CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN BLOG NHÃ MY. CHÚC CÁC BẠN THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2024

VỀ VƯỜN ĂN GỎI ỐC HÚT - TỪ KẾ TƯỜNG

 



VỀ VƯỜN ĂN GỎI ỐC HÚT

Ăn mãi thịt cá cũng ngán. Hôm nay các bạn theo tôi đi bắt Ốc hút về làm gỏi, đổi món cho bữa cơm chiều nhé. Món gỏi Ốc hút nếu không ăn cơm thì… nhậu cũng bá cháy, có thể gọi là mồi bén, đặc sản, không phải cứ có tiền là ăn được đâu, kể cả trong nhà hàng 5 sao.
Trước hết, tôi hỏi các bạn có ai biết con Ốc hút chưa? Ốc hút vỏ nâu, thân xoắn, dài khoảng 2cm, nhỏ cỡ ngón tay út. Ốc hút khác với Ốc len mặc dù về hình dáng 2 loài này giống nhau, chỉ khác về kích cỡ. Ốc len to và dài hơn Ốc hút, Ốc len có con to cỡ ngón tay giữa, dài khoảng 3-4cm. Nhìn thoáng bên ngoài Ốc len trông “ốm” như một cô người mẫu giữ dáng, còn Ốc hút trông “đầy đặn” hơn, đây là con ốc của bùn lầy, ruộng rẫy. Còn Ốc len nhiều khi tôi thấy nó đeo ở… bụi tre. Tất nhiên về thuần túy ẩm thực, hương vị Ốc hút ngon hơn Ốc len, dù rằng ở thành phố ít ai phân biệt được tên gọi của 2 loài ốc này. Các cô gái tới các quán ốc ở thành phố thường gọi dĩa Ốc len xào dừa, người ta bưng ra một dĩa khoảng chục con Ốc hút nhưng lại nghĩ là Ốc len. Còn nếu bưng ra một dĩa ốc “chân dài” nhìn giống như không có ruột bên trong thì đích thị đó là… Ốc len. Nhưng dân sành điệu sẽ biết chất lượng Ốc len không bằng Ốc hút.
Bây giờ, Ốc hút cũng khó mua được ở chợ quê vì loài ốc này rất hiếm. Muốn ăn phải lăn vào bếp, còn muốn có món gỏi Ốc hút thì không còn cách nào khác phải xuống rạch, lên kênh, lặn ngụp, lội bùn mới tìm bắt được con Ốc hút quý hiếm trong thời buổi “của khó người đông” như ở quê tôi mà trước đây có thể gọi là quê hương của Ốc hút vì ruộng rẫy, kênh rạch nhiều.
Ngày xưa, người đi mò cua bắt ốc thường có một dụng cụ để đựng, buộc dây ngang bụng, kéo lê trên mặt nước vì nó nổi phê phê như cái phao, đó là trái bầu tròn móc ruột to cỡ cái thau nhựa phơi khô, khoét một lỗ vừa lòng ban tay ở phần cuống gọi là miệng bầu. Trái bầu này chắc và bền, càng ngâm bùn càng bóng láng, người không biết lội có thể ôm trái bầu này lội qua rạch, qua kênh. Nó có thể đựng cua, còng, ốc, cá, tôm, tép, lươn… dùng cho việc đi xúc, đi mò, đi bắt hôi, đi tát mương, đi nơm, đi đặt lợp, đặt nò... Nói tóm lại nó là “trái bầu thần thánh” của người quê, sống gắn bó với sông rạch.
Nhưng bây giờ tìm đâu ra “trái bầu thần thánh” này giữa làng quê tiến lên… nông thôn mới? Cũng may là nhà tôi có cái can đựng rượu 20 lít, tôi thay thế “trái bầu thần thánh” bằng cách lật ngang nó lại khoét cái lỗ tròn bằng miệng chén ở giữa để bắt ốc bỏ vào. Khi lội rạch tôi buộc sợi dây nylon ở chỗ nắp can nhựa đã vặn chặt, sợi dây đủ dài để buộc vào eo lưng tôi, tôi lội tới đâu, cái can nhựa bồng bềnh theo tôi tới đó, chỉ cần một động tác quơ tay ra sau lưng, kéo can nhựa tới gần để bỏ ốc vào là xong.
Bắt Ốc hút phải đợi con nước lớn từ sông vào rạch, chọn thời điểm con nước đứng là tốt nhất, vì lúc này những đám dừa nước, lác, ô rô, cóc kèn sẽ là nơi lũ ốc đeo bám nhiều nhất, người bắt ốc chỉ việc “rong” theo mí nước giữa hai bờ rạch, bờ kênh dùng tay “tuốt” lũ ốc đang đeo bám bỏ vào can nhựa. Khi con nước chớm “giựt ròng” thì leo lên bờ, xách can nhựa đầy ốc về nhà. Nhưng bây giờ làm gì có ốc nhiều mà bỏ đầy can nhựa? Tôi đã lặn ngụm dưới con rạch gần nhà cả buổi cũng chỉ được khoảng một lít ốc, đủ để làm một dĩa gỏi Ốc hút cũng là may mắn lắm rồi.
Ốc được rửa sạch bùn, ngâm trong nước vo gạo hoặc nước ớt cay cho ốc nhả sạch nhớt, trút hết ốc vào nồi nước có lót lá sả để luộc ốc, để lửa lớn, nấu sôi lên khoảng 10 phút nghe mùi thơm đặc trưng thì ốc chín, đổ ốc ra rổ, dùng dao chặt phần đuôi ốc, ra vườn bẻ gai bưởi, gai chanh để lể ốc (thường người ta lấy kim tây, nhưng dùng gai bưởi, gai chanh thịt ốc lấy ra sẽ thơm hơn). Thịt Ốc hút có màu xanh rất đặc trưng, rất đẹp mắt bỏ vào cái tô để sửa soạn cho món gỏi Ốc hút.
Trước đó tôi đã ra vườn chuối tìm bẻ được cái bắp chuối, lột bỏ phần vỏ ngoài xắt nhuyễn ngâm vào thau nước pha muối, thái nhỏ một nhúm rau răm, húng quế. Bắp chuối vớt ra trộn với rau răm, húng quế, cho vào một muỗng canh giấm nuôi đã pha muỗng cà phê đường cát (không có giấm thay bằng nước chanh cũng được), đổ hết ốc vào, rắc một nhúm đậu phộng rang đâm nhuyễn. Thế là đã có một dĩa gỏi Ốc hút chua chua, ngọt ngọt, bùi bùi, béo béo, thơm thơm. Làm chén nước mắm tỏi ớt chanh nêm chút đường cho dịu (nước mắm pha nước sôi để nguội ấm ấm mới ngon).
Món gỏi Ốc hút ăn trong bữa cơm quê sẽ tăng hương vị ẩm thực rất nhiều. Nếu không thì để riêng, nhậu cũng rất… hao rượu đế. Các bạn làm thử xem. Nhà hàng 5 sao cũng cần đưa món này vào thực đơn và nâng nó lên thành “đặc sản”, bảo đảm sẽ thu hút khách sành điệu, nhất là người xa quê ăn lại món này để nhớ quê với cảm xúc bồi hồi về tuổi thơ đã mất.
Bây giờ người ta có thể nuôi đủ thứ, kể cả nuôi cá hồi. Nhưng con Ốc hút vẫn mãi là đặc sản miệt vườn, miệt ruộng sinh sản trong thiên nhiên không ai nuôi được.


TỪ KẾ TƯỜNG

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2024

MÊNH MÔNG ĐỒNG CHIỀU - THƠ NGUYỄN AN BÌNH

 




MÊNH MÔNG ĐỒNG CHIỀU

Sương lam giăng dải lụa mềm
Đi qua nỗi nhớ chao nghiêng cánh cò
Bùn non ngai ngái đôi bờ
Nghe hương lúa chín hẹn hò lời ru.

Cánh đồng thơm gió mùa thu
Heo may chẻ ngọn ngọt lừ khói cơm
Chân trần đau gốc rạ rơm
Biết em còn thấy chiều hôm thì thầm.

Một thời hoài niệm xa xăm
Ước ao trở lại một lần thương yêu
Mùi làng còn giữ chắt chiu
Đất khô bờ bãi liêu xiêu bạc lòng.

Ta về đứng giữa mênh mông
Đồng chiều bát ngát buồn không thấy người
Bồng bềnh mây – Lững lờ trôi
Phải đâu tóc trắng mẹ tôi cuối trời.

Sáo diều vang vọng à ơi
Vàng bông trĩu hạt ngậm lời ca dao
Chợt quên tóc đã ngả màu
Mùa xưa vơi nỗi dạt dào nhớ quê.


NGUYỄN AN BÌNH
24/07/2024

Chủ Nhật, 15 tháng 9, 2024

NGÕ TRÚC VẮNG - HUỲNH THANH SANG | Sáng tác: BẮC SƠN







NGÕ TRÚC VẮNG
SÁNG TÁC BẮC SƠN
TRÌNH BÀY HUỲNH THANH SANG


BÃO QUÊ TÔI - THƠ TỪ KẾ TƯỜNG

                                     

                                  

                


 BÃO QUÊ TÔI

 

Bão quê tôi vẫn thổi tới từ biển
Những dự báo như sóng ào lên giận dữ
Không ai biết trước được cơn cuồng nộ của thiên nhiên
Người vợ vẫn ẵm con nhìn qua mắt bão
Trông về hướng con tàu đánh cá chơi vơi đâu đó
Nôn nóng đợi chồng

Những làng chài nhỏ nhoi
Đâu khác mảnh lưới phơi trong lũ
Mưa trắng mái nhà ngu ngơ không còn ai
Tất cả chìm sâu dưới nước
Tơi tả một bầu trời
Nghiêng theo những vai cầu dập duềnh trôi khuất bóng

Thứ quy luật khắc nghiệt được làm bằng thời tiết
Bức tranh chẳng họa sĩ nào muốn vẽ ra
Cứ đến hẹn lại quay về tái hiện gam màu buồn từ biển
Thành phố xám lạnh không mặt trời
Tình yêu ẩm ướt
Những con đường cây gãy đổ chênh vênh

Bão quê tôi vẫn thổi tới từ biển
Mảnh vỡ con tàu còn tanh nồng xác cá
Người cha không trở về ôm con trong vòng tay lộng gió
Ngực tươm mùi mồ hôi muối mặn
Bà mẹ già trùm khăn
Giấu gương mặt nhăn nheo chảy xuống hai hàng nước mắt

Quê hương tôi chạy dài theo chân biển
San sát những làng chài
Mưa nắng hai mùa giờ có thêm mùa bão lũ
Đến hẹn lại quay về theo những bản tin dự báo
Thêm ánh mắt đợi chồng, mẹ ngóng mong con
Những mái nhà sập dựng lên chờ cơn bão mới

Bão quê tôi vẫn thổi tới từ biển
Sáng nay mưa trắng những góc đường
Em bên kia đầu dầu dây, giọng lạc đi trong vùng gió xoáy
Mái tóc ẩm ướt không có thời gian hong khô
Đôi mắt tôi cháy bỏng ngọn đèn soi qua giông bão
Bàn tay vẫy ấm bầu trời rét cóng
Thành đốm lửa hơ em ngày giá băng.


TỪ KẾ TƯỜNG

Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2024

RAU TẦN, RAU TẢO CÓ PHẢI LÀ ĐỒ CÚNG TẾ NGÀY XƯA Ở TRUNG HOA KHÔNG? - LA THUY

 


                                        Một loại rau Tần: 
Rau bợ nước

Tôi chia sẻ STT “Nguồn gốc hai chữ ‘tảo tần’ của trang face “Chiết tự chữ Hán” vào trang face của tôi. Nội dung phần đầu của STT đó như sau:
 
  “ ‘Tảo tần’là một từ để chỉ đức tính đảm đang, chịu thương chịu khó, thường là của phụ nữ. Nhưng nguồn gốc của từ này là như thế nào?
‘Tảo tần’, chữ Hán viết là 藻蘋, trong đó:
     - TẢO  là rong rêu, chỉ chung các thứ cỏ mọc ở dưới nước. Như “hải tảo” 海藻 là rong biển.
     - TẦN  còn đọc với âm "bình", có lẽ TẦN là một loại rau lục bình nổi trên mặt nước, ta thường gọi là bèo.
 Như vậy, ‘tảo tần’ là rau tảo và rau tần. Người xưa dùng rau tảo và rau tần để dâng lên cúng tổ tiên. Hái rau tảo và rau tần là việc chuyên trách của người phụ nữ xưa. Rau tần thường mọc hoang dại bên bờ suối, còn tảo thì sinh trưởng trong lòng suối như các loại rong, cả hai đều không dễ mà hái được. Do đó người vì đạo hiếu với tổ tiên mà lặn lội đi tìm rau tảo rau tần là người đảm đang, đáng khen ngợi.....”
 
Khi tôi chia sẻ bài này lên trang face của tôi, nhiều bạn vào ghi còm, khen chê và thắc mắc đủ cả. Đặc biệt có một bạn ghi còm như sau:

“Đúng là lươn lẹo suy luận cách ngờ nghệch khi tần, tảo là những thứ rau cỏ mọc hoang kém giá trị mà dám bảo đem về thờ cúng !”.
 
Tôi trả lời bạn ấy:

“Những rau cỏ mọc hoang trong thiên nhiên đâu phải là những thứ kém giá trị, có khi là thảo dược quý hiếm có giá trị rất cao như: đông trùng hạ thảo, nhân sâm, linh chi... mà người ta săn lùng đỏ mắt và đang cố gắng đem về trồng trong vườn nhưng sản phẩm thu hoạch do người trồng có phẩm chất không bằng sản vật trong thiên nhiên.
TẢO và TẦN mà người phụ nữ Trung Hoa xưa vất vả tìm kiếm và thu hái để cúng tế, hẳn là loại TẢO và TẦN đặc biệt có ý nghĩa và giá trị cao chứ đâu phải thứ tảo và tần vô giá trị, bạ đâu vơ nấy...”
 
Hôm nay, tôi viết bài này, tìm từ thư tịch cổ nói về việc người phụ nữ Trung Hoa thuở xưa hái rau Tảo, rau Tần đem về cúng tế. Việc khác nữa, tra cứu các loại rau Tần, rau Tảo đó có giá trị không!
 
1/ Phụ nữ Trung Hoa thuở xưa hái rau Tảo, rau Tần để cúng tế:

Trong cuốn “Hán Việt từ điển giản yếu”, học giả Đào Duy Anh đã giảng từ “tảo tần” như sau: “rau tảo với rau tần là thứ rau làm đồ tế [tức đồ cúng]. Kinh Thi có câu: Thái tần thái tảo là việc chuyên trách của người chủ-phụ [tức người đàn bà làm chủ trong nhà]”.
Trong thư viện.net có đăng ba bài thơ THÁI TẦN được cho là của Khổng Tử trong Kinh Thi ca ngợi người “vợ hiền dâu thảo”, chăm chỉ hái rau Tần, rau Tảo về làm cỗ cúng tổ tiên được Chu Hy chú giải. Xin nêu ra:

采蘋 1
 
于以采蘋?
南澗之濱。
于以采藻?
于彼行潦。
 
THÁI TẦN 1
 
Vu dĩ thái tần,
Nam giản chi tân.
Vu dĩ thái tảo,
Vu bỉ hành lão.
 
Dịch nghĩa
 
HÁI RAU TẦN 1
 
Thì để hái rau tần,
Ở bờ khe núi nam.
Thì để hái rong tảo
Ở chỗ nước mưa chảy cuốn nơi ngòi rãnh kia.
 
Chú giải của Chu Hy:
 
Chương này thuộc phú.
tần: rau lục bình nổi trên mặt nước, người Giang Đông gọi là bèo.
tân: bờ nước.
tảo: rong tụ, tảo ở đáy nước, cọng như ngọn cây thoa, lá như cỏ bồng.
hành lão: cái rãnh nước mưa chảy cuốn đi.
 
Nước ở phía nam chịu sự giáo hoá của Văn Vương, vợ của quan đại phu năng đi việc cúng tế, người nhà của nàng mới kể lại việc ấy mà khen tặng.
 
Người ta cho rằng, thành ngữ “buôn tảo bán tần” có xuất xứ từ bài thơ “Thái Tần1” (采蘋1) của Khổng Tử
 
采蘋 2
 
于以盛之?
維筐及筥。
于以湘之?
锜及釜。
 
THÁI TẦN 2
 
Vu dĩ thỉnh chi,
Duy khuông cập cử.
Vu dĩ tương chi,
Duy kỹ cập phủ.
 
Dịch nghĩa
 
Thì để đựng vào,
Ở trong cái giỏ vuông và cái giỏ tròn.
Thì để luộc nấu,
Ở trong cái nồi đồng ba chân hay nồi không chân.
 
Chú giải của Chu Hy:
 
Chương này thuộc phú.
khuông: cái giỏ vuông.
cử: cái giỏ tròn.
tương: nấu luộc sơ để gài làm dưa.
kỹ: cái nồi đồng có ba chân (giống như cái vạc nhỏ).
phủ: cái nồi đồng không cho chân.
Bấy nhiêu điều ấy đủ nhận thấy sự tuần tự thông thường và ý nghiêm kính chỉnh tề.
 
采蘋 3 
 
于以奠之?
宗室牖下。
誰其尸之?
有齊季女。
 
THÁI TẦN 3
 
Vu dĩ điện chi,
Tông thất dũ hộ (hạ).
Thuỳ kỳ thi chi ?
Hữu trai quý nữ.
 
Dịch nghĩa
 
Thì để đặt xuống
Ở dưới cửa sổ của nhà tông miếu.
Ai làm chủ cuộc tế lễ này ?
Có cô thiếu nữ kính cẩn.
 
Chú giải của Chu Hy:
 
Chương này thuộc phú.
 
điện: đặt để xuống.
tông thất: tông miếu, quan đại phu và quan sĩ tế ở tông miếu.
dũ hạ: góc tây nam trong nhà gọi là áo, tế ở dưới cửa sổ ở góc tây nam trong nhà.
thi: chủ.
trai: đáng kính cẩn.
quý nữ: thiếu nữ.
 
Trong lễ cúng tế, người chủ phụ đứng cúng tế, dâng lên những dĩa đựng dưa. Người chủ phụ (vợ chính) ấy trẻ trung lại kính cẩn thì càng thấy tính chất đẹp đẽ mà sự giáo hoá đã đến từ xa vậy
.
*
Tản Đà dịch gộp cả ba chương thiên Thái tần.
 
Đi hái rau tần
Ở gần bến khe
Đị hái rau tảo
Ở ngòi bên kia
Đựng vào những cái giỏ tre
Cái âu cái chã, ấy về nộm dưa
Dâng lên dưới cửa nhà thờ
Có cô bé nhỏ bây giờ đứng coi
Là người thành kính hơn ai.

*
Như vậy, các bài thơ THÁI TẦN trong Kinh Thi và chú giải của Chu Hy kể lại việc phụ nữ Trung Hoa thuở xưa hái rau Tần, rau Tảo về làm dưa, xào nấu ở trong cái nồi đồng ba chân hay nồi không chân. Trong lễ cúng tế, người chủ phụ đứng cúng tế, dâng lên những dĩa đựng dưa.     
Việc chế biến thức ăn, người phụ nữ Trung Hoa có thể để rau Tần, rau Tảo riêng biệt như một dược liệu, họ có thể pha trộn với thịt gia súc, gia cầm qua xào nấu hoặc làm món nộm (món gỏi) rau Tần, rau Tảo đặc biệt. Trong lễ vật cúng tế có thể có rau Tần, rau Tảo do phụ nữ hái lượm và thịt cầm thú do người đàn ông săn bắt...

*
Nhà thơ Hàn Dũ cũng nhắc đến rau Tần, rau Tảo và việc tế cúng trong bài thơ TƯƠNG TRUNG 湘中 trong dịp ông ghé sông Tương cùng sông Mịch La, cảm khái về nhà thơ Khuất Nguyên:
Mịch La là con sông nhỏ nhập vào sông Tương trước khi chảy vào hồ Động Đình. Xưa, Khuất Nguyên, người nước Sở cuối thời Chiến Quốc, là người yêu nước nhưng bị gian thần hãm hại đày đi Trường Sa. Trên đường đi, ông phẫn chí viết ra nhiều bài từ nổi tiếng còn lưu truyền tới nay. Khi qua sông Mịch La, ông nhảy xuống tự vẫn.
 
湘中
猿愁魚踊水翻波,
自古流傳是汨羅。
蘋藻滿盤無處奠,
空聞漁父扣舷歌。
          韓愈
 
TƯƠNG TRUNG

Viên sầu ngư dũng thuỷ phiên ba,
Tự cổ lưu truyền thị Mịch La.
Tần tảo mãn bàn vô xứ điện,
Không văn ngư phủ khấu huyền ca.
                                      HÀN DŨ
 
Dịch nghĩa
 
TRONG VÙNG SÔNG TƯƠNG
 
Vượn hú buồn, cá quẫy, sóng xô nhấp nhô,
Từ xưa đã lưu truyền về sông Mịch La này.
Nơi đây có nhiều rau Tần và rong Tảo mà không có nơi thờ ông,
Chỉ nghe tiếng ông chài gõ vào mạn thuyền mà hát.
                                                                                  HÀN DŨ.
 
Xét các từ ngữ liên quan trong bài thơ trên, ta thấy:

VÔ XỨ ĐIỆN 無處奠 : Không có nơi để tiến cúng
 VÔ : Không, không có
 XỨ: Xứ, nơi, chỗ
 ĐIỆN
Tiến cúng.
Bày đồ tế — Sắp đặt, bày biện
 
Rau Tần và rau Tảo là đồ cúng mọc đầy dẫy ra đó, thế mà Điện thờ (chỗ thờ cúng Khuất Nguyên trên sông Mịch La này không có) (thời điểm Hàn Dũ làm bài thơ TƯƠNG TRUNG 湘中)
 
TẦN TẢO ĐỂ TIẾN CÚNG LÀ LOẠI RAU CỎ CÓ GIÁ TRỊ KHÔNG ?
 
Khổng Tử đã viết: “hái rau tần, ở bờ khe núi nam. Hái rong tảo
ở chỗ nước mưa chảy cuốn nơi ngòi rãnh”. Vậy tẩn, tảo là loại rau cỏ mọc hoang dưới nước hoặc bên bờ.
 
Tìm hiểu qua từ điển:
 
 TẦN (Âm Hán Việt: bình, tần)
 
- Từ điển Thiều Chửu
Cỏ tần. Lá nó bốn cái chập làm một hình như chữ điền  nên lại gọi là điền tự thảo 田字草. Còn có tên là tứ diệp thái 四葉菜.
 
Trong bài viết “Ý nghĩa của từ ‘Tần tảo’ theo Tự điển Phật học” có những dòng như sau:

CỎ TẦN được cho rằng thuộc khoa Cỏ Chữ Điền [田字草, Điền Tự Thảo], lá nó bốn cái chấp làm thành hình chữ Điền [], là loại cỏ sống dưới nước lâu năm; là tên gọi của loài Cỏ Bồng, sống bềnh bồng trên mặt nước và cỏ Tảo (rong biển, tên gọi chung các thứ cỏ mọc dưới nước); đều là tên loại cỏ nước. Người xưa thường hái loại cỏ này để làm vật cúng tế, từ đó nó có nghĩa là vật phẩm cúng tế hay sự cúng tế.



Cỏ bồng

Về CỎ BỒNG thì một trang mạng cho biết:
 
Cây bồng mọc dưới nước, thân mềm, thẳng đứng, có bông là lúc cây bắt đầu già. Người miền Tây Nam bộ thường hái khi bồng bồng chưa ra bông, lúc ấy thân non vừa đủ ăn. Khi ăn, người ta bỏ hết lá và gốc, chỉ giữ lại thân nên nhìn thoáng qua, bồng bồng trông rất giống rau muống

https://danviet.vn/loai-co-co-ten-bong-bong-khong-can-trong-ma-moc-dai-len-nhu-nam-dan-mien-tay-hai-ve-an-khen-ngon-nuc-no-20211126143446381.htm

Nhà thơ Trần Huyền Trân có 2 câu thơ:
 
“Mưa bay trắng lá rau tần
Thuyền ai bốc khói xa dần bến mưa...”
 
Rau tần chưa hẳn đã là rau muống, nhưng Trần Huyền Trân vẫn dùng chữ đó để chỉ rau muống, loài rau mọc đầy dưới dòng sông mà mỗi sớm chiều người phụ nữ tần tảo bơi thuyền nhỏ ra hái để nuôi nấng chồng con.

 TẦN

- Từ điển Thiều Chửu

Cỏ tần. Lá nó bốn cái chập làm một hình như chữ điền  nên lại gọi là điền tự thảo 田字草. Còn có tên là tứ diệp thái 四葉菜

*
- Từ điển Trần Văn Chánh

Cây tần, rau bợ nước (Marsilia quadrifolia). Cg. 田字草 [tián zì căo]
 
Rau bợ hay Rau bợ nước, cỏ bợ, cỏ chữ điền (danh pháp hai phần: Marsilea quadrifolia L) là loài cây thuộc họ Rau bợ (Marsileaceae), đó là rau dại mọc khắp nơi, tập trung nhiều ở ao, rãnh, mương, hồ và đầm lầy.
Rau bợ là cây thảo thuộc loại cỏ bán thủy sinh, rất giống loài me đất, thân rễ mảnh bò ngang mặt bùn, có thân bò dưới đất, mảnh, chia thành nhiều mấu, mỗi mấu mang rễ và 2 lá có cuống dài. Lá có 4 thuỳ chéo chữ thập. Bào tử quả là cơ quan mang bào tử, mọc 2-3 cái một ở gốc các cuống lá, các bào tử quả này có lông dày. Mùa sinh sản tháng 5-6. Rau bợ ăn bùi, ngọt như rau ngót, có vị hơi chua của me, tanh giống diếp cá
 
Rau bợ nước

Rau bợ tuy là rau dại nhưng giá trị dinh dưỡng cao và là một dược liệu quý. Dân một số địa phương ở miền Bắc Việt Nam thu hái rau bợ quanh năm để làm rau sống, nấu canh ăn hằng ngày hoặc phơi khô dùng như trà thuốc có tác dụng giải nhiệt cơ thể, trị ngứa, rôm sảy mùa hè. Trong 100 g rau bợ có 4,6% protid, 1,6% glucid, 0,72% caroten vitamin C và cyclolaudenol, rau bợ có vai trò rất lớn trong phòng và trị bệnh đồng thời là nguồn nguyên liệu để chế biến nhiều món ăn ngon như rau bợ nấu với cá rô đồng.

https://vi.wikipedia.org/wiki/Rau_b%E1%BB%A3#:~:text=Rau%20b%E1%BB%A3%20hay%20Rau%20b%E1%BB%A3,m%C6%B0%C6%A1ng%2C%20h%E1%BB%93%20v%C3%A0%20%C4%91%E1%BA%A7m%20l%E1%BA%A7y.

Như vậy loại rau Tần (rau bợ) này được người Việt Nam nấu với cá rô đồng. Không rõ người phụ nữ Trung Hoa thời xưa dùng loại rau Tần này nấu chung với thực phẩm nào khác?

*
Vì TẦN có âm đọc khác là “bình” có nghĩa là bèo, nhưng tôi nghĩ bèo tấm hay lục bình không có giá trị cao để ngưởi phụ nữ Trung Hoa xưa ngâm mình lâu dưới nước để hái, vớt về cúng tế.
 
Tra từ điển về chữ “bình”, ta thấy

 BÌNH (còn đọc là Tần)

- Từ điển Thiều Chửu
Cỏ bình, một loài thanh hao trắng.
 
Cây thanh hao (còn gọi là cây rễ) không quá cao mà chỉ ngang ngang cây lúa, chừng 0,5 - 1m. Lá cây nhỏ như cây kim, dài chưa đến 1cm, mọc thành từng cành xếp tròn quanh cành cây. Cành có màu nâu sậm, cành càng to, càng già, màu càng sậm hơn, những cành non thì có màu vàng, chỉ hơi ngả màu nâu.
 
Cây thanh hao có hoa trắng li ti. Cả cây có mùi thơm rất dễ chịu, được dung làm dược liệu. Từ xưa, thân và cành khô được bó làm chổi quét. Sau thu hoạch, mỗi kilogam được bán với giá 30.000 đồng, đã đem đến cho những người nông dân trồng thanh hao trắng nơi đây nguồn thu nhập ổn định.
 
Thanh hao hoa trắng

Hằng năm, vào tháng 12 dương lịch là vụ thu hoạch. Đó cũng là lúc cánh đồng hoa rễ này ở độ đẹp nhất. Một cánh đồng thanh hao bạt ngàn, xanh mướt, kết hợp với những bông hoa trắng li ti của cây làm nên một cảnh sắc hết sức thanh bình và yên tĩnh. Chính sự bình dị, vẻ đẹp nhẹ nhàng, thanh thoát, cùng với không gian đẹp nên rất nhiều người thích đến đây để được tận hưởng không khí yên bình và hương thơm của loài cây rễ thanh hao.
Thanh hao hoa trắng là một loại dược liệu, được thu hoạch duy nhất một lần trong năm vào dịp tháng 12 Dương lịch. Do thân cây cứng, nên người ta phải đeo găng tay bảo hộ, cầm liềm cắt từng cây, chứ không thể cắt cả bó như lúa.

http://baotnvn.vn/tin-tuc/Phong-su/15578/Mua-thanh-hao

Thanh hao hoa vàng là cây dược liệu thân thảo, sống hàng năm, hoa màu vàng ở đầu ngọn nở vào mùa thu, lá cây vò ra có mùi thơm đặc biệt.
 

Thanh hao hoa vàng

Cây sống lâu năm. Mọc hoang thành từng đám ở vùng đồi núi ven suối, ven sông. Cao từ 1,5-2m. Lá xẻ lông chim 2 lần, thành phiến hẹp, phủ lông mềm, có mùi thơm. Cụm hoa hình cầu hợp thành một chùy kép. Hoa màu vàng nhạt, mỗi cụm hoa gồm 6 hoa: Giữa là hoa lưỡng tính, xung quanh là hoa cái. Hoa chỉ có kích thước 0,5-1mm. Quả bế hình trứng, dài 1mm. Mặt vỏ có tuyến chứa tinh dầu.

https://nhathuoclongchau.com.vn/thanh-phan/thanh-cao

 Một loại cỏ Tần (cỏ bình) khác là “rau thanh hao” còn được gọi là “rau thì là bốn mùa”

Rau thanh hao (rau thì là bốn mùa):
Rau thì là 4 mùa hay còn được gọi là thìa là, có tên nước ngoài là Anethum graveolens. Đây là một loài cây lấy lá làm gia vị và lấy hạt làm thuốc được sử dụng rất phổ biến ở châu Á và vùng Địa Trung Hải. Thì là 4 mùa chứa nhiều Vitamin C và chất xơ.

Rau thanh hao (thì là 4 mùa)

*
 BÌNH (còn đọc là Tần)
Từ điển Nguyễn Quốc Hùng
Tên một loại rau, tương tự rau hao.
 
Rau hao, một loại cây dại tự nhiên, mọc ở khắp nơi trong vườn nhà và vườn hoang. Với chiều cao như gang tay, mảnh mai và mướt mát hơn bất kỳ loại cây nào khác, rau hao mang đến một màu xanh tươi mới. Khi vò nát một ngọn, bạn sẽ cảm nhận được hương thơm đặc trưng của quế và ớt quả, nhẹ nhàng và lạ mắt.

Ngày xưa, rau hao mọc rất nhiều. Điều này đã khiến nó trở thành một phần gắn bó với cuộc sống của người dân quê tôi. Trong đám rau xanh tươi, luôn có những ngọn rau hao xinh xắn. Tôi và những đứa trẻ khác thường đi quanh vườn và hái một nắm rau rồi đem về cho mẹ nấu canh. Trong tiếng nồi canh hòa quyện với hương vị của quê hương, rau hao vẫn giữ nguyên hương thơm và vị ngọt tự nhiên.
Nấu canh bầu với rau hao cũng là một truyền thống đặc biệt. Khi kết hợp với các loài hàu, nghêu hay bí, bầu, bắp cải… món canh trở nên đặc sắc hơn bao giờ hết. Mùi thơm của rau hao, hương ngọt của hàu, nghêu kết hợp với đậm đà của bầu và bắp cải, tạo nên một hương vị đầy hấp dẫn và ấm áp.

Cây rau hao nấu canh bí bầu

https://detuoivinhloc.net/rau-hao-nau-canh-bau.html

Như vậy loại rau Tần (rau hao) này được người Việt Nam nấu canh bầu kết hợp với các loài hàu, nghêu hay bí, bầu, bắp cải…
Không biết người phụ nữ Trung Hoa chế biến xào nấu như thế nào?
 
Việt Nam có một loại rau Tần còn gọi cây húng chanh là một trong những vị thuốc dân gian được sử dụng phổ biến để điều trị các chứng bệnh như ho, cảm cúm, sốt.

Rau tần (húng chanh)
 
 TẢO
 
- Từ điển Thiều Chửu
 Rong, rau bể, tên gọi tất cả các thứ cỏ mọc ở dưới nước.
 Rong là một thứ cỏ mọc dưới nước có văn vẻ đẹp, cổ nhân dùng để trang sức mũ áo cho đẹp, cho nên cái gì dùng làm văn sức đều gọi là tảo. Như từ tảo 詞藻 lời đẹp, cũng viết là 辭藻. Lấy lời tốt đẹp mà khen lao người gọi là tảo sức 藻飾. Bình luận nhân vật gọi là phẩm tảo 品藻 hay tảo giám 藻鑑.
Từ ghép
hải tảo 海藻 • tảo tần 藻蘋 • tần tảo 蘋藻

*
Ngày nay, chúng ta biết nhiều loại TẢO có giá trị
Tìm hiểu về các loại TẢO: Trên mạng có nhiều loại tảo, tôi chỉ nêu vài loại tảo có ích lợi. Phụ nữ Trung Hoa thời cổ chọn hái loại TẢO có ích lợi, có giá trị nào về để chế biến để cúng tế, chưa tìm hiểu được...
 
TẢO ĐỎ

Tảo đỏ là những sinh vật quang tự dưỡng thuộc ngành Rhodophyta. Phần lớn các loài rong đều thuộc nhóm này. Các thành viên trong ngành có đặc điểm chung là màu đỏ tươi hoặc tía. Màu sắc của chúng là do các hạt sắc tố phycobilin tạo thành. Phycobilin là sắc tố đặc trưng cho tảo đỏ và vi khuẩn lam. Người ta cho rằng lục lạp của tảo đỏ có nguồn gốc từ vi khuẩn lam cộng sinh với tảo mà thành.
Hiện nay đã phân loại được gần 4.000 loài tảo đỏ, phần lớn sống ở biển, chỉ có một số ít sống ở nước ngọt.

Tảo đỏ

-  Agar hoặc agar-agar, là một chất giống như thạch, làm từ tảo đỏ.
Agar là một hỗn hợp của hai thành phần: agarose polysaccharide mạch thẳng, và một hỗn hợp không đồng nhất của các phân tử nhỏ hơn gọi là agaropectin. Nó tạo thành cấu trúc hỗ trợ trong thành tế bào của một số loài tảo, và được giải phóng khi đun sôi. Những tảo được gọi là agarophytes, và thuộc về phylum Rhodophyta (tảo đỏ).
Agar đã được sử dụng như một thành phần trong các món tráng miệng ở khắp châu Á, và cũng là chất nền vững chắc để chứa môi trường nuôi cấy cho công việc vi sinh. Agar có thể được sử dụng như một chất nhuận tràng, một chất ức chế sự thèm ăn, một chất thay thế gelatin cho người ăn chay, một chất làm đặc cho Xúp, trong bảo quản trái cây, kem lạnh và các món tráng miệng khác, như một chất làm trong trong sản xuất bia, giấy và vải định cỡ.
 
TẢO NÂU

Tảo nâu là nguyên liệu khá phổ biến trong nhiều món ăn. Tuy vậy, không phải ai cũng biết tác dụng của tảo nâu đối với sức khỏe và sắc đẹp. Đây là loại tảo mọc ở các đại dương, bạn cũng có thể thấy các mảng tảo màu xanh-nâu và nhầy nhụa trôi dạt vào bãi biển. Vậy tảo nâu có tác dụng gì đối với sức khỏe?

Tảo nâu

Tảo nâu là gì? Thành phần dinh dưỡng của tảo nâu
Theo One Green Planet, hiện có khoảng 1500 loài tảo nâu khác nhau được biết đến, đều là sinh vật biển ở đại dương. Đặc điểm thường thấy là tảo nâu không có rễ, thân hoặc hoa, các phiến trông giống như chiếc lá. Màu nâu đặc trưng của tảo nâu hình thành do sắc tố của fucoxanthin cùng chất diệp lục.
 
TẢO XANH ULVACEAE

Tảo xanh trong họ Ulvaceae

Ulva intestinalis là một loại tảo xanh trong họ Ulvaceae, được biết đến với tên gọi thông thường là rau diếp biển, rong biển mồi xanh, rong ruột, và tảo bẹ cỏ. Cho đến khi chúng được phân loại lại bằng công trình di truyền hoàn thành vào đầu những năm 2000, các thành viên hình ống của chi rau diếp biển Ulva được xếp vào chi Enteromorpha.
                                                                              (Theo Wikipedia)
*
Nói tóm lại, “tảo tần” là rau tảo và rau tần. Người xưa dùng rau tảo và rau tần để dâng lên cúng tổ tiên. Hái rau tảo và rau tần là việc chuyên trách của người phụ nữ xưa. Rau tần thường mọc hoang dại bên bờ suối, còn tảo thì sinh trưởng trong lòng suối, trong lòng biển như các loại rong, cả hai đều không dễ mà hái được. Vì đạo hiếu với tổ tiên mà người phụ nữ Trung Hoa thuở xưa lặn lội đi tìm rau Tảo rau Tần và ngâm mình trong nước nhiều giờ chăm chỉ hái rau Tần, rau Tảo về làm cỗ cúng tổ tiên là người đảm đang, đáng khen ngợi.
 
Từ phong tục cổ về thờ cúng, “tảo tần” trở thành từ chỉ chung sự đảm đang, rồi theo thời gian nghiêng về nét nghĩa chịu thương chịu khó, lo toan việc nhà... đức tính siêng năng, hay lam hay làm trong cảnh sống khó khăn của người phụ nữ.

 
                                       LA THUỴ    sưu tầm và biên tập
*
Tham khảo:
- Các bài thơ “Thái Tần” chữ Hán trong trang thi viện.net
- Tự điển Hán Việt về từ ngữ “Tần Tảo”.
-  Các loại “cỏ Tần”, cỏ Bồng, cỏ Bình, thanh hao, rau hao... trên mạng
- Wikipedia về các loại tảo
- Từ điển Phật học về từ ngữ “tần tảo”
- Trang face “Chiết tự chữ Hán”