm liếc dung quang,
                       Chẳng sân NGỌC BỘI cũng phường kim môn.
     
                
       NGỌC còn là từ dành riêng cho phái đẹp, nên gọi người đẹp, người yêu là NGƯỜI NGỌC, gót chân của người đẹp thì gọi là GÓT NGỌC, ngay cả khi người đẹp khóc thì giọt nước mắt cũng được gọi là GIỌT NGỌC, như khi Thúy Kiều bị Khuyển Ưng bắt về giao nạp cho Hoạn Bà làm Hoa Nô, Kiều đã khóc với mụ quản gia :

                            Nàng càng GIỌT NGỌC chứa chan,
                      Nỗi lòng luống những bàng hoàng niềm tây.

     Sau khi Từ Hải chết, Hồ Tôn Hiến đã nói với Thúy Kiều "Đã hay thành toán miếu đường, Giúp công cũng có lời nàng mới nên" và hỏi "Bây giờ sự đã vẹn tuyền, Mặc lòng nghĩ lấy muốn xin bề nào?" Thúy Kiều đã :

                            Nàng càng GIỌT NGỌC tuôn trào,
                         Ngập ngừng mới gửi thấp cao sự lòng.
                              Rằng: Từ là đấng anh hùng...

... Còn khuôn mặt nhan sắc của giai nhân thì gọi là NGỌC NHAN 玉顏, khi người đẹp nói cười thì gọi là HOA CƯỜI NGỌC THỐT như cụ Nguyễn Du đã miêu tả chị em Thúy Kiều và Thúy Vân vậy :

                           HOA CƯỜI NGỌC THỐT đoan trang,
                        Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.

... Còn nói về tài thi từ ca phú thì lại gọi là NHẢ NGỌC PHUN CHÂU, như khi Thúy Kiều đề thơ lên bức họa của Kim Trọng trong đêm gặp gỡ, thì Kim Trọng đã :

                           Khen: Tài NHẢ NGỌC PHUN CHÂU,
                           Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này!    

... Còn gương mặt của người đẹp, nếu không gọi là NGỌC NHAN 玉顏 thì gọi là NGỌC DUNG 玉容, như khi Đường Minh Hoàng gặp lại Dương Qúy Phi trong mơ, nhà thơ Bạch Cư Dị đã viết trong Trường Hận Ca là : 

                     玉容寂寞淚闌干,   NGỌC DUNG tịch mịch lệ lan can,
                     梨花一枝春帶雨。   Lê hoa nhất chi xuân đới vũ.
     Có nghĩa :
                     MẶT NGỌC ưu sầu lệ ngổn ngang,
                     Như hoa lê điểm giọt mưa ngàn...

                     
... mà cụ Nguyễn Du nhà ta đã mượn hình ảnh nầy để tả lời của Vương Bà khi nghe Thúy Kiều trong đêm khóc vì Đạm Tiên báo mộng cho biết số kiếp đoạn trường của mình :

                              Cớ sao trằn trọc canh khuya,
                          Màu hoa lê hãy đầm đìa giọt mưa ?!

      Người đẹp khóc mà ví như  là "Đóa hoa lê có lấm tấm vài giọt mưa" thì thi vị không sao chịu nỗi, mà "nịnh đầm" thì cũng hết biết luôn ! Đến khi người đẹp bị dày vò hay đày đọa cho đến chết cũng không rời khỏi chữ NGỌC :"Nát NGỌC Tan vàng hay NGỌC nát Vàng tan", hay nói lẫy như khi Thúy Kiều bị Hoạn Bà dày vò hành hạ :

                                 Đã đành túc trái tiền oan,
                         Cũng liều NGỌC NÁT HOA TÀN mà chi.

      Khi Tú Bà bắt Thúy Kiều lạy Thần Mày Trắng, bắt gọi mình bằng mẹ và gọi Mạ Giám Sinh bằng cậu, Thúy Kiều không nghe theo nên bị Tú Bà đánh cho một trận, nàng đã "Sẵn dao tay áo tức thì giở ra" để liều mạng tự sát :

                                 Sợ gan NÁT NGỌC LIỀU HOA,
                              Mụ còn trông mặt nàng đà quá tay.

      Bản thân người đẹp đã là NGỌC qúy rồi, như khi Mã Giám Sinh tìm đến nhà để "mua" Thúy Kiều, cũng đã lịch sự mà nói :

                               Rằng: Mua NGỌC đến Lam Kiều,
                          Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?

  ... đã là NGỌC qúy giá rồi, cho nên cũng phải biết GÌN VÀNG GIỮ NGỌC, như trước lúc chia tay để lên đường đi Liêu Dương hộ tang cho chú, Kim Trọng đã ân cần nhắn nhủ với Thúy Kiều là :

                              GÌN VÀNG GIỮ NGỌC cho hay,
                         Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời !

                            Inline image

      Đến khi đã lọt vào lầu xanh rồi thì cũng có cái giá, cái sỉ diện của gái lầu xanh, như cụ Nguyễn Du đã viết :

                                 Lầu xanh mới rủ trướng đào,
                        Càng treo GIÁ NGỌC càng cao phẩm người. 

      Cái dáng vẻ, cái nét đẹp của người NGỌC thì gọi là VẺ NGỌC, từ nầy được cụ Nguyễn Du dùng đến hai lần, lần đầu khi Mã Giám Sinh đã mua và rước được Thúy Kiều về đến trú phường, hắn ta đã :

                               Mừng thầm: Cờ đã đến tay!
                       Càng nhìn VẺ NGỌC càng say khúc vàng.

      Lần thứ hai là khi quan Phủ đã đứng ra tác thành cho Thúc Sinh và Thúy Kiều cưới nhau "Bày hàng cổ xúy xôn xao, song song đưa đến trướng đào sánh đôi" Làm cho cặp đôi Thúc Sinh và Thúy Kiều càng quấn quít nhau hơn :

                               ​Hương càng đượm lửa càng nồng,
                           Càng sôi VẺ NGỌC càng lồng màu sen. 

      Cái Vẻ Ngọc của Thúy Kiều đã được cụ Nguyễn Du bạo gan đi trước thời đại để miêu tả lúc Thúy Kiều rủ màn xuống để "Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa" bày ra cái thân hình :

                                Rõ màu TRONG NGỌC TRẮNG NGÀ!
                               Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.  


... cái dáng NGỌC lồ lộ ở ngay trước mặt của Thúc Sinh, khiến cho chàng Thúc phải ngẩn ngơ và "Ngụ tình tay thảo một thiên luật Đường". Thúy Kiều cũng đã đãi bôi lại :

                                  Nàng rằng: Vâng biết ý chàng.
                         LỜI LỜI CHÂU NGỌC hàng hàng gấm thêu.
                                  Hay hèn ví cũng nối điêu...                        
 
      NGỌC không những chỉ sang trọng mà còn dùng để chỉ giai cấp qúy tộc hay hoàng gia với thành ngữ KIM CHI NGỌC DIỆP 金枝玉葉 hay NGỌC DIỆP KIM CHI mà ta nói là CÀNH VÀNG LÁ NGỌC hay LÁ NGỌC CÀNH VÀNG. Có xuất xứ từ Cổ kim Chú. Dự Phục 古今注•舆服. Có nghĩa : Cỏ cây hoa lá rất mượt mà xanh tươi đẹp đẽ. Sau mượn dùng để chỉ con em của hoàng tộc, dùng rộng ra để chỉ chung con em của những gia đình danh gia vọng tộc quyền qúy. Trong "Hà Thành Chính Khí Ca" của Ba Giai (cặp đôi của Tú Xuất), bài ca ca ngợi gương chiến đấu hy sinh oanh liệt của danh tướng Tổng Đốc Hoàng Diêu và lên án những người mang tiếng là KIM CHI NGỌC DIỆP mà không biết bảo vệ đất nước giang sơn như Án Sát Tôn Thất Bá :



                         Kìa Tôn Thất Bá Niết Công,
                  KIM CHI NGỌC DIỆP, vốn dòng tôn nhân,
                                Đã quốc tộc, lại vương thần,
                           Cũng nên hết sức kinh luân mới là...

      Trong tác phẩm thơ Nôm khuyết danh Nữ Tú Tài cũng có câu :

                              Nhủ rằng NGỌC DIỆP KIM CHI,
                            Lứa đôi xem cũng phải thì lứa đôi !
    

      NGỌC còn chỉ sự trong trắng thanh bạch không bợn nhơ, như lời tâm sự chân thành của Thúc Sinh bày tỏ với Thúy Kiều khi nàng bị bắt phải đi tu ở Quan Âm Các :

                                  Vì ta cho lụy đến người,
                       Cát lầm NGỌC TRẮNG, thiệt đời xuân xanh !
 
      Theo sách "Bác Vật Chí" của Trương Hoa đời Tây Tấn 西晉張華《博物志》:“Nam Hải thủy hữu giao nhân, thủy cư như ngư, bất phế chức tích, kỳ nhãn năng khấp châu 南海水有鲛人, 水居如鱼, 不废织绩, 其眼能泣珠”. Có nghĩa : Dưới nước của biển Nam Hải có người cá, ở và lội dưới nước như cá. Dệt ra vải không thấm nước và nước mắt khi khóc chảy ra thành những hạt châu ngọc. Trong "Thuật Dị Ký 述異記" của thời Nam Triều và trong "Sưu Thần Ký 搜神記" của đời Đông Tấn cũng có ghi lại câu chuyện của người cá nầy (Giao nhân). Vì nước mắt của người cá nầy khi khóc chảy ra thành những hạt châu ngọc, cho nên, gọi là NGỌC GIAO và phải lấy mâm mà hứng lại những hạt Ngọc Giao nầy, như trong truyện thơ Nôm "Quan Âm Thị Kính" có câu  :

                              Lưu tô sương gió lọt vào,
                     Đem mâm mà chứa NGỌC GIAO hẵn đầy !
                        
... Còn trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du thì gọi những giọt nước mắt nầy là GIỌT NGỌC hay GIỌT CHÂU, như khi thấy Thuý Kiều bị Hoạn Thư bắt làm con hầu và phải đứng hầu rượu cho hai vợ chồng uống thì Thúc Sinh đã :

                              Sợ quen dám hở ra lời,
                   Không ngăn GIỌT NGỌC sụt sùi nhỏ sa.

... đến khi đã uống say rồi Hoạn Thư còn bắt Thúy Kiều phải đàn cho hai vợ chồng nghe nữa, đến nước nầy thì chàng Thúc vỡ òa :

                                 GIỌT CHÂU lã chã khôn cầm,
                        Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương.
             
      
       Sau NGỌC GIAO, ta có NGỌC KINH 玉京. Theo "Ngụy Thư-Thích Lão Chí 魏書.釋老誌" nói rằng :"...上處玉京,為神王之宗;下在紫微,為飛仙之主。Thượng xứ Ngọc Kinh,vi thần vương chi tông; Hạ tại Tử Vi, vi phi tiên chi chủ". Có nghĩa : Trên thì cóNgọc Kinh là gốc của các Thần; dưới thì có Tử Vi là chủ của các tiên bay trên trời". Nên NGỌC KINH là chỗ ở của Thượng Đế, là Kinh đô bằng Ngọc. Trong tích Bùi Hàng gặp tiên, Phàn phu nhân đã có bài thơ gởi cho Bùi Hàng như sau :

                一飲瓊漿百感生,   Nhất ẩm quỳnh tương bách cảm sanh,
                玄霜搗盡見雲英。   Huyền sương đão tận kiến Vân Anh.
                藍橋便是神仙窟,   Lam Kiều tiện thị thần tiên quật.
                何必崎嶇上玉京?   Hà tất khi khu thướng Ngọc Kinh ?
Có nghĩa :
                  Một chén quỳnh tương trăm cảm sanh,
                  Chày sương giã thuốc gặp Vân Anh.
                  Lam Kiều chốn ấy thần tiên ngụ,
                  Sao phải gập ghềnh đến NGỌC KINH ?!
   
       Trong văn học cổ, khi dùng rộng ra thì NGỌC KINH dùng để chỉ Kinh Đô của nhà vua đang trị vì, như trong truyện thơ Nôm "Nhị Độ Mai" có câu :

                       Ngại ngùng thay lúc phân bào,
                    Kẻ về tử lý, người vào NGỌC KINH !

       Sau Ngọc Kinh, ta lại có NGỌC TIÊU 玉蕭 với điển tích rất hấp dẫn của một truyện Truyền kỳ như sau :
       Theo sách "Vân Khê Hữu Nghị của Phạm Sư 范攄.雲溪友議" đời Đường, kịch tác gia đời Nguyên đã viết nên kịch bản "Ngọc Tiêu Nữ Lưỡng Thế Nhân Duyên 玉蕭女两世姻缘" như sau : Thư sinh Vi Cao 韋皋 trong khoảng thời gian du học để đợi khoa thi, có quen với một kỹ nữ tên là Hàn Ngọc Tiêu 韓玉蕭. Khi đến khoa thi, mẹ của Ngọc Tiêu thúc ép Vi Cao lai kinh ứng thí với thâm ý chia rẻ cặp tình nhân không cùng giai cấp nầy ra. Nào ngờ khi Vi Cao đi rồi, Ngọc Tiêu cứ thương nhớ mãi mà tương tư thành bệnh, trước lúc lâm chung còn trăn trối bảo mẹ mình 13 năm sau mang bức họa ảnh của mình đến nhà họ Trương ở đất Kinh Tương. Sau khi chết Ngọc Tiêu bèn thác sinh vào làm con của Tiết Độ Sứ Trương Diên Thưởng ở Kinh Tương, cũng vẫn được đặt tên là Ngọc Tiêu. Về phần Vi Cao, sau khi đậu Trạng Nguyên lại được điều đi bình loạn ở vùng biên tái. Được tin Hàn Ngọc Tiêu mất chàng buồn bã vô cùng, nên càng cố gắng giết giặc lập công không màng chết sống, vì thế nên mười năm sau đã được phong làm Trấn Tây Đại Nguyên Soái. Mười ba năm sau khi ban sư về triều, lúc đi ngang qua đất Kinh Tương được Tiết Độ Sứ nơi đây tiếp đãi. Trong buổi tiệc thấy cô gái con của Trương Tiết Độ Sứ giống hệt như Hàn Ngọc Tiêu ngày xưa, bèn ngõ lời cầu hôn. Tiết Độ Sứ từ chối vì tuổi tác quá chênh lệch. Đang lúc đó thì bà mẹ của Hàn Ngọc Tiêu cũng mang bức họa đến, sau khi nói rõ nguyên do sự đầu thai chuyển thế của Trương Ngọc Tiêu. Thấy chuyện lạ, Tiết Độ Sứ bèn trình lên triều đình. Nhà vua cũng cho là chuyện nhân duyên hiếm thấy bèn ban chỉ tứ hôn cặp tình nhân chuyển thế nầy được đoàn tụ mỹ mãn.
     Trong truyện thơ Nôm khuyết danh Quan Âm Thị Kính của ta có câu :

                               Vi Cao lòng vẫn liền liền,
                      NGỌC TIÊU phỏng độ mấy niên tái hoàn.



                Ngọc Tiêu qua họa hình và qua điện ảnh

      Ở phần cuối Truyện Kiều được kết thúc bằng một thành ngữ rất có hậu, đó là khi Kim Trọng thi đậu làm quan đã nhớ đến Thúy Kiều :

                              Ấy ai dặn ngọc thề vàng,
                     Bây giờ KIM MÃ NGỌC ĐƯỜNG với ai ?!                                    
       
      KIM MÃ NGỌC ĐƯỜNG 金馬玉堂, thành ngữ có xuất xứ từ đời Hán. KIM MÃ là KIM MÃ MÔN 金馬門, là Cửa Kim Mã, nơi mà các Học Sĩ đợi chiếu chỉ của nhà vua ban xuống. NGỌC ĐƯỜNG là NGỌC ĐƯỜNG ĐIỆN 玉堂殿, nơi nghị sự của các Học Sĩ, là Hàn Lâm Viện của các Hàn Lâm Học Sĩ. Nên...



      Thành ngữ KIM MÃ NGỌC ĐƯỜNG 金馬玉堂 dùng để chỉ sự đỗ đạt vinh hiển làm quan, đắc ý vì công thành danh toại.
                                
      Cũng trong phần cuối của Truyện Kiều, khi bị Hồ Tôn Hiến ép gã cho Thổ Quan. Thúy Kiều đã nhảy xuống sông Tiền Đường để tự trầm, làm cho :

                                    Thổ quan theo vớt vội vàng,
                           Thời đà ĐẮM NGỌC CHÌM HƯƠNG mất rồi!

      Khi Kim Trọng và Vương Quan "cùng thuận một đường phó quan", đến đất Hàng Châu để hỏi thăm tin tức của Thúy Kiều, thì được dân chúng nơi đó cho hay rằng "Nàng Kiều công cả chẳng đền, Lệnh quan lại bắt ép duyên Thổ tù", cho nên :

                               Nàng đà GIEO NGỌC TRẦM CHÂU,
                           Sông Tiền Đường đó ấy mồ hồng nhan!

      Cả nhà lại "Giải oan lập một đàn tràng bên sông" để tế Thúy Kiều."Cơ duyên đâu bỗng lạ sao, Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi" và báo tin vui cho cả nhà biết rằng :

                              Khi nàng GIEO NGỌC TRẦM CHÂU,
                              Đón nhau tôi đã gặp nhau rước về,

               
      Vì thế mà cả nhà "Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy" kết thúc cho một chuyện tình có hậu "Hết cơn bỉ cực đến hồi thái lai !"

      Xin được kết thúc Thành Ngữ Điển Tích về chữ NGỌC ở đây.

      Hẹn bài viết tới " THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 80 :  NGŨ "

                       
                      ĐỖ CHIÊU ĐỨC


Thứ Hai, 24 tháng 5, 2021

GIAI THOẠI VĂN CHƯƠNG: NHỮNG CÂU ĐỐI THÚ VỊ (1) - ĐỖ CHIÊU ĐỨC


 

Giai Thoại Văn Chương :  
                                           
              NHỮNG CÂU ĐỐI THÚ VỊ  (1)


          
      Ngoài văn thơ thi từ ca phú ra, trong Văn Học Cổ còn có CÂU ĐỐI mà chữ Nho gọi là ĐỐI LIỄN 對聯. Câu đối chẳng những mang đầy đủ hình thức văn học thi ca như âm luật, vần điệu, điển tích, thành ngữ... ra, còn là một trò chơi tao nhã thú vị và mang đầy tính thách thức trí tuệ và sự nhanh nhạy giữa các văn nhân với nhau. Bỏ qua hết những luật lệ và sự diễn tiến hình thành của câu đối, trong phạm vi bài nầy ta chỉ kể nhau nghe về những giai thoại và xuất xứ của những câu đối hay ho lý thú trong văn học cổ từ xưa đến nay để tiêu khiển trong lúc trà dư tửu hậu mà thôi !

      Để mở đầu cho đề tài hấp dẫn và lý thú nầy, trước tiên xin mời nghe giai thoại về câu đối của vua Càn Long đời Thanh sau đây.
      Như ta đã biết, Càn Long 乾隆 là niên hiệu của Thanh Cao Tông 清高宗 Ái Tân Giác La-Hoằng Lịch 愛新覺羅·弘歷, là ông vua thứ tư mạnh nhất trong Thanh sơ Tam Đế, và cũng là ông vua sống thọ nhất, trị vì lâu nhất trong lịch sử Trung Hoa. Ông ở ngôi 60 năm, sau khi nhường ngôi rồi còn nhiếp chính thêm 3 năm nữa, vị chi cầm quyền đến 63 năm và sống thọ đến 89 tuổi. Tương truyền...
      Khi Càn Long du giang nam, lúc dạo chơi ở Tây Hồ, khi đến viếng Linh Ẩn Tự nhà vua gặp một ông lão đi cúng chùa thọ đến 141 tuổi, nhưng vẫn còn minh mẫn đi lại như thường. Vua bèn làm một đôi câu đối tặng cho ông lão như sau :

              花甲重開,外加三七歲月;Hoa giáp trùng khai, ngoại gia tam thất tuế nguyệt;
              古稀雙慶,內多一個春秋。Cổ hi song khánh, nội đa nhất cá xuân thu.

Chú thích :
      - Một HOA GIÁP là 60 năm, nên HOA GIÁP TRÙNG KHAI 花甲重開 là Hoa giáp mở ra 2 vòng, 60 x 2 là 120 năm. NGOẠI GIA 外加 là Ngoài ra còn thêm, TAM THẤT TUẾ NGUYỆT 三七歲月 là ba(3) bảy(7) tháng năm. 3 lần 7 là 21 năm. Tổng cộng : 120 + 21 = 141 năm.
     - CỔ HI là 70 tuổi, CỔ HI SONG KHÁNH 古稀雙慶 là 2 lần mừng tuổi cổ lai hi là 70x2 =140 năm. NỘI ĐA 內多 Bên trong còn thêm, NHẤT CÁ XUÂN THU 一個春秋 là 1 cái xuân thu tức là 1 năm nữa. Tổng cộng 140 + 1 = 141 năm.

      Câu đối trên có nghĩa :
                        - Hoa Giáp hai vòng, ngoài thêm tháng năm ba bảy;
                        - Cổ Hi hai lượt, trong còn xuân hạ một lần.

        Hai vế đối đều xoay quanh các con số đưa đến số tuổi thọ của ông lão là 141 tuổi. Đây chỉ là một cách chơi chữ bằng các con số của nhà vua mà thôi. 

                      Inline image
                        Vua Càn Long qua họa hình và tạo hình trong điện ảnh.

        Một lần khác, Càn Long hoàng đế lại cải trang làm dân thường, cùng với tùy thần là Trương Ngọc Thơ cùng đi uống rượu ở một thanh lâu. Đang khi tửu hứng, nhà vua bèn chỉ vào một ca nhi họ Nghê đọc câu :

                   妙人兒倪氏少女;  Diệu nhân nhi Nghê thị thiếu nữ;
Có nghĩa :
               Con người tuyệt diệu là thiếu nữ họ Nghê. 

     Cái lắc léo của câu nói nghe ra rất bình thường nầy là : Chữ NHÂN 亻và chữ NHI 兒 ghép lại thành chữ NGHÊ 倪; còn chữ THIẾU 少 và chữ NỮ 女 ghép lại thành chữ DIỆU 妙. 

     Trong một lúc, Trương Ngọc Thơ không biết phải đối lại như thế nào. Thời may có một ca nhi khác đứng cạnh nghe thấy, bèn đối là :

                  大言者諸葛一人。  Đại ngôn giả Gia Cát nhất nhân.
Có nghĩa :
                  Người nói lớn tiếng chỉ mình ông Gia Cát.

     Vế đối lại thật tài tình : Chữ NGÔN 言 và chữ GIẢ 者 ghép lại thành chữ GIA 諸; còn chữ NHẤT 一 chồng lên lên trên chữ NHÂN 人 thì thành chữ ĐẠI 大.

     Vua Càn Long khen hay, bảo Trương Ngọc Thơ thưởng cho nàng ta ba chung rượu. Trương Ngọc Thơ cầm bình lên rót, nào ngờ rượu trong bình đã hết, chỉ nhễu ra mấy giọt. Nàng ca nhi cười nói với nhà vua :

                永凉酒,一點两點三點, Vĩnh Lương tửu, nhất điểm nhị điểm tam điểm;
Có nghĩa :
                 Rượu Vĩnh Lương, một nhễu, hai nhễu, ba nhễu;

      Chữ ĐIỂM 點 vừa có nghĩa là một Chấm, vừa có nghĩa là một giọt, một nhễu nước, trà, hay rựơu...mà chữ VĨNH 永 có một chấm ở trên đầu, chữ LƯƠNG 凉 có 2 chấm bên trái, chữ TỬU 酒 có 3 chấm bên trái.
      Vua Càn Long trong một lúc không nghĩ ra được câu gì để đối lại, còn đang ngỡ ngàng, thời may có người bán hoa đi vào, cận thần Trương Ngọc Thơ trông thấy các loại hoa, bèn nhanh trí đáp rằng :

                  丁香花百頭千頭萬頭。 Đinh Hương hoa, bách đầu thiên đầu vạn đầu. 
Có nghĩa :
                Hoa Đinh Hương, trăm đầu ngàn đầu vạn đầu.

     Đinh Hương là loại hoa nhỏ, một chùm có rất nhiều đầu hoa. Chữ trăm, ngàn, vạn là phiếm chỉ có rất nhiều rất nhiều đầu hoa mà thôi. Nhưng hay ở chỗ chữ BÁCH 百 có đầu là một gạch ngang 一 giống như chữ ĐINH 丁. Chữ THIÊN 千 có đầu  giống như là chữ HƯƠNG 香, chữ VẠN 萬 có thảo đầu 艹 giống như là chữ HOA 花. 

     Câu đối trên là lối chơi chữ bằng cách nhận định tự dạng, những phần giống nhau trong một chữ. Lối nầy chỉ thích hợp với những người thật giỏi chữ Nho mà thôi ! Sau đây lại là một lối chơi chữ khác nữa của nhà vua...

                                Inline image

        Trong thành Bắc Kinh lúc bấy giờ có một tửu lâu tên là "THIÊN NHIÊN CƯ 天然居". Có nghĩa là : Cư trú trong thiên nhiên. Một hôm, Càn Long lại vi phục xuất tuần, khi đi ngang qua tửu lâu nầy, nhà vua đã nổi hứng ra một vế đối như sau :

              客上天然居,居然天上客; Khách thượng thiên nhiên cư, cư nhiên thiên thượng khách;
Có nghĩa :
            - Khách lên trên tửu lầu Thiên Nhiên Cư, thì Đương nhiên là khách qúy ở trên trời.

        Cái khó của câu đối nầy là 5 chữ sau theo thứ tự ngược lại với 5 chữ trước. Nhưng ý nghĩa lại hoàn toàn khác nhau, như chữ THƯỢNG phía trước là Động Từ có nghĩa là "Đi Lên"  (còn được đọc là THƯỚNG), chữ THƯỢNG phía sau là Hình Dung Từ, nên THƯỢNG KHÁCH 上客 có nghĩa là "Khách Quý", nếu đọc liền ba chữ THIÊN THƯỢNG KHÁCH thì có nghĩa là "Khách ở trên trời"; còn CƯ NHIÊN 居然 có nghĩa là "Hiễn nhiên, đương nhiên"... Nên khi viết xong vế trên rồi, thì nhà vua nghĩ mãi cũng không ra được vế đối lại cho hay, bèn đọc cho triều thần nghe và ra lệnh cho mọi người đối lại. Khi các quan còn đang loay hoay tìm câu đối thì Thừa Tướng Kỹ Hiểu Lam 紀曉嵐 đã đối lại rằng :

                僧遊雲隱寺,寺隱雲遊僧。Tăng du Vân Ẩn Tự, Tự ẩn vân di tăng.
Có nghĩa :
              - Nhà sư dạo chơi Vân Ẩn Tự, Mái chùa che khuất nhà sư vân du.

       Chữ DU 遊 phía trước là Động từ, có nghĩa là Đi dạo chơi; chữ DU phía sau đi với chữ VÂN thành VÂN DU 雲遊 là trôi nổi như đám mây vô định, nên VÂN DU TĂNG 雲遊僧 thì VÂN DU là Hình Dung Từ bổ nghĩa cho chữ TĂNG, chỉ Nhà sư đi giảng đạo trôi nổi khắp nơi vô định, như sư Giác Duyên trong Truyện Kiều, khi Thuý Kiều lập am xong cho người đi tìm sư thì mới biết :
                                  Sư đà hái thuốc phương xa,
                               Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu ?

       Vế đối lại quá hay, nên các quan và nhà vua đều tán thưởng. Chuyện câu đối của ông vua trường thọ nầy còn dài dài, sẽ kể tiếp ở những phần sau...  Để tạm kết thúc bài viết nầy, xin mời nghe một câu đối rất lý thú cũng của một nhân sĩ đời Thanh.

      Lý Văn Phủ 李文甫 từ nhỏ đã nổi tiếng là thần đồng. Một hôm theo thầy đi dạo. Thầy chỉ ngọn núi xanh xa xa phía trên đĩnh có tuyết phủ trắng xóa đọc :

                Thanh sơn nguyên bất lão, vị tuyết bạch đầu. 青山原不老,為雪白頭。
Có nghĩa :
             - Núi xanh vốn chẳng già, vì tuyết phủ mà đầu bac.

     Phủ ngẫm nghĩ giây lâu, nhìn hồ nước trước mắt đọc vế đối lại là :

               Lục thủy bổn vô ưu, nhân phong trứu diên.   綠水本無憂,因風皺面;
Có nghĩa :
            - Nước biếc vốn chẳng ưu tư, bởi gió thổi nên nhăn mặt.

      Câu đối nầy hay ở chỗ nói lên được vì tác động ngoại lai mà làm cho bản chất thay đổi. Nước bản thân không có phiền muộn gì cả, mặt nước nhăn vì bị gió thổi chớ không phải tại buồn lo; cũng như núi xanh bị tuyết phủ nên đầu trắng xóa, chớ không phải vì già mà đầu bạc. Câu đối nầy khác nghĩa hoàn toàn với 2 câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan trong bài thơ "THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ":

                          Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
                          Nước còn cau mặt với tang thương.

      "Trơ gan cùng tuế nguyêt" là đương đầu chịu đựng với thời gian...
      "Cau mặt với tang thương" là cảm thán xúc động trước sự tang thương biến đổi, mặc dù nước là vật vô tri...

                   Inline image

      Cảm khái trước câu đối trên, người đời sau đã thêm vào mỗi vế đối một ý như sau đây :

                              綠水本無憂,因風皺面, 風止水猶綠;
              Lục thủy bổn vô ưu, nhân phong trứu diện, phong chỉ thủy do lục;
                              青山原不老,為雪白頭, 雪化山更青。
              Thanh sơn nguyên bất lão, vị tuyết bạch đầu, tuyết hoá sơn cánh thanh.
Có nghĩa :
             - Nước biếc vốn không lo, vì gió mà nhăn mặt, gió ngừng nước vẫn biếc;
             - Núi xanh vốn chẳng già, vì tuyết mà đầu bạc, tuyết tan núi càng xanh.

      "Tuyết tan núi càng xanh" Núi càng xanh càng như trẻ lại hơn, chớ thời gian qua đi rồi thì con người sẽ không bao giờ trẻ lại được nữa !

        Hẹn bài viết tới : 
                                  NHỮNG CÂU ĐỐI THÚ VỊ (2)

                                                  杜紹德
                                                ĐỖ CHIÊU ĐỨC